TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI: VIỆT NAM VÀ VIỆC THỰC THI CƠNG ƯỚC
UNCLOS TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC, XUẤT
KHẨU DẦU KHÍ
Lớp học phần: 2226FECO2041
Giảng viên: Ths.Lê Quốc Cường
Nhóm: 01
Hà Nội, 2022
1
A.
Mở đầu ..................................................................................................................................................3
B.
Nội dung ................................................................................................................................................4
CHƯƠNG 1. CÔNG ƯỚC UNCLOS 1982 ............................................................................................4
1.1.
Lịch sử hình thành ...................................................................................................................4
1.2. Nội dung cơ bản của Công ước UNCLOS 1982 liên quan đến hoạt động khai thác, xuất
khẩu dầu khí .........................................................................................................................................4
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG Q TRÌNH THỰC THI CÔNG ƯỚC UNCLOS 1982 TRONG
HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC, XUẤT KHẨU DẦU KHÍ ......................................................................7
2.1. Khái qt q trình Việt Nam tham gia và thực thi Công ước UNCLOS ...............................7
2.1.1. Q trình phê chuẩn Cơng ước .................................................................................................7
2.1.2. Q trình Việt Nam thực hiện Công ước UNCLOS 1982.......................................................7
2.2. Tổng quan hoạt động khai thác và xuất khẩu dầu khí VN..................................................... 14
2.3. Ảnh hưởng của Công ước UNCLOS đến hoạt động khai thác, xuất khẩu dầu khí tại Việt
Nam..................................................................................................................................................... 22
2.3.1. Trong cơng tác quản lý nhà nước .......................................................................................... 22
2.3.2. Trong khai thác dầu khí trên biển ......................................................................................... 24
2.3.3. Trong xuất khẩu dầu khí khai thác trên biển ....................................................................... 26
2.4. Đánh giá ảnh hưởng của Công ước UNCLOS đến hoạt động khai thác, xuất khẩu dầu khí
tại Việt Nam ....................................................................................................................................... 28
2.4.1. Những thành công ................................................................................................................... 28
2.4.2. Những vấn đề tồn đọng ........................................................................................................... 29
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CƠNG ƯỚC
UNCLOS 1982 ....................................................................................................................................... 30
3.1. Về phía nhà nước........................................................................................................................ 30
3.2. Về phía doanh nghiệp ................................................................................................................ 32
C.
Kết luận .............................................................................................................................................. 34
D.
Tài liệu tham khảo............................................................................................................................. 35
2
A. Mở đầu
Ngày 16/11/1994 là dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của luật pháp quốc tế khi Công
ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) bắt đầu có hiệu lực, trở thành cơ sở pháp lý
quan trọng điều chỉnh các vấn đề liên quan đến biển và đại dương. Với vai trị là một cơng cụ pháp
lý toàn diện trong giải quyết, xử lý các vấn đề về biển, UNCLOS - “Hiến pháp của đại dương” - đã
được vận dụng hiệu quả để giải quyết nhiều tranh chấp, bất đồng trên biển, đồng thời mở ra nhiều
cơ hội hợp tác cho các quốc gia trong các vấn đề liên quan đến biển và đại dương.
Là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.260 km, với hàng nghìn hịn đảo lớn nhỏ,
trong đó gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có nhiều lợi ích gắn liền với biển.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình xây dựng
UNCLOS. Sau khi UNCLOS được thông qua, Việt Nam là một trong 107 nước đầu tiên ký và sớm
tiến hành thủ tục phê chuẩn. Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã ban hành Nghị quyết về việc phê chuẩn UNCLOS. Ngày 14/7/1994, Việt Nam đã nộp văn kiện
phê chuẩn cho Tổng thư ký Liên hợp quốc. Do vậy, ngày 16/11/1994 khi UNCLOS bắt đầu có hiệu
lực cũng đồng thời là ngày văn kiện này có hiệu lực đối với Việt Nam. Là một thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế nói chung và của UNCLOS nói riêng, Việt Nam luôn đề cao tôn chỉ
và mục tiêu của UNCLOS, đồng thời có nhiều nỗ lực trong việc thực thi Công ước, như đã khẳng
định tại Nghị quyết phê chuẩn UNCLOS: “Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về
Luật Biển 1982, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị sự quyết tâm cùng cộng đồng
quốc tế xây dựng một trật tự công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học cơng nghệ, q trình thăm dị và khai thác
nguồn tài ngun, khống sản biển, trong đó có dầu khí được tiến hành thuận lợi hơn. Tuy nhiên,
q trình thăm dị, khai thác này luôn tiềm ẩn nguy cơ gây tổn hại đến mơi trường biển, có thể phát
sinh từ các hóa chất sử dụng để thăm dị, khai thác, các chất thải độc hại thải vào môi trường, hoặc
từ các sự cố tràn dầu trong quá trình vận chuyển,... Do đó, hoạt động khai thác dầu khí cần phải
gắn liền với nguyên tắc phát triển bền vững. Trên cơ sở đó, nhóm 1 thực hiện nghiên cứu đề tài
“Việt Nam và việc thực thi công ước UNCLOS 1982 trong hoạt động khai thác, xuất khẩu dầu
khí”. Đồng thời, bài viết cũng đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi cơng ước,
góp phần hồn thiện hệ thống quy phạm pháp luật Việt Nam về phòng ngừa, xử lý và khắc phục ô
nhiễm biển do dầu - trong đó có việc xây dựng một “Nghị định phịng, chống ô nhiễm do dầu” với
ý nghĩa là văn bản pháp luật chuyên biệt và thống nhất về phòng, chống ô nhiễm dầu, đồng thời
với việc xúc tiến để tham gia các điều ước quốc tế quan trọng khác về ô nhiễm dầu và sửa đổi, bổ
sung các văn bản pháp lý có liên quan nhằm đảm bảo sự phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn
chung về ô nhiễm mơi trường theo thơng lệ quốc tế, có tính đến hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam.
3
B. Nội dung
CHƯƠNG 1. CƠNG ƯỚC UNCLOS 1982
1.1.Lịch sử hình thành
Biển và đại dương ln đóng vai trị quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế - xã hội
của các quốc gia trên toàn thế giới. Bước vào những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước, khoa
học - cơng nghệ đã có những bước phát triển vượt bậc, cho phép con người sử dụng và vươn tới
những vùng biển sâu và xa bờ để khai thác tài nguyên. Để tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động đó,
các quốc gia ven biển ban hành luật lệ mở rộng phạm vi quyền tài phán đối với các vùng biển và
thềm lục địa.
Trong khi các quốc gia có năng lực thực tế làm chủ các vùng biển và thềm lục địa khác
nhau, nếu khơng có một văn bản pháp lý quốc tế điều chỉnh phạm vi cũng như chế độ triển khai
các hoạt động trên biển và đại dương phù hợp với xu hướng phát triển chung, đồng thời duy trì an
ninh, trật tự trên biển, bảo vệ lợi ích lâu dài của cộng đồng quốc tế, sẽ dẫn đến tình trạng bất cơng,
nguy cơ khai thác cạn kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường biển.
Với cách tiếp cận nói trên, Malta, một quốc gia ven biển nhỏ bé ở châu Âu, mà đại diện là
Đại sứ Arvid Pardo, một luật gia có tầm nhìn sắc sảo và vượt trước thời đại đã khởi xướng đề nghị
Liên Hợp Quốc bảo trợ một Hội nghị quốc tế (năm 1967) soạn thảo Công ước Luật Biển.
Sau 9 năm đàm phán, với sự tham gia của hơn 150 quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế, kể cả
các tổ chức phi chính phủ Hội nghị đã thơng qua văn kiện cuối cùng là Công ước của Liên Hợp
Quốc về Luật Biển (sau đây gọi tắt là “Công ước Luật Biển 1982”) vào ngày 30/4/1982 và ngày
10/12/1982 được ấn định là ngày mở ký Công ước tại Montego Bay, Jamaica. Ngay trong ngày mở
ký đầu tiên, đã có 107 quốc gia ký Cơng ước. Điều đó cho thấy Cơng ước ra đời với sự ủng hộ
mạnh mẽ và đông đảo của cộng đồng quốc tế.
Trong số các văn kiện pháp lý quốc tế được ký kết kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai,
Công ước Luật Biển 1982 được coi là văn kiện đứng thứ hai về tầm quan trọng, chỉ sau Hiến
chương Liên Hợp Quốc.
Với 320 điều khoản và 9 Phụ lục, Công ước Luật Biển 1982 được coi là bản hiến pháp về
biển của cộng đồng quốc tế, không chỉ bao gồm các điều khoản kế thừa từ các điều ước quốc tế
trước đó về biển mà cịn pháp điển hố các quy định mang tính tập qn quốc tế, tồn tại qua một
thời gian dài trong thực tiễn của các quốc gia, cũng như những xu hướng phát triển mới trong thực
tiễn sử dụng và khai thác biển và đại dương.
1.2.Nội dung cơ bản của Công ước UNCLOS 1982 liên quan đến hoạt động khai thác, xuất
khẩu dầu khí
Theo nội dung Cơng ước, các quốc gia có chủ quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên của
mình theo chính sách và nghĩa vụ bảo vệ mơi trường biển của mình. Quốc gia cũng có quyền thực
thi các biện pháp để giữ gìn mơi trường biển đối với các chủ thể khác khi họ tiến hành thăm dò,
khai thác tài nguyên trên vùng biển của mình. Tại khoản 1 điều 194 UNCLOS 1982 cũng quy định
4
các chủ thể cần tiến hành “tất cả những biện pháp cần thiết để ngăn ngừa và chế ngự ô nhiễm môi
trường biển”.
Tại Thềm lục địa: Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với tài ngun khống sản
khơng sinh vật (chủ yếu dầu khí, kim loại, cát sỏi, v.v…) và tài nguyên sinh vật thuộc loài định cư;
quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc khoan, đào, nổ, v.v… trên thềm lục địa. Quốc gia
ven biển có quyền tài phán đối với các đảo nhân tạo, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường
biển, lắp đặt các cơng trình, thiết bị trên biển, v.v… Đồng thời, quốc gia ven biển có quyền thơng
qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm đối với môi trường biển trực
tiếp hay gián tiếp do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra,
hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình thuộc thẩm quyền tài phán của mình trên
cơ sở đảm bảo yêu cầu là những quy định này “không được kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy
phạm quốc tế hay các tập quán và thủ tục đã được kiến nghị có tính chất quốc tế (Điều 208
UNCLOS 1982). Bên cạnh đó, Điều 214 UNCLOS 1982 cũng quy định, quốc gia cịn có nghĩa vụ
thơng qua các luật lệ, quy định để đem lại hiệu lực thực thi cho các quy tắc và quy phạm quốc tế
đã được xây dựng liên quan đến hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản. Đối với các quốc gia
khác trên thềm lục địa có các quyền về tự do hàng hải; tự do bay; tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm
song phải có sự thơng báo trước với quốc gia ven biển.
Tại Vùng, thẩm quyền ban hành các quy định được ghi nhận cho hai chủ thể là quốc gia và
cơ quan quyền lực Vùng. Quốc gia có quyền ban hành quy định bảo vệ môi trường biển tại Vùng
đối với tàu thuyền, thiết bị cơng trình, phương tiện treo cờ hoặc đăng ký tại quốc gia (Điều 209
UNCLOS 1982) cũng như thông qua những quy định, luật lệ để đảm bảo việc tuân thủ nghĩa vụ
bảo vệ môi trường của bên ký kết hợp đồng. Tại điều 145 UNCLOS 1982 quy định cơ quan quyền
lực có quyền định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp, đặc biệt nhằm ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm môi trường biển.
Theo nội dung Điều 137 UNCLOS 1982 về Chế độ pháp lý của Vùng và các tài ngun
của nó quy định như sau:
- Tồn thể lồi người, mà Cơ quan quyền lực là người thay mặt có tất cả các quyền đối với
các tài nguyên của Vùng. Những tài ngun này khơng thể chuyển nhượng được. Cịn các
khống sản đã được khai thác từ Vùng thì chỉ có thể chuyển nhượng theo đúng phần này
và phù hợp với các nguyên tắc, quy định và các thủ tục của Cơ quan quyền lực. Một quốc
gia hay một tự nhiên nhân hay pháp nhân chỉ được đòi hỏi, giành lấy hoặc thực hiện các
quyền đối với các khoáng sản đã được khai thác ở Vùng theo đúng phần này. Các quyền đã
đòi hỏi, giành được hay được thực hiện bằng cách khác đều không được thừa nhận.
- Tùy theo nhu cầu, tăng thêm số lượng khoáng sản khai thác từ Vùng để cùng với các khoáng
sản khai thác từ nguồn khác, bảo đảm cung cấp cho người tiêu thụ các khoáng sản này;
5
-
Tạo điều kiện thuận lợi để hình thành giá cả đúng và ổn định đối với các khoáng sản được
khai thác từ Vùng, cũng như các khoáng sản từ các nguồn khác, có lợi cho người sản xuất
và đúng mức cho người tiêu thụ, bảo đảm sự cân bằng lâu dài giữa cung và cầu;
- Tạo cho tất cả các quốc gia thành viên, bất kể chế độ xã hội và kinh tế hay địa lý của họ
như thế nào, có những khả năng to lớn hơn trong việc tham gia khai thác các tài nguyên của
Vùng, và ngăn cản việc độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng;
- Bảo vệ các quốc gia đang phát triển, theo đúng Điều 151, khỏi những ảnh hưởng bất lợi đối
với nền kinh tế hay thu nhập về xuất khẩu của họ do việc hạ giá của một khoáng sản trong
số các khoáng sản được khai thác trong Vùng hay do sự giảm bớt khối lượng xuất khẩu loại
khoáng sản này, trong chừng mực mà việc hạ giá hay giảm bớt đó do các hoạt động tiến
hành trong Vùng gây ra;
- Khai thác di sản chung vì lợi ích của tồn thể loài người;
- Làm sao cho những điều kiện tiếp xúc với các thị trường để nhập khẩu các khoáng sản khai
thác từ Vùng và nhập khẩu những sản phẩm đầu tiên được rút ra từ những khống sản này,
khơng thuận lợi hơn những điều kiện thuận lợi nhất áp dụng cho việc nhập khẩu các khoáng
sản và các sản phẩm đầu tiên khai thác được từ các nguồn khác.
Tại thềm lục địa, do bảo vệ, giữ gìn mơi trường biển nói chung là lĩnh vực thuộc thẩm quyền
tài phán của quốc gia ven biển, nên những biện pháp trên sẽ được ghi nhận cụ thể trong các quy
định pháp luật do quốc gia ven biển ban hành. Nói tóm lại, Công ước chỉ dừng lại ở việc ghi nhận
biện pháp, còn việc quy định cụ thể và đảm bảo thực hiện ra sao sẽ hoàn toàn do pháp luật quốc
gia điều chỉnh.
6
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG Q TRÌNH THỰC THI CƠNG ƯỚC UNCLOS 1982
TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC, XUẤT KHẨU DẦU KHÍ
2.1. Khái quát quá trình Việt Nam tham gia và thực thi Cơng ước UNCLOS
2.1.1. Q trình phê chuẩn Cơng ước
Là một quốc gia ven biển có đường bờ biển dài trên 3.260 km với hàng nghìn hịn đảo lớn
nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa, Việt Nam có nhiều lợi ích gắn liền với biển.
Từ trước khi Công ước Luật Biển 1982 ra đời, Việt Nam đã tích cực vận dụng các quy định
liên quan của pháp luật quốc tế để xây dựng các văn bản pháp luật trong nước về biển.
Năm 1977, Việt Nam đã ban hành “Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển Việt Nam”,
trong đó xác lập vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, không chỉ giới hạn trong quyền đánh cá
mà cịn có các quyền chủ quyền và quyền tài phán khác. Tuyên bố này được đưa ra khi Công ước
Luật Biển 1982 đang được xây dựng, phản ánh xu thế được đa số các nước ủng hộ tại Hội nghị
Luật Biển lần thứ 3, thể hiện sự đóng góp của Việt Nam vào q trình pháp điển hóa tiến bộ luật
biển quốc tế.
Với Tuyên bố này, Việt Nam cùng với các quốc gia khác như Kenya, Myanmar, Cu Ba,
Yemen, Cộng hòa Dominica, Guatemala, Ấn Độ, Pakistan, Mexico, Seychelles được coi như những
quốc gia tiên phong trong việc đưa khái niệm vùng đặc quyền kinh tế trở thành khái niệm có giá
trị tập quán và sau này trở thành một nội dung quan trọng của Công ước Luật Biển 1982.
Việt Nam là một trong 107 quốc gia ký Công ước tại Montego Bay (Jamaica) ngay sau
khi văn kiện này được mở ký và là một trong những quốc gia phê chuẩn sớm, trước khi Cơng
ước có hiệu lực. Điều này thể hiện thiện chí, sự coi trọng và kỳ vọng của Việt Nam vào một trật
tự pháp lý mới về biển và đại dương.
Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn Công ước Luật
Biển, do vậy, ngày 16/11/1994, khi UNCLOS bắt đầu có hiệu lực cũng đồng thời là ngày văn kiện
này có hiệu lực đối với Việt Nam. Trong đó khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với nội thủy,
lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của luật
pháp quốc tế, yêu cầu các nước tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam.
2.1.2. Q trình Việt Nam thực hiện Công ước UNCLOS 1982
Thể hiện trách nhiệm và thiện chí của một quốc gia thành viên Cơng ước, trong những năm
qua Việt Nam luôn tôn trọng và thực thi đầy đủ các nghĩa vụ theo Công ước, từng bước hoàn thiện
hệ thống pháp luật quốc gia, vận dụng các quy định của Công ước trong xác định các vùng biển và
phân định ranh giới biển với các nước láng giềng, quản lý và sử dụng biển, đồng thời hợp tác với
các nước trong các lĩnh vực biển phù hợp với các quy định của Công ước theo hướng bảo tồn và
sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển, phục vụ phát triển bền vững.
7
Xây dựng và hồn thiện chính sách về biển.
Đảng đã xây dựng tầm nhìn và ban hành nhiều chủ trương, chính sách về biển, đảo thể
hiện qua các văn kiện Đại hội của Đảng.
Đây là cơ sở để các cơ quan Nhà nước thể chế hóa các chính sách của Đảng nhằm quản lý
các hoạt động khai thác, sử dụng biển. Trước hết và quan trọng nhất là "Chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020" được ban hành tại Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng Khóa X và "Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến 2030,
tầm nhìn đến 2045" tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XII.
Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện "Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020", phù hợp
với bối cảnh mới, "Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến
2045" đã được thơng qua tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII.
Theo đó, đến năm 2030 Việt Nam sẽ trở thành quốc gia biển mạnh, hình thành văn hóa sinh
thái biển, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ngăn chặn xu thế ơ nhiễm, suy
thối mơi trường biển, với những mục tiêu cụ thể là các ngành kinh tế biển phát triển bền vững
theo các chuẩn mực quốc tế, kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ
sinh thái biển; đánh giá được tiềm năng, giá trị các tài nguyên biển quan trọng, thiết lập bộ cơ sở
dữ liệu số hóa về biển, đảo; ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển, tiên
phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương; quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái
biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích
tự nhiên vùng biển quốc gia; năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần, quan trắc,
giám sát mơi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng đạt trình độ ngang tầm với các nước
tiên tiến trong khu vực…
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển.
Nhiều luật chuyên ngành về biển và các lĩnh vực kinh tế biển đã được ban hành.
Trong đó, đáng chú ý là Luật Dầu khí sửa đổi các năm 2008 và 2005 (sửa đổi Luật Dầu khí
1993); Luật Bảo vệ môi trường 2014 (thay thế Luật Bảo vệ môi trường 1993 và 2005); Luật Biên
giới quốc gia 2003; Luật Thủy sản 2017 (thay thế Luật Thủy sản 2003); Bộ Luật Hàng hải Việt
Nam 2015 (thay thế Bộ Luật Hàng hải Việt Nam 2005); Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải
đảo 2015; Luật Quy hoạch 2017; Luật Cảnh sát biển Việt Nam 2018.
Để triển khai hiệu quả các văn bản luật nêu trên, một loạt các văn bản quy phạm pháp luật,
chỉ đạo điều hành đã được ban hành. Có thể kể đến Nghị định số 61/2019/NĐ-CP ngày 10/7/2019
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam; Nghị định số
29/2019/NĐ-CP ngày 08/3/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thủy sản
trong đó có quy định về các biện pháp phòng, chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo
và không theo quy định; Nghị định số 42/2019/NĐ-CP ngày 16/5/2019 quy định xử phạt vi phạm
8
hành chính trong lĩnh vực thủy sản; Quyết định số 596/QĐ-TTg ngày 20/5/2019 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không
báo cáo và không theo quy định...
Việc trở thành thành viên UNCLOS đòi hỏi Việt Nam phải có một đạo luật riêng và tổng
thể về biển. Trong bối cảnh đó, ngày 21/6/2012, Luật Biển Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam
thơng qua, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2013. Luật Biển Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các
quy định của UNCLOS và pháp luật quốc tế.
Với việc thông qua Luật Biển Việt Nam, lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản luật quy
định đầy đủ chế độ pháp lý của các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt
Nam theo đúng UNCLOS.Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Việt Nam thực hiện quản lý, bảo vệ
và phát triển kinh tế biển, đảo của mình.
Giải quyết tranh chấp và xử lý các vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế
Trên cơ sở các quy định của UNCLOS, Việt Nam đã tiến hành đàm phán và ký với các
nước láng giềng một số điều ước quốc tế về phân định biển. Cụ thể :
- Với Campuchia, Việt Nam đã ký Hiệp định về vùng nước lịch sử ngày 7/7/1982 (có hiệu
lực kể từ ngày 7/7/1982);
- Với Thái Lan, Việt Nam đã ký Hiệp định về phân định ranh giới trên biển trong Vịnh Thái
Lan ngày 9/8/1997 (có hiệu lực kể từ ngày 27/2/1998);
- Với Trung Quốc, Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000 (có hiệu lực kể từ ngày 30/6/2004);
Với Indonesia, Hiệp định về phân định ranh giới thềm lục địa ngày 26/6/2003 (có hiệu lực
kể từ ngày 29/5/2007).
Hiện nay, Việt Nam đang tích cực thúc đẩy đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh
Bắc Bộ và đã trải qua 11 vòng đàm phán với Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành
8 vịng đàm phán Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển, 13 vịng đàm phán Nhóm
cơng tác về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển Việt Nam - Trung Quốc. Việt Nam
tiến hành đàm phán, đối thoại với các quốc gia ven biển khác.
Thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo quy định tại Điều 76 UNCLOS,
Việt Nam đã xây dựng và đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên hợp quốc (CLCS)
báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa, theo đó, xác định phạm vi thềm lục địa mở rộng của
Việt Nam ở Biển Đông; báo cáo chung với Malaysia về ranh giới ngoài thềm lục địa khu vực phía
Nam Việt Nam - Malaysia theo đúng thời hạn quy định của Liên hợp quốc. Trong các ngày 27 và
28/8/2019, Việt Nam đã trình bày hai bản báo cáo này tại CLCS, đồng thời đề nghị CLCS sớm
thành lập các Tiểu ban để xem xét trên cơ sở phù hợp với các quy định của UNCLOS cũng như
Quy tắc hoạt động của CLCS.
Liên quan đến tranh chấp ở Biển Đơng, Việt Nam ln kiên trì u cầu tơn trọng luật pháp
quốc tế, trong đó có UNCLOS, coi đây là cơ sở cho việc giải quyết bất đồng giữa các bên. Cùng
-
9
với các nước ASEAN, Việt Nam đã nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN và
giữa ASEAN với Trung Quốc, trong đó quan trọng nhất là Tuyên bố về cách ứng xử của các bên
ở Biển Đông ngày 4/11/2002 (DOC) cũng như Tuyên bố 6 điểm ngày 20/7/2012 của ASEAN về
Biển Đơng.
Trong bối cảnh có nhiều diễn biến phức tạp trên Biển Đông hiện nay, Việt Nam kiên trì
quan điểm tơn trọng và tn thủ đầy đủ UNCLOS, tơn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý,
khơng có những hành động diễn giải sai trái hay cố tình hạ thấp ý nghĩa, vai trị của công ước. Bất
cứ yêu sách nào về biển cũng phải được xây dựng trên cơ sở và trong phạm vi cho phép của
UNCLOS. Khi có bất đồng hoặc khác biệt liên quan đến giải thích và áp dụng cơng ước, các bên
liên quan cần giải quyết thông qua thương lượng hoặc các biện pháp hịa bình khác, phù hợp với
luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.
Quản lý có hiệu quả và triển khai các hoạt động kinh tế biển
Chính phủ Việt Nam luôn bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong triển
khai các hoạt động kinh tế biển, quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên biển phù hợp với các
quy định của UNCLOS. Nhờ đó, kinh tế biển của Việt Nam đã có những phát triển tích cực, đời
sống của người dân được nâng cao, phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường biển. Kinh tế
biển và ven biển đã đóng góp đáng kể vào GDP của cả nước, thu nhập bình quân đầu người của
người dân ven biển tăng lên.
Việt Nam cũng chú trọng phát triển khoa học - cơng nghệ biển. Nhiều chương trình khoa
học - công nghệ biển đã và đang được triển khai và thu được những kết quả tích cực. Các chương
trình khoa học - công nghệ biển đã cung cấp được những cơ sở khoa học cho phát triển bền vững
và quản lý tổng hợp vùng đới bờ, dự báo ngư trường phục vụ khai thác hải sản xa bờ, ứng dụng
công nghệ nuôi trồng thủy sản, ứng dụng năng lượng thủy triều vào mục đích sản xuất điện, dự báo
sớm thời tiết khắc nghiệt như bão, mưa lớn, sóng thần; nâng cao khả năng và cải thiện đáng kể độ
chính xác của các dự báo làm cơ sở cảnh báo, giảm thiểu rủi ro cho các hoạt động trên biển và khu
vực ven bờ.
Việt Nam cũng coi trọng công tác bảo vệ mơi trường biển và ven biển, phịng, chống thiên
tai và ứng phó với biến đổi khí hậu với quan điểm không đánh đổi môi trường để phát triển kinh
tế; phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế phải song hành với
bảo vệ môi trường, hướng đến tăng trưởng xanh, phát triển bền vững kinh tế đất nước. Để thực
hiện những mục tiêu này, một loạt các biện pháp đã được triển khai như ban hành Chỉ thị số 25/CTTTg ngày 31/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách bảo vệ môi
trường; Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc
gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
Về nhiệm vụ ứng phó với biến đổi khí hậu, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Thỏa thuận
Paris về biến đổi khí hậu tại Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 31/10/2016 và Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris tại Quyết định số 2053/QĐ-TTg ngày 28/10/2016
10
ngay trước thềm Hội nghị các quốc gia thành viên Cơng ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi
khí hậu lần thứ 22 (COP22) thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong cơng tác ứng phó với biến đổi khí
hậu. Để thực hiện mục tiêu số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững biển và đại dương trong khuôn
khổ các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc, ngày 10/5/2017, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 622/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện
Chương trình nghị sự 2030 về sự phát triển bền vững.
Để giải quyết vấn đề rác thải nhựa đại dương, nhằm hiện thực hóa mục tiêu “Ngăn ngừa,
kiểm sốt và giảm đáng kể ơ nhiễm mơi trường biển, tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất
thải nhựa đại dương” như nêu tại Chiến lược phát triển về vững kinh tế biển Việt Nam đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam đã và đang triển khai một loạt các biện pháp trong đó có
việc xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030 với
các nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ để quản lý, hạn chế, giảm thiểu, xử lý rác thải đại dương; đồng
thời tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế trao đổi kinh nghiệm và đề xuất giải pháp xử lý vấn
đề này.
Việt Nam tham gia và có những đóng góp tích cực
Hàng năm, Việt Nam tích cực tham gia thảo luận cùng với các nước về Nghị quyết của Đại
hội đồng Liên hợp quốc về “Đại dương và Luật Biển”; tham gia tiến trình tư vấn khơng chính thức
của Đại Hội đồng Liên hợp quốc về đại dương và Luật biển. Là thành viên Hội đồng Cơ quan
quyền lực quốc tế đáy đại dương (ISA) của hai nhiệm kỳ (2007-2011) và (2011-2014), Việt Nam
đã có những đóng góp trong xây dựng các văn kiện của ISA.
Tại các diễn đàn quốc tế liên quan, Việt Nam luôn kêu gọi các quốc gia phải tuân thủ các quy định
của UNCLOS, sử dụng biển một cách hịa bình, tơn trọng quyền và lợi ích chính đáng của các quốc
gia khác ở trong và ngoài khu vực.
Tăng cường hợp tác quốc tế về biển
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia, trong đó đã thiết lập 3 quan
hệ đối tác chiến lược toàn diện, 13 quan hệ đối tác chiến lược và 12 quan hệ đối tác toàn diện.
Trong đó, đáng chú ý là quan hệ đối tác với nhiều nước bao gồm các lĩnh vực khác nhau liên quan
đến biển, tạo cơ sở tốt cho việc hợp tác cũng như tận dụng sự hỗ trợ để phát triển kinh tế, khoa học
- công nghệ và bảo vệ mơi trường biển.
Hình thức hợp tác quốc tế về biển đa dạng, thông qua việc tham gia các điều ước quốc tế
về biển (28 điều ước quốc tế song phương và 29 điều ước quốc tế đa phương), trong đó gồm các
điều ước quốc tế đa phương như Công ước của Tổ chức vệ tinh hàng hải ngày 3/9/1976, Công ước
về tạo thuận lợi trong giao thông hàng hải quốc tế ngày 9/4/1965, Công ước quốc tế về mạn khô
tàu biển ngày 5/4/1966, Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra ngày 2/11/1973 và
Nghị định thư bổ sung ngày 17/2/1978, Công ước quốc tế về tìm kiếm và cứu nạn hàng hải ngày
27/4/1979, Cơng ước về ngăn chặn các hành vi trái pháp luật chống lại an tồn hành trình hàng hải
11
ngày 10/3/1988 và Nghị định thư về ngăn chặn các hành vi trái pháp luật chống lại an toàn của
những giàn khoan cố định ở thềm lục địa ngày 10/3/1988…
Các điều ước quốc tế khu vực gồm Hiệp định khung ASEAN về tạo điều kiện thuận lợi cho
vận tải hàng hóa quá cảnh ngày 16/12/1998, Hiệp định hợp tác khu vực về chống cướp biển và
cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền tại châu Á ngày 04/5/2006, Bản ghi nhớ giữa ASEAN và
Trung Quốc về cơ chế tham vấn hàng hải ngày 12/11/2010, Hiệp định khung ASEAN về tạo điều
kiện cho vận tải liên quốc gia 26/3/2012, Thỏa thuận cơ chế hợp tác ASEAN về phòng ngừa và xử
lý sự cố tràn dầu ngày 28/11/2014; các điều ước quốc tế song phương như Thỏa thuận với
Philippines về hợp tác trong lĩnh vực ứng phó sự cố tràn dầu ngày 26/10/2010, Thỏa thuận hợp tác
biển và nghề cá với Myanmar năm 2010, Hiệp định với Chính phủ Liên bang Nga về hợp tác nghề
cá ký ngày 16/6/1994…
Hợp tác quốc tế đi vào chiều sâu và phong phú
Nội dung hợp tác quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu và phong phú, trải rộng từ khai thác
tài nguyên biển và kinh tế biển như dầu khí, thủy sản, du lịch biển, đảo, vận tải biển, khai thác cảng
biển đến bảo tồn tài nguyên, môi trường biển, điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển, phát
triển khoa học - công nghệ biển, thu hút nguồn vốn ODA và các nguồn vốn khác đầu tư về cơ sở
hạ tầng, các cơng trình phòng chống thiên tai cho các xã vùng ven biển, tăng cường năng lực phịng
tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu…
Cụ thể như sau:
Về lĩnh vực thủy sản, Việt Nam tích cực hợp tác với các nước trong lĩnh vực này, đặc biệt
là về chống khai thác IUU. Việt Nam đã ký kết 4 điều ước quốc tế và 17 thỏa thuận quốc tế về các
lĩnh vực liên quan đến nghề cá và hợp tác trên biển với các nước trong và ngoài khu vực như
Malaysia, Myanmar, Indonesia, Ai Cập, Liên bang Nga…
Về du lịch biển, Việt Nam hiện đang triển khai các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ thỏa
thuận với Philippines và Singapore về phát triển du lịch tàu biển; hợp tác phát triển hành lang ven
biển phía Nam giữa tỉnh Cà Mau, Kiên Giang với Campuchia và tỉnh Trat (Thái Lan); tiếp nhận và
triển khai các hỗ trợ kỹ thuật về du lịch khu vực ven biển tại nhiều địa phương, thu hút đầu tư nước
ngoài vào ngành du lịch biển, đảo.
Về bảo tồn tài nguyên và môi trường biển, nội dung hợp tác quốc tế tập trung vào tăng
cường khả năng ứng phó với những tác động của biến đổi khí hậu tới mơi trường biển và các tài
ngun biển Việt Nam
Về điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển, các dự án hợp tác tập trung vào các nội
dung điều tra, khảo sát về tiềm năng tài nguyên biển như tiềm năng khí hydrate; đặc trưng, đặc
điểm của bờ biển, đáy biển, địa chất, địa mạo, dòng chảy, sóng, độc tố biển, trầm tích biển, hiện
tượng nước trồi cũng như hệ sinh thái và môi trường biển Việt Nam, trắc địa, nghiên cứu địa chất,
khoáng sản biển, tài nguyên – môi trường vùng biển sâu xa bờ khu vực Trung và Nam Trung Bộ.
12
Về phát triển khoa học, công nghệ biển, các dự án tập trung vào việc nghiên cứu các công
nghệ ứng phó, xử lý với sự cố tràn dầu, dầu loang trên biển, công nghệ vận tải bằng tàu biển sinh
vật độc hại, …; tổ chức các hội thảo, hội nghị quốc tế trao đổi chuyên môn về khoa học, công nghệ
biển và hàng hải; đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ tham gia các dự án liên quan, nâng cao
nhận thức cho người dân ở các vùng miền nơi dự án được triển khai.
Về bảo đảm an ninh, an toàn trên biển, Việt Nam tham gia hợp tác quốc tế và thực hiện các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong lĩnh vực này, đặc biệt là Công ước tạo thuận lợi
giao thông hàng hải quốc tế. Việt Nam phối hợp với Tổ chức Di trú quốc tế (IMO) thực hiện Dự
án Xây dựng năng lực và chiến dịch truyền thông cộng đồng chống đưa người di cư trái phép tại
Việt Nam.
Các cơ quan chức năng của Việt Nam đã ký kết và triển khai các thỏa thuận về chia sẻ thông
tin, phối hợp giữa Hải quân, Cảnh sát biển Việt Nam với lực lượng chức năng của các nước như
Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Campuchia; thiết lập đường dây nóng giữa Hải quân Việt Nam với
Hải quan Brunei, Campuchia, Thái Lan… Việt Nam đã phối hợp cứu vớt ngư dân Philippines gặp
nạn trên biển, phối hợp với Indonesia bắt giữ tàu cướp biển… Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này
tạo điều kiện thuận lợi tiến hành các hoạt động hợp tác phòng chống tội phạm xuyên quốc gia trên
biển, phối hợp giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh, không để xảy ra xung đột trên biển…
Hoạt động hợp tác quốc tế về biển đã góp phần quan trọng vào việc tăng cường tin cậy
chính trị, quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước để từng bước giải quyết các tranh
chấp trên biển; tạo dựng môi trường hịa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới; đồng thời,
giúp huy động các nguồn lực, tri thức cần thiết để phục vụ cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; biểu thị rõ quyết tâm của Việt Nam trong việc thực thi đầy đủ những nội dung của
UNCLOS.
13
2.2. Tổng quan hoạt động khai thác và xuất khẩu dầu khí VN
Hoạt động khai thác
Hoạt động tìm kiếm thăm dị và khai thác dầu khí của Petrovietnam đã được triển khai từ
rất sớm (năm 1961), chủ yếu được thực hiện với sự giúp đỡ của Liên Xơ tại phía Bắc. Sau khi Việt
Nam có chính sách đổi mới năm 1986 và ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, cơng tác
tìm kiếm, thăm dị dầu khí được triển khai mạnh mẽ, nhất là trên thềm lục địa. Nhiều cơng ty đã
phát hiện dầu khí như Total ở vịnh Bắc Bộ, Shell ở biển miền Trung, ONGC và BP ở bể trầm tích
Nam Cơn Sơn…
Trong giai đoạn đầu, hoạt động tìm kiếm thăm dị chủ yếu do các cơng ty dầu khí nước
ngồi thực hiện và Petrovietnam chỉ chính thức góp vốn đầu tư khi có phát hiện thương mại. Đến
nay, Petrovietnam đã có thể tự thực hiện tìm kiếm thăm dị dầu khí bằng cách tự lực hoặc hợp tác
với đối tác nước ngồi, khơng chỉ thực hiện với các lơ có tiềm năng gần bờ mà cịn thực hiện tìm
kiếm thăm dị tại các lơ nước sâu, xa bờ. Nhờ đó, hàng năm Petrovietnam đều có trữ lượng dầu khí
gia tăng. Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015, trữ lượng dầu khí gia tăng của Petrovietnam
lần lượt là 43; 35,6; 48,32; 40,5 triệu tấn quy dầu.
Việt Nam bắt đầu khai thác khí từ năm 1981 (mỏ khí Tiền Hải C - Thái Bình) và khai thác
dầu cùng với khí đồng hành từ năm 1986 (mỏ Bạch Hổ ở thềm lục địa phía Nam). Từ đó, Việt Nam
bắt đầu có tên trong danh sách các nước khai thác, xuất khẩu dầu thô trên thế giới. Những năm qua,
Ngành Dầu khí Việt Nam đã nỗ lực đẩy mạnh cơng tác tìm kiếm, thăm dị, phát triển mỏ. Q trình
tìm kiếm thăm dị trong giai đoạn 2011 - 2015 đã đưa được 36 mỏ và cơng trình dầu khí mới vào
khai thác. Trong đó, năm 2011 có 3 mỏ trong nước: Đại Hùng pha 2, Tê Giác Trắng, Chim Sáo và
2 mỏ nước ngoài: Visovoi, Dana. Năm 2012 có 7 mỏ/cơng trình được đưa vào khai thác bao gồm
4 mỏ/cơng trình trong nước và 3 mỏ ở nước ngoài. Năm 2013 và 2014 số lượng mỏ đưa vào khai
thác tăng mạnh và đạt 9 mỏ mỗi năm. Năm 2015 chỉ có 4 mỏ mới được đưa vào khai thác. Trong
giai đoạn 2016-2020, Việt Nam đã đưa được 15 mỏ, cơng trình mới vào hoạt động.
14
Biểu đồ 1. Sản lượng khai thác dầu thô hàng năm giai đoạn 1986-2022 (đơn vị: BBL/D/1K)
Nguồn: Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ
Từ biểu đồ 1, sản lượng khai thác dầu thô của cả nước tăng ổn định từ sau chính sách đổi
mới năm 1986 và đạt đỉnh vào năm 2004 với trên 20 triệu tấn/năm. Riêng năm 2014, Tập đồn Dầu
khí Quốc gia Việt Nam đã khai thác được 17,39 triệu tấn dầu thô. Sản lượng dầu thô tăng lên 18,75
triệu tấn trong năm 2015. Lượng dầu thơ khai thác bị giảm dần đến 2020 chỉ cịn 11,47 triệu tấn.
Nguyên nhân là, phần lớn các mỏ dầu khí đang khai thác ở nước ta được đưa vào khai thác trong
giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2015. Trong đó, các mỏ có đóng góp sản lượng lớn đều đã khai
thác được 15 - 35 năm, đang ở giai đoạn khai thác cuối đời mỏ, độ ngập nước cao và tiếp tục tăng
theo thời gian. Độ ngập nước trung bình của các mỏ này hiện ở mức 50 - 90%, dẫn đến sản lượng
suy giảm tự nhiên 15 - 25%/năm. Đây cũng là thực tế chung ở giai đoạn cuối đời của các mỏ trên
thế giới.
15
Biểu đồ 2. Sản lượng khai thác dầu khí của Petrovietnam giai đoạn 1981-2015
Nguồn: Báo cáo Thường niên Petrovietnam
Từ năm 1985 đến năm 1997, sản lượng dầu khí tăng khơng đáng kể, đà tăng mạnh diễn ra
trong giai đoạn 1997 đến 2015 (Biểu đồ 2). Theo số liệu thống kê của Petrovietnam, tính đến tháng
12/2015 tổng sản lượng khai thác khí đạt trên 111,88 tỷ m3, riêng năm 2015 đạt 10,67 tỷ m3.
16
Biểu đồ 3. Sản lượng khai thác khí tự nhiên từ 2016 – 2021 (tỷ m3)
Nguồn: Statista
Trong những năm gần đây, việc suy giảm sản lượng khai thác là một thách thức rất lớn mà
ngành dầu khí phải đối mặt: sản lượng tự nhiên hằng năm giảm 5-8% do hầu hết các mỏ khí lớn đã
khai thác quá lâu, trong khi hệ số bù trữ lượng không đảm bảo do thời gian qua việc đầu tư phát
triển mỏ mới gặp nhiều vướng mắc về cơ chế; các mỏ đưa vào khai thác chủ yếu là mỏ nhỏ, cận
biên,... Năm 2020, sản lượng khai thác khí đạt 9,03 tỷ m3. Năm 2021, sản lượng khí tự nhiên giảm
19,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2022, ngành dầu khí đã khai thác đạt 2,74 triệu
tấn, vượt 25% kế hoạch đề ra cho quý I và tăng 1% so với cùng kỳ năm 2021. Trong 6 tháng đầu
năm 2022, Tập đồn dầu khí Việt Nam đạt sản lượng khai thác dầu thô là 5,48 triệu tấn, vượt 23%
kế hoạch 6 tháng và bằng 63% kế hoạch năm 2022, bằng 100% so với cùng kỳ năm 2021. Sản
lượng khai thác 6 tháng vượt cao so với kỳ vọng là do đa phần các mỏ khai thác chủ lực đạt hệ số
thời gian hoạt động cao. Công tác quản trị sản lượng khai thác tại các lơ/mỏ chủ lực của Tập đồn
được tăng cường tối đa, áp dụng hiệu quả, kịp thời các giải pháp, biện pháp kỹ thuật gia tăng sản
lượng. Trong đó, Liên doanh Việt – Nga Vietsopetro đã xuất sắc hoàn thành vượt mức các kế hoạch
được giao, khai thác hơn 1571 nghìn tấn dầu/condensate, vượt 84,7 nghìn tấn so với kế hoạch 6
tháng 2022, đạt hơn 98% so với cùng kỳ năm 2021. Tổng cơng ty Thăm dị Khai thác Dầu khí
(PVEP) đã đảm bảo an tồn, hoạt động khai thác ổn định các mỏ. Production uptime trung bình đạt
khoảng 99%, 12/14 dự án hồn thành vượt mức kế hoạch sản lượng khai thác đã góp phần giúp
Tổng cơng ty hồn thành chỉ tiêu sản lượng khai thác và các chỉ tiêu kế hoạch tài chính được giao.
Sản lượng khai thác của PVEP trong 6 tháng đạt 1,9 triệu tấn quy dầu, bằng 117% kế hoạch 6 tháng
và 60% kế hoạch năm. Cơng ty Điều hành Dầu khí Biển Đông (BIENDONG POC) đạt sản lượng
17
khai thác khí đạt 108% kế hoạch 6 tháng, tương đương 53% kế hoạch năm. Sản lượng khai thác
condensate đạt 126% kế hoạch 6 tháng đầu năm 2022, tương ứng 65% kế hoạch năm.
Tuy nhiên, hoạt động khai thác dầu khí đã và đang gây ra các tác động tiêu cực đến mơi
trường như:
Ơ nhiễm mơi trường khơng khí: đây là hậu quả do việc đốt dầu và khí tự nhiên, hoặc do các
chất phát thải trong quá trình khai thác dầu khí. Các chất ơ nhiễm do việc đốt dầu khí là CO, nitơ
oxit, oxit lưu huỳnh, Hydro sunfua (H2S), vật chất dạng hạt (PM) và chì (Pb). Các chất ơ nhiễm
phát thải trong q trình khai thác dầu khí gồm: các hợp chất dễ bay hơi (VOC) bao gồm benzen,
formaldehyde và các chất độc hại khác.
Hình 1. Giàn Tam Đảo 01 của Vietsopetro
Hình 2. Hình ảnh người dân mang xơ, chậu ra hớt dầu trên đồng ruộng
Ơ nhiễm mơi trường nước: việc khai thác dầu khí có thể gây ơ nhiễm nguồn nước ngọt trong
q trình khoan, khai thác, lọc dầu, vận chuyển… do rò rỉ đường ống dẫn dầu, tràn dầu, dung dịch
18
khoan và mùn khoan thải ra từ các cơng trình dầu khí trên biển; khí thải, nước thải trong cơng
nghiệp lọc – hóa dầu, đạm, hóa phẩm dầu khí; các chất thải ra môi trường biển khi thu dọn mỏ,…
Đồng thời, khí metan và các chất VOC có thể ngấm vào nguồn nước ngầm gần giếng khí đốt nếu
giếng được xây dựng kém hoặc bị vỡ.
Hình 3. Dầu tràn đậm đặc trôi dạt vào các lồng nuôi thủy sản ở phường Hải Cảng, TP.Quy Nhơn
năm 2013.
Ơ nhiễm mơi trường đất: Những sự cố tràn dầu trên đất liền có thể xảy ra do rò rỉ đường
ống, phụt bể chứa, rò rỉ từ quá trình tinh chế lọc dầu, tai nạn khoan,… Điều nay ngăn cản nước
thấm vào đất, gây hại cho đời sống thực vật, hệ sinh thái và sức khỏe con người.
Hình 4. Sự cố tràn dầu trên đất liền
Có thể thấy, trong các ngun dẫn dẫn đến ơ nhiễm mơi trường biển thì sự cố tràn dầu chính
là tác nhân dẫn đến các tác động tiêu cực lớn nhất đối với môi trường, ảnh hưởng trầm trọng đến
các hệ sinh thái. Khi xảy ra các vụ tràn dầu, hàm lượng dầu trong nước tăng cao, các màng dầu làm
giảm khả năng trao đổi oxi giữa khơng khí và nước, làm giảm oxi trong nước, làm cán cân điều
hòa oxi trong hệ sinh thái bị đảo lộn. Bên cạnh đó, dầu tràn cịn chứa rất nhiều độc tố làm tổn
19
thương hệ sinh thái, có thể gây suy vong hệ sinh thái. Bởi dầu chứa nhiều thành phần khác nhau
làm biến đổi, phá hủy cấu trúc tế bào sinh vật, có khi gây chết cả quần thể. Dầu thấm vào cát, bùn
ở ven biển có thể gây ảnh hưởng đến môi trường trong một khoảng thời gian rất dài. Đã có rất
nhiều trường hợp các lồi sinh vật chết hàng loạt do tác động của sự cố tràn dầu. Khi dần tràn
không được thu gom kịp thời sẽ gây thiệt hại lớn cho ngành khai thác và nuổi trồng thủy sản, hải
sản, có thể dần tới tình trạng cá chết hàng loạt do thiếu oxi hòa tan trong nước.
Theo Thống kê Hiệp hội các chủ hàng chở dầu quốc tế. Trong số 39 quốc gia được thống
kê thì Việt Nam là nước có sự cố tràn dầu đứng thứ 3 trên thế giới (chỉ sau Trung Quốc và Hoa
Kỳ). Theo Tổng Thư ký Hội bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam cho biết, từ năm 1992
đến nay có khoảng 190 sự cố tràn dầu xảy ra tại Việt Nam, trong đó, có 37 vụ ngồi khơi (19%),
88 vụ ven bờ (47%) và 65 vụ trên đất liền (34%). Đa số các vụ tràn dầu đều xảy ra do tàu mắc cạn,
tai nạn va chạm tàu trong quá trình vận chuyển.
Một số vụ việc tràn dầu
Sự cố dầu vón cục trôi dạt vào bờ biển Tam Thanh, TP.Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam tạo thành
vón rác trên phạm vi bờ biển dài hơn 7km từ thơn Hịa Hạ đến Tỉnh Thủy vào đầu năm 2020, trước
đó, vào tháng 2/2017, tỉnh Quảng Nam cũng đã ghi nhận 8,277 tấn rác thải nguy hại gồm dầu vón
cục và rác thải dính dầu trôi dạt vào bờ biển huyện Núi Thành.
Sự cố tràn dầu ở Đà Nẵng diễn ra vào tháng 1/2021: tàu dầu ĐNA 0607 của Công ty TNHH
Thương mại và Dịch vụ Hòa Khánh mới hạ thủy đang bơm dầu thử cột bơm thì xảy ra sự cố dẫn
đến chìm tàu, trên tàu chứa khoảng 4m3 dầu DO, lượng dầu thoát ra ngoài loang trên bề mặt khoảng
20m2. Nhận được tin báo, các lực lượng chức năng đã kịp thời khoanh vùng và khống chế vết dầu
loang và tiến hành thu gom dầu.
Sự cố tràn dầu rò rỉ từ con tàu PVT Dragon mang số hiệu IMO 9140580 (thuộc sở hữu của
Công ty TNHH xăng dầu Giang Nam, trụ sở tại Hải Phòng) (năm 2021) đã bất cẩn để một lượng
dầu tràn ra mặt biển trong quá trình bốc dỡ dầu vào Tổng khi xăng dầu Vũng Áng của Công ty CP
xăng dầu, dầu khí Vũng Áng. Nhận được thơng tin, lãnh đạo địa phương đã chỉ đạo, phối hợp với
2 công ty trên để khắc phục sự cố.
Xuất khẩu dầu khí
Từ 1986, dịng dầu thơ đầu tiên được khai thác tại mỏ Bạch Hổ. Tháng 4 năm 1987 Việt
Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô. Dầu thô luôn là sản phẩm có vai trị chiến lược trong các mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam. Ngoại tệ mang lại từ xuất khẩu dầu thơ có ý nghĩa rất quan trọng đối với
nền kinh tế nhập siêu như Việt Nam, giúp đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu ngoại tệ cho nhập
khẩu, cho các giao dịch thanh toán quốc tế cũng như trả các nguồn vay nợ nước ngoài của Nhà
nước. Từ khi được khai thác đến nay, giá trị xuất khẩu dầu thô luôn chiếm tỷ trọng cao so với các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác.
20
Biểu đồ 4. Sản lượng xuất khẩu dầu thô của Việt Nam từ năm 1987 đến năm 2020 (USD)
Nguồn: Organization of the Petroleum Exporting Countries
Bảng 1. Khối lượng và trị giá xuất khẩu dầu thô giai đoạn 2015 - 2021
Năm
2017
2018
2019
2020
2021*
Khối lượng (nghìn tấn)
9486,4
3961,0
3976,2
4656,8
3125,3
Trị giá (triệu USD)
3823,8
2196,8
2045,8
1572,8
1745,9
*Sơ bộ
Nguồn: Niên giám Thống kê 2021 của Tổng cục Thống kê
Dựa vào số liệu biểu đồ trên, ta có thể thấy Việt Nam đã xuất khẩu 1 lượng lớn dầu thô ra
thế giới, trở thành nước xuất khẩu dầu thô chủ lực. Dầu thô là sản phẩm quan trọng và có vị trí
chiến lược trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Năm 2005, tổng giá trị xuất khẩu dầu thô đạt cao nhất, chiếm 26,41% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước, đạt 7,37 tỷ USD. Đến năm 2015 đã giảm xuống 3,806 tỷ USD chiếm 2,34%. Số liệu
trên cho thấy kim ngạch xuất khẩu dầu thô giảm mạnh so với thời gian trước đó (Bảng 1).
Theo số liệu trong Niên giám Thống kê 2021 của Tổng cục Thống kê, năm 2020, Việt Nam
xuất khẩu gần 1,6 tỷ USD dầu thô, trở thành nước xuất khẩu dầu thô lớn thứ 31 trên thế giới, tương
đương xuất khẩu hơn 4,6 triệu tấn. Năm 2021 Việt Nam xuất khẩu hơn 3,1 triệu tấn dầu thô, với
giá trị xuất khẩu là trên 1,76 tỷ USD, xuất khẩu được báo cáo ở mức 67,909 thùng/ngày. Trong 5
tháng đầu năm 2022, xuất khẩu dầu thô của Việt Nam đạt 165,5 nghìn tấn, tương đương 182 triệu
USD, giảm 28% về lượng và giảm 18% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021. Giá dầu thơ xuất khẩu
trung bình trong 5 tháng đầu năm 2022 cũng đạt 866 USD/tấn, tăng 78,5% so với cùng kỳ năm
21
2021. Do sản lượng sản xuất dầu thô giảm, nên kéo theo giảm lượng dầu thô xuất khẩu trong các
năm gần đây. Tuy nhiên, hiện nay giá dầu của thế giới tăng mạnh gây biến động tới giá dầu xuất
khẩu của các nước và trong đó có Việt Nam.
Các thị trường nhập khẩu dầu thô của Việt Nam là các nước Đông Nam Á (Singapore,
Malaysia, Thái Lan...), Hàn Quốc, Trung Quốc. Đây là những thị trường Việt Nam có thể tận dụng
ưu đãi thuế nhập khẩu từ các hiệp định thương mại tự do đã ký.
Như vậy, Việt Nam là một nước có số lượng xuất khẩu dầu thơ khá lớn, phục vụ cho nhiều
nước trên thế giới, giải quyết nguyên liệu đầu vào cho các quốc gia. Tuy nhiên, Việt Nam cũng
nhập khẩu một lượng lớn dầu thô trên thế giới.
2.3. Ảnh hưởng của Công ước UNCLOS đến hoạt động khai thác, xuất khẩu dầu khí tại
Việt Nam
2.3.1. Trong công tác quản lý nhà nước
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
Trước khi tham gia vào Công ước UNCLOS, Việt Nam đã ban hành một số văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động khai thác xuất khẩu dầu khí trên biển nói riêng và các
hoạt động liên quan đến biển nói chung nhưng chưa đầy đủ và toàn diện.
Như chúng ta đã biết, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành xu thế tất yếu đối với
sự phát triển của mỗi quốc gia. Theo xu hướng chung của thế giới, Việt Nam tham gia vào Công
ước UNCLOS. Đồng thời, trên cơ sở nhận thức về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của biển cùng hoạt
động khai thác xuất khẩu dầu khí, Việt Nam đã ban hành, sửa đổi và bổ sung một số văn bản quy
phạm pháp luật phù hợp với Cơng ước và tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế, như sau:
- Luật Dầu khí sửa đổi các năm 2005 và 2008 ( sửa đổi Luật Dầu khí năm 1993) quy định về
hoạt động tìm kiếm thăm dị, khai thác dầu khí trong vùng biển Việt Nam và công tác quản
lý của nhà nước về hoạt động hoạt động tìm kiếm. thăm dị và khai thác dầu khí.
- Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015 (thay thế bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005) điều
chỉnh các hoạt động giao thơng hàng hóa trên biển, chế độ ra vào các cảng biển của Việt
Nam.
- Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 quy định các cơ chế, chính sách
trong quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo, khai thác, sử dụng bền vững tài ngun
-
biển, kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường biển và hải đảo, ứng phó với sự cố tràn dầu và hoá chất
độc trên biển;
Đáng chú ý, việc trở thành thành viên của Cơng ước UNCLOS địi hỏi Việt Nam phải có
một đạo luật riêng và tổng thể về biển. Trong bối cảnh đó, Việt Nam ban hành Luật Biển
Việt Nam năm 2012 nhằm thống nhất quản lý việc hoạch định, sử dụng, thăm dò, khai thác
tài nguyên biển và quản lý các vùng biển, thềm lục địa, hải đảo của Việt Nam, cũng như
việc giải quyết tranh chấp trên biển giữa Việt Nam và các nước láng giềng.
22
-
Năm 2022, Bộ Công Thương đang lấy ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung về Dự thảo Luật Dầu
khí (sửa đổi) để phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế, để thực hiện các văn bản trên
đồng thời gia tăng thêm hoạt động tìm kiếm, thăm dị, khai thác dầu khí trên biển, Việt Nam
đã ban hành một số các văn bản quy phạm pháp luật và chiến lược theo từng giai đoạn, thời
kỳ nhằm gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác dầu khí, như sau: Chiến lược phát triển
Biển Việt Nam đến năm 2020; Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
Xây dựng, tổ chức bộ máy
UNCLOS đã đặt ra các yêu cầu đối với Việt Nam phải cải cách và tăng cường lực lượng
thực thi pháp luật trên biển. Hiện nay, bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động tìm kiếm, thăm dị
và khai thác dầu khí nói riêng và khai thác, bảo vệ tài ngun và mơi trường biển nói chung ở nước
ta như sau:
- Ở Trung ương, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động khai thác dầu khí là Bộ Cơng
Thương. Bộ Cơng Thương có nhiệm vụ quản lý về cơng nghiệp khai thác khống sản biển,
trong đó có dầu khí. Ngồi ra, Bộ Tài ngun và Mơi trường quản lý hoạt động khai thác
đất bãi bồi ven biển, đất có mặt nước ven biển, tài nguyên nước biển và khoáng sản biển;
Bộ xây dựng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản biển làm vật
liệu xây dựng.
- Ở địa phương, Sở Tài nguyên và môi trường giúp UBND tỉnh, thành phố ven biển quản lý
việc khai thác, bảo vệ tài nguyên và mơi trường biển, trong đó có hoạt động khai thác dầu
khí nhằm phối hợp quản lý và báo cáo với chính quyền cấp trên về các vấn đề liên quan đến
hoạt động khai thác dầu khí.
Tổ chức quản lý
Căn cứ vào các quy định của Công Ước UNCLOS 1982, Việt NAm đã và đang tiến hành
quản lý có hiệu quả và triển khai các hoạt động tìm kiếm, thăm dị và khai thác dầu khí, xuất khẩu
dầu khí nhằm phục vụ phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân dân gắn liền với bảo vệ
môi trường biển. Đồng thời, Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân triển khai các
hoạt động khai thác dầu khí phù hợp với Cơng Ước UNCLOS. Việt NAm ban hành các quy định
về xử lý chất thải từ hoạt động thăm dị, khai thác dầu khí, ứng phó với sự cố tràn dầu trên biển
nhằm bảo vệ môi trường biển và gia tăng hiệu quả khai thác dầu khí trên biển.
Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
Việt nam luôn tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi các quy định
pháp luật về hoạt động khai thác dầu khí trên biển và xử lý vi phạm đối với các chủ thể vi phạm.
Vấn đề bồi thường thiệt hại đối với môi trường biển, bao gồm thiệt hại do các hoạt động thăm dị,
khai thác dầu khí được điều chỉnh trong Luật Bảo vệ môi trường, Luật Dân sự và Bộ Luật tố tụng
Dân sự.
23
2.3.2. Trong khai thác dầu khí trên biển
Ngày nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đang trở thành nhân tố thúc đẩy q trình tìm
kiếm, thăm dị và khai thác nguồn tài ngun, khống sản biển, trong đó có dầu khí. Q trình thăm
dị, khai thác này ln tiềm ẩn nguy cơ gây ra tổn hại tới môi trường biển, có thể phát sinh từ các
hóa chất sử dụng để thăm dò, khai thác; các chất thải độc hại thải vào môi trường hay từ các sự cố
tràn dầu trong quá trình vận chuyển;… Do vậy, các hoạt động khai thác này luôn phải gắn với
nguyên tắc phát triển bền vững.
Các quy định của pháp luật Việt Nam về BVMT trong hoạt động khai thác dầu khí
Để thực thi các quy định cụ thể của UNCLOS 1982 về BVMT biển, những năm qua, Việt
Nam đã tích cực hồn thiện pháp luật quốc gia về BVMT biển trong hoạt động khai thác dầu khí,
cụ thể:
- Tích cực hợp tác quốc tế trong hoạt động BVMT biển. Điều này được quy định trong Luật
Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Theo đó, nội dung của hoạt động hợp tác bao gồm:
Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quản lý tài nguyên, BVMT biển và hải
đảo; điều tra, nghiên cứu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, mức độ tổn thương của
môi trường biển, hải đảo; khai thác tài ngun; ứng phó sự cố mơi trường. Việc hợp tác
phải được tiến hành trên cơ sở các nguyên tắc như phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng
thể về kinh tế - xã hội, phù hợp với đường lối chính sách đối ngoại (Điều 71, 72 Luật Tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo).
- Xử lý chất thải từ hoạt động thăm dị, khai thác dầu khí. Chất thải từ hoạt động thăm dị,
-
khai thác dầu khí sẽ được xử lý trên cơ sở phân loại từng loại chất thải, mức độ nguy hại
và đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật môi trường bao gồm: Nước khai thác và các nguồn nước
thai khác phát sinh từ cơng trình dầu khí trên biển; chất thải nguy hại và khơng nguy hại;
giàn nổi, địa chất trơ và chất vô cơ, chất hữu cơ có nguồn gốc tự nhiên, các vật thể lớn được
tạo thành chủ yếu từ sắt, thép, bê-tông và các chất tương tự không độc hại mà trong điều
kiện, hồn cảnh cụ thể khơng có cách xử lý nào tốt hơn là nhận chìm.
Ứng phó với sự cố tràn dầu. Các quy định về ứng phó sự cố tràn dầu được ghi nhận tại Luật
Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Căn cứ vào mức độ sự cố tràn dầu (mức nhỏ, trung
bình, mức lớn), việc tổ chức, thực hiện ứng phó được tiến hành ở 3 cấp: Cấp cơ sở; cấp khu
vực và cấp quốc gia với trách nhiệm của từng chủ thể và biện pháp tương ứng với từng cấp.
Ngoài ra, một số hoạt động khác cũng có thể thực hiện nhằm ứng phó với sự cố tràn dầu
như thiết lập khu vực hạn chế hoạt động để ưu tiên cho các hoạt động cứu hộ, cứu nạn, ứng
phó sự cố tràn dầu; trục vớt tàu bị chìm đắm gây ra hoặc có khả năng gây ra sự cố tràn dầu...
Chủ cơ sở hoặc chủ tàu gây sự cố tràn dầu phải chịu trách nhiệm bồi thường, chi phí ứng
phó và các thiệt hại về kinh tế, tổn thất về môi trường (Điều 9). Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có thể thanh tốn tạm thời chi phí tham gia ứng phó sự cố tràn dầu cho các tổ chức,
24
cá nhân yêu cầu, đồng thời yêu cầu Bên chịu trách nhiệm phải bồi thường lại các chi phí đã
thanh toán.
- Bồi thường thiệt hại và xử lý vi phạm về mơi trường trong hoạt động dầu khí. Vấn đề bồi
thường thiệt hại mơi trường nói chung và bồi thường thiệt hại đối với mơi trường biển nói
riêng, bao gồm cả thiệt hại do các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí được điều chỉnh
chung bằng các quy định trong Luật BVMT 2015, Bộ luật Dân sự 2015 và Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015. Nguyên tắc chung trong bồi thường thiệt hại là “Tổ chức, cá nhân gây ơ
nhiễm, suy thối mơi trường có trách nhiệm khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại do
hành vi của mình gây ra” (Điều 164 Luật BVMT 2014).
Theo quy định tại Điều 602 Bộ luật Dân sự 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải
được thực hiện ngay cả khi khơng có lỗi. Ngồi ra, theo quy định tại Nghị định 03/2015/NĐ-CP
ngày 6/1/2015 của Chính phủ quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường, tổ chức cá nhân
gây ơ nhiễm cịn phải chi trả tồn bộ chi phí xác định thiệt hại và thực hiện thủ tục yêu cầu bồi
thường thiệt hại cho cơ quan đã ứng trước kinh phí (Điều 13); việc giải quyết bồi thường được thực
hiện theo hình thức thỏa thuận với người gây thiệt hại; yêu cầu trọng tài giải quyết hoặc khởi kiện
tại tịa án (Điều 14). Trong trường hợp có tranh chấp phát sinh, tranh chấp sẽ được giải quyết theo
quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự ngồi hợp đồng (Điều 161 Luật BVMT).
Tùy theo tính chất, mức độ cụ thể của hành vi vi phạm, tổ chức cá nhân có thể bị áp dụng
những hình thức trách nhiệm pháp lý sau: Trách nhiệm hành chính, bao gồm các hình phạt chính
và hình phạt bổ sung khác nhau cũng như có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục
hậu quả; trách nhiệm dân sự, bao gồm phạt tiền, trách nhiệm bồi thường thiệt hại; phải trả các chi
phí làm sạch mơi trường, khắc phục sự cố môi trường cho bất kỳ tổ chức, cá nhân nào đã thực hiện
công việc khắc phục và làm sạch đó hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự bằng các hình phạt khác
nhau, từ phạt tiền đến tù có thời hạn.
Thực tế áp dụng và thi hành các quy định của công ước và Pháp luật hiện hành Việt
Nam trong q trình khai thác dầu khí trên biển
Thực tế cho thấy, trong vấn đề BVMT biển từ hoạt động khai thác dầu khí cịn một số tồn
đọng cần chỉnh sửa. Các quy định về BVMT biển nói chung và BVMT biển từ hoạt động thăm dò,
khai thác dầu khí nói riêng được quy định rải rác trong rất nhiều văn bản khác nhau, tạo nên sự
chồng chéo, thiếu đồng bộ trong khi vẫn bỏ sót những vấn đề cần điều chỉnh.
Thời gian tới, nên xem xét việc ban hành một văn bản pháp luật riêng trong lĩnh vực này,
trong đó quy định cụ thể về BVMT biển từ các nguồn gây ô nhiễm khác nhau, bao gồm cả hoạt
động thăm dị, khai thác dầu khí, đảm bảo sự tích hợp của các vấn đề đang được quy định trong
nhiều văn bản như hiện nay, đồng thời, bổ sung và quy định chi tiết những vấn đề chưa được quy
định rõ ràng, cụ thể:
- Đối với các quy định về đảm bảo tài chính cho việc thực hiện nghĩa vụ BVMT biển, cần có
quy định cụ thể về bảo hiểm trách nhiệm về môi trường, cách thức quản lý như thế nào,
25