Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tieu luan mon van hoa dan toc, văn hóa các dân tộc thiểu số trong xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.98 KB, 19 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN VĂN HĨA TỘC NGƯỜI
Đề tài: VĂN HĨA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG XÂY
DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN
SẮC DÂN TỘC

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................2
LỜI NÓI ĐẦU......................................................................................................3
NỘI DUNG...........................................................................................................4
1. Những yếu tố tác động đến sự biến đổi của văn hóa tộc người........................4
1.1. Tác động của tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.................................4
1.2. Quan điểm quốc tế về đa dạng văn hóa..........................................................5
2. Thực trạng biến đổi giá trị văn hóa tộc người...................................................7
2.1. Sự biến đổi của ngôn ngữ tộc người..............................................................7
2.2. Biến đổi về văn hóa vật thể............................................................................8
2.3. Biến đổi về văn hoá phi vật thể....................................................................10
3. Những định hướng quan trọng trong bảo tồn, phát huy văn hóa các dân tộc
thiểu số hiện nay..................................................................................................13
KẾT LUẬN.........................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................19

2


LỜI NĨI ĐẦU
Văn hóa và phát triển là hai mặt khơng thể tách rời trong tiến trình lịch sử
của mỗi quốc gia, dân tộc. Nghiên cứu giá trị văn hóa tộc người gắn với bảo tồn,


phát huy các giá trị văn hóa là vấn đề có tính cấp thiết và tính chiến lược trong
sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc.
Cuộc sống hiện đại đương nhiên có nhiều mặt tích cực, như việc góp phần
làm thay đổi căn bản bộ mặt nông thôn miền núi. Cuộc sống của đồng bào các
dân tộc thiểu số vùng cao, vùng sâu được cải thiện, nâng cao, số hộ nghèo giảm
nhanh, trẻ em không thất học. Đặc biệt qua các phương tiện nghe, nhìn, mạng
internet, ngồi trong nhà, đồng bào cũng có thể tiếp cận được những thơng tin
mới nhất trên khắp thế giới. Nhưng vấn đề lớn đặt ra là nhiều nét đẹp văn hoá
của đồng bào các dân tộc thiểu số cũng đứng trước một thách thức lớn. Đó là sự
mai một, lãng quên những giá trị văn hoá truyền thống tiêu biểu của mỗi dân
tộc.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc…, phát triển toàn diện,
thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến
bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội,
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển. Xây dựng hệ giá trị mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc mình… là yêu cầu tất yếu khách quan
trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Bởi vì chỉ có một nền văn hóa tiên
tiến mang bản sắc dân tộc, mới đảm bảo cho một quốc gia phát triển bền vững.

3


NỘI DUNG
1. Những yếu tố tác động đến sự biến đổi của văn hóa tộc người
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta phát triển trong bối cảnh của
phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường đã khơi
dậy mọi tiềm năng sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội,

tạo thêm nhiều giá trị văn hóa mới, làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc,
nhưng đồng thời cũng nảy sinh những mặt tiêu cực, có nguy cơ hủy hoại bản sắc
văn hóa dân tộc quốc gia cũng như bản sắc văn hóa tộc người. Có nhiều yếu tố
tác động đến sự biến đổi của văn hóa tộc người.
1.1. Tác động của tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Q trình tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tạo ra một
sân chơi chung, trong đó sự phát triển của các các quốc gia về kinh tế, xã hội và
văn hóa có sự gắn kết với sự phát triển của khu vực và thế giới. Dù muốn hay
hay không, dù nhìn từ góc độ nào, thì văn hóa quốc gia cũng như văn hóa tộc
người đều bị ảnh hưởng, chi phối của q trình đó.
Có thể thấy một mặt, sự tác động của tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế
đang mở ra cho mỗi quốc gia dân tôc cơ hội để khai thác những gì tốt nhất cho
sự phát triển. Đây cũng là cơ hội để văn hóa mỗi dân tộc tự khẳng định mình.
Khơng thể phủ nhận được sự làm giàu văn hóa nhân loại từ những bản sắc văn
hóa của từng dân tộc và từng tộc người, khi những di sản văn hóa riêng đó được
UNESCO cơng nhận di sản văn hóa thế giới. Q trình đó cũng đang tạo điều
kiện cho mỗi quốc gia, dân tộc cơ hội tiếp nhận chuyển giao về khoa học công
nghệ phục vụ cho sáng tạo, bảo quản, quảng bá văn hóa, phát triển cơng nghiệp
văn hóa… Nhưng mặt khác cũng cho thấy, tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế cũng đưa đến nguy cơ làm xói mịn, thậm chí triệt tiêu sự khác biệt văn
hóa dân tộc. Sự cảnh báo hãy coi “xâm lăng về văn hóa là sự xâm lăng cuối
cùng và triệt để nhất” không là ngoại lệ đối với dân tộc quốc gia nào.
Trong bối cảnh đó, văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng đang
diễn ra một quá trình hội nhập giữa văn hóa truyền thống và hiện đại, giữa văn
4


hóa tộc người và văn hóa quốc gia, văn hóa quốc tế rất mạnh mẽ và rộng khắp.
Dù chậm so với vùng xuôi, vùng đô thị, nhưng đời sống kinh tế của đồng bào
dân tộc thiểu số đang ngày một được cải thiện. Điều đó tạo cơ sở cho sự biến đổi

trong đời sống văn hóa. Về mặt tích cực, đồng vào dân tộc đã có điều kiện để
tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại, loại bỏ những hủ tục, lạc hậu, thay vào đó
các yếu tố văn hóa mới, hiện đại.
Có thể thấy văn hóa các dân tộc thiểu số nước ta đang vận động, biến đổi
theo các xu hướng:
- Xu hướng giao lưu văn hóa giữa các tộc người. Trước hết, đó là sự biến
đổi trong phân bố dân cư giữa các tộc người thiểu số. Nhiều vùng đồng bào dân
tộc trên cả nước ta hiện nay, rất ít có làng thuần nhất chỉ có một tộc người cư trú,
mà thường là cộng cư, xen kẽ. Điều đó đã và đang tạo ra những biến đổi về văn
hóa tộc người sâu sắc.
- Xu hướng chịu ảnh hưởng của hội nhập và văn hóa hiện đại. Sự giao lưu
văn hóa này diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các mặt, từ văn hóa sản xuất, khoa học
cơng nghệ, kiến trúc nhà cửa, sinh hoạt, ẩm thực, trang phục… đến việc đón
nhận các giá trị văn hóa hiện đại.
- Xu hướng đồng hóa về văn hóa. Thực ra, đồng hóa văn hóa cũng là vấn
đề có tính quy luật trong tiến trình của các tộc người, có cả đồng hóa tự nhiên và
đồng hóa cưỡng bức. Trái với sự áp đặt của đồng hóa cưỡng bức, đồng hóa tự
nhiên là q trình tiếp nhận văn hóa một cách tự nguyện giữa các tộc người có
trình độ phát triển cao hơn, để hồn thiện, nâng cao văn hóa của tộc người mình.
- Xu hướng mai một, đứt gãy văn hóa. Đây là xu hướng biến đổi văn hóa
truyền thống của các tộc người theo hướng suy thoái, nghèo nàn đi. Nhiều giá trị
văn hóa tộc người bị mai một, đứt gãy, tạo nên sự hẫng hụt mai một văn hóa.
- Xu hướng phục hồi văn hóa truyền thống. Xu hướng này cũng diễn ra tất
yếu, do nhu cầu của chủ thể sáng tạo, do tác động của các yếu tố khách quan.
1.2. Quan điểm quốc tế về đa dạng văn hóa
Năm 2001, UNESCO - Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa thế giới
5


đã đã đưa ra những quan điểm quan trọng về Đa dạng văn hóa, Văn hóa và phát

triển, Văn hóa và bản sắc. Bản chất của đa dạng văn hoá là khẳng định tơn trọng
bản sắc văn hố dân tộc thống nhất trong văn hoá chung của nhân loại. Đa dạng
văn hố là chấp nhận có các nền văn hố khác nhau trên thế giới, tức là đề cập
đến vấn đề bản sắc từ cấp độ quốc gia, dân tộc, nhóm tộc người, nhóm xã hội
đến cấp độ cá thể (nhân cách).
Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, F.Mayor đã nhấn mạnh: “Kinh
nghiệm của hai thập kỷ qua cho thấy rằng trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở
trình độ phát triển kinh tế nào hoặc theo xu hướng chính trị nào, văn hóa và phát
triển là hai mặt gắn liền với nhau (...). Hễ nước nào tự đặt ra cho mình mục tiêu
phát triển kinh tế mà tách rời mơi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những
mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo
của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều. Một sự phát triển chân chính địi hỏi phải sử
dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì vậy phân tích
đến cùng, các trọng tâm, các động lực và các mục đích của phát triển phải được
tìm trong văn hóa (...). Từ nay trở đi văn hóa cần coi mình là một nguồn bổ sung
trực tiếp cho phát triển và ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ một vị
trí trung tâm, một vai trị điều tiết xã hội...”.
Đảm bảo đa dạng văn hóa là phát huy vai trị văn hóa có vai trị trong phát
triển (chất lượng cuộc sống, tạo thu nhập); khuyến khích phát triển văn hóa cơng
nghiệp (industrial culture) để giữ gìn các giá trị văn hóa và tạo thu nhập. Văn
hóa là phải cho con người, vì con người.
Quan điểm trên đây cho thấy văn hóa là đối thoại, là sự xâm nhập, đan
xen, trao đổi, tác động qua lại và có chút pha trộn giữa các yếu tố nội sinh và
ngoại sinh. Khơng có nền văn hóa nào trên thế giới lại tuyệt đối đơn lẻ, thuần
khiết và không bị ảnh hưởng bởi bất cứ nền văn hóa nào khác. Sự vận động,
biến đổi của văn hóa tộc người là quy luật khách quan. Không vận động, biến
đổi cũng là đồng nghĩa với sự suy thoái. Phải nhận thức đúng để hạn chế những
mặt tiêu cực.
6



Việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của các dân
tộc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong xu thế hội nhập
là vấn đề lớn, phù hợp với định hướng bảo vệ di sản văn hóa của Đảng và Nhà
nước ta. Làm thế nào để vừa bảo tồn nhưng vẫn phải duy trì được sự phát triển
theo xu hướng tiến bộ của xã hội, bảo vệ văn hóa truyền thống trong nền văn
minh công nghiệp. Bảo vệ, bảo tồn nhưng vẫn phải bảo đảm cho những chủ thể
ở đây được hòa nhập, được hưởng thụ những thành quả mà xã hội đem lại.
2. Thực trạng biến đổi giá trị văn hóa tộc người
Sự biến đổi văn hóa tộc người ở nước ta mới được xét ở ba phương diện
chủ yếu: ngơn ngữ tộc người, văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
2.1. Sự biến đổi của ngơn ngữ tộc người
Trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tồn diện hiện nay, sự biến
đổi văn hóa các dân tộc trước hết là biến đổi về ngôn ngữ tộc người. Nhiều cơng
trình nghiên cứu cho rằng, có ba phương thức chủ yếu tác động đến sự thay đổi
này, đó là: chính sách, truyền thơng và thị trường.
Cũng như các dân tộc khác đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Điện Biên,
dân tộc Thái cũng đang đứng trước nguy cơ mất ngôn ngữ mẹ đẻ - một trong ba
tiêu chí quan trọng của sự tồn tại tộc người và văn hóa tộc người. Từ lâu và hiện
tại, do chính sách ngơn ngữ của Nhà nước, song ngữ (tiếng Kinh và tiếng dân
tộc) được giảng dạy trong nhà trường cho học sinh dân tộc thiểu số từ lớp 1,
hiện tại học sinh người dân tộc còn được học từ lớp mầm non. Tiếng Kinh được
xác định là tiếng phổ thơng và được sử dụng làm ngơn ngữ hành chính. Sự biến
đổi về ngôn ngữ tộc người như hiện nay sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình sáng
tạo, trao truyền và hưởng thụ văn hóa của đồng bào.
Học sinh khơng những học tiếng phổ thông, mà đội ngũ giáo viên
là người dân tộc cũng có số lượng rất ít. Tuy Nhà nước ta đã có chủ trương bổ
sung đội ngũ trợ lý ngôn ngữ cho các trường tiểu học, nhưng kết quả vẫn hạn
chế và thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu. Bộ Giáo dục - Đào tạo đã có chương
trình xây dựng chữ viết cho các tộc người, chữ viết này được đưa vào giảng dạy

7


từ tiểu học. Trên thực tế, chương trình này đã hạn chế phần nào hiện tượng phổ
thơng hóa về ngơn ngữ, và cũng tạo điều kiện cho người dân sáng tạo văn hóa
nghệ thuật, bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình…
Điều đáng nói đây chỉ mới là chương trình thử nghiệm, chưa phổ biến.
Cùng với chính sách ngơn ngữ của Nhà nước như đã nêu trên đây, truyền
thơng cũng có tác động không nhỏ. Trên các hệ thống thông tin đại chúng
ở nước ta, tiếng phổ thông được dùng để chuyển tải các thông tin vẫn là ngôn
ngữ chủ yếu. Tiếng các dân tộc thiểu số mới chỉ được sử dụng còn, rất hạn chế
trong các chương trình phát thanh, truyền hình của Trung ương và địa phương.
Hơn nữa, chỉ có một số tiếng các dân tộc là được lựa chọn và sử dụng trong các
chương trình truyền thơng. Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước việc phủ sóng hầu khắp của phát thanh và truyền hình đã tăng cường tính
tiếp cận thơng tin của người dân, nhưng vì ngơn ngữ truyền thơng bằng tiếng các
dân tộc cịn q ít, nên cũng hạn chế đến bảo tồn giá trị văn hóa các dân tộc.
Q trình phát triển kinh tế thị trường của đất nước cũng tạo điều kiện cho
người dân của các dân tộc thiểu số tiếp cận với những thơng tin, dịch vụ kinh
tế và văn hóa, nhưng việc giao dịch chủ yếu trên thị trường vẫn bằng tiếng phổ
thơng. Khi trao đổi hàng hóa, hầu hết người dân tộc thiểu số, đặc biệt là bà con
nông dân vẫn phải sử dụng tiếng Kinh.
Mặt hạn chế của thực tế này cũng ảnh hưởng lớn đến việc bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa các dân tộc.
2.2. Biến đổi về văn hóa vật thể
Cùng với biến đổi về ngơn ngữ, sự biến đổi văn hóa vật chất của các dân
tộc thiểu số dễ nhận thấy nhất là về kiến trúc nhà ở, trang phục và tập quán ăn
uống…
Về nhà ở: Trong vài chục năm trở lại đây, xuất hiện xu hướng trong đời
sống các dân tộc, đó là bỏ nhà sàn, làm nhà đất, nhà ngói, nhà tầng... như nhà

của người Kinh. Hoặc vẫn làm nhà sàn, nhưng có cải tiến. Hoặc trong một gia
đình, làm cả nhà đất và nhà sàn. Nhiều nơi, ngói hố nhà ở đã trên 50%. Nhiều
8


dân tộc thiểu số có tập qn làm nhà Rơng, nhà Gươi (nơi sinh hoạt văn hoá và
dạy nghề truyền thống của cộng đồng), nhưng giờ đây, tập quán đó đang bị thay
đổi. Qua khảo sát khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên Việt Nam, hiện tại có 625
làng thuộc 77/79 xã, phường, thị trấn của 7 huyện, thị, nhưng chỉ cịn có 265 nhà
Rơng, trong đó chỉ 40% mang ít nhiều những nét truyền thống. Thực tế việc làm
nhà truyền thống bằng gỗ đắt hơn nhà xây, vì gỗ ngày càng khan hiếm. Trong
khi làm nhà xây như người Kinh thì vật liệu thuận tiện và rẻ hơn nhiều.
Về trang phục: Việc chối bỏ trang phục truyền thống của dân tộc mình từ
lâu đã trở thành hiện tượng phổ biến của các dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc
sinh sống ở vùng thấp. Một số dân tộc và những người già vẫn sử dụng trang
phục truyền thống hàng ngày, một số khác, chỉ dùng trong những ngày lễ hội,
tết. Có nơi, trong ngày cưới, cả cơ dâu và chú rể đem theo một bộ trang phục
truyền thống, để trước lúc bước qua cửa nhà chồng (hoặc vợ) thì mặc vào khi
đứng trước bàn thờ tổ tiên (theo phong tục). Sau khi làm lễ trình diện trước bàn
thờ tổ tiên xong, họ lại thay âu phục. Nhiều đám cưới, cả cô dâu và chú rể đều
không sử dụng trang phục dân tộc, mà ăn mặc hoàn toàn theo lối “tây hóa”.
Cũng có trường hợp, do trao đổi hàng hố, nên trong trang phục có hiện
tượng ảnh hưởng giữa các dân tộc. Ví dụ, ở vùng Tây Bắc Việt Nam, trang phục
của nhiều dân tộc chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Thái. Tại tỉnh Đắc Lắc, nơi
có nghề dệt cổ truyền của những dân tộc thiểu số, nhưng trang phục truyền
thống giờ đây đã trở thành hiếm hoi. Đến nỗi khi tổ chức một lễ hội truyền
thống rất lớn - là lễ hội đâm trâu, Ban tổ chức đã phải mượn trang phục truyền
thống của nhà văn hoá tỉnh. Biến đổi trong trang phục có nhiều nguyên nhân.
Chưa kể đến nguyên nhân tâm lý, kinh tế thị trường đã đáp ứng nhu cầu trang
phục truyền thống may sẵn bằng vải màu thay cho may bằng vải dệt và thêu hoa

văn truyền thống, giá cả rẻ hơn nhiều. Hơn nữa trang phục như người Kinh cũng
giản tiện, dễ mua bán.
Về ăn uống: Những năm gần đây, lĩnh vực này đã có sự thay đổi cơ bản.
Điều này được thể hiện qua các loại thực phẩm được chọn để tạo đồ ăn, thức
9


uống và cách chế biến cũng như tập tục ăn uống. Các cư dân Tày, Thái, trước
đây chủ yếu ăn xôi nếp, nay chuyển sang ăn cơm tẻ. Một bộ phận khơng ít cư
dân trước đây khơng ăn thịt chó, thịt trâu thì nay đã dùng phổ biến. Các loại gia
vị và thực phẩm cơng nghiệp, như mì chính, bột canh, mì ăn liền… ngày càng
được dùng phổ biến. Trong khi đó nhiều món ăn và một số loại bánh đã khơng
cịn nữa, hoặc chỉ xuất hiện trong những dịp lễ, tết.
Sự biến đổi này cũng có nguyên nhân do kinh tế phát triển, đời sống đồng
bào được nâng cao, nhất là về nhu cầu lương thực, thực phẩm. Kinh tế thị trường
đã tạo điều kiện cho sự trao đổi hàng hóa đa dạng hơn. Mặt khác, cũng có sự tác
động do mở rộng giao lưu giữa các dân tộc về mọi phương diện, dẫn đến ảnh
hưởng qua lại cả hai bên đối với nhiều lĩnh vực văn hóa trong đó có tập qn ăn
uống.
2.3. Biến đổi về văn hố phi vật thể
So với văn hoá vật thể, sự biến đổi trong văn hoá phi vật thể diễn ra tương
đối chậm hơn. Tuy vậy, trước sự tác động của kinh tế thị trường và truyền thơng
tồn cầu, trong phong tục tập quán, lễ hội, văn học dân gian… đã có thay đổi
khá rõ nét.
Về phong tục tập quán: Nhiều hủ tục lạc hậu, có ảnh hưởng đến sản xuất
và sức khoẻ cộng đồng đã bị bãi bỏ dần dần (ví dụ như: tục lệ quàn xác người
chết trong nhà lâu ngày, tổ chức ma chay linh đình, thách cưới quá nặng…).
Nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp được coi trọng và khuyến khích (ví dụ: tổ
chức mừng thọ, cầu sức khoẻ cho người già, mừng trẻ sơ sinh tròn ngày, đầy
tháng… trở thành mối quan tâm chung của cộng đồng làng bản. Việc cưới xin,

ma chay có lúc bị thương mại hố, nên thường tổ chức linh đình với hàng trăm
mâm cỗ. Số tiền thách cưới có khi rất cao, đã trở thành gánh nặng cho các gia
đình, nhất là những người nghèo.
Về văn hoá dân gian: Trước hết là các lễ hội dân gian. Các lễ hội này có
vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần các dân tộc thiểu số. Tổ chức
lễ hội là dịp sinh hoạt cộng đồng, có tác dụng giải toả tinh thần, gắn kết các
10


thành viên, đoàn kết trong họ, trong bản. Các dân tộc Việt Nam có rất nhiều lễ
hội. Ví dụ: hội hạn khuống của người Thái, hội pồn pôông (chơi hoa) của người
Mường, hội sản sán (còn gọi là gàu tào) của người Hmông, hội cầu mưa của
người Pà Thẻn, hội trở về cội nguồn của người Lơ Lơ, hội rng poọc của người
Giáy, lễ bỏ mả của một số dân tộc vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.
Gần đây, các lễ hội được khôi phục và tổ chức hàng năm, thu hút khá
nhiều dân tộc các bản làng đến tham dự. Nhưng đáng tiếc, có khá nhiều lễ hội đã
bị mất đi, hoặc khơng cịn ngun ý nghĩa ban đầu của nó. Phần lớn các lễ hội
ngày càng bị đơn giản hố và hiện đại hố, thậm chí là hội nào cũng na ná giống
nhau, ít hấp dẫn. Người trẻ biết rất ít về các lễ hội.
Có hiện tượng thâm nhập những yếu tố văn hố ngoại lai tiêu cực ngồi ý
muốn của cộng đồng đang làm xói mịn đi yếu tố truyền thống. Trước 1945, ở
Việt Nam, chỉ một vài dân tộc thiểu số có chữ viết riêng, như: Thái, Dao, Tày, Ê
đê, Ba na... Còn hơn một nửa dân tộc thiểu số chưa có chữ viết. Vì thế nền văn
hoá của các dân tộc chủ yếu là truyền miệng. Người già kể truyện cổ tích, đọc
thơ, kể sử thi cho con cháu nghe. Các tác phẩm văn học dân gian được giữ gìn
và lưu truyền theo con đường này.
Trong những thập kỷ gần đây, nhờ có sự phát triển của các phương tiện
thơng tin đại chúng, nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá mới, như: nghe đài, xem
phim, xem các chương trình truyền hình... đã trở thành nhu cầu phổ biến của đại
đa số cư dân. Việc sinh hoạt và trao truyền các giá trị văn hoá như trước đây

khơng cịn hấp dẫn nữa. Lớp trẻ đã dần quen với những hình ảnh “chú mèo
máy Đơ rê mơn”, với “thuỷ thủ mặt trăng”, “chuột Mickey”... mà không thể biết
đến nàng Slao cải, chàng Báo luông và những nhân vật khác trong truyện cổ tích
của dân tộc mình.
Về các làn điệu dân ca: Mỗi dân tộc đều có những làn điệu dân ca riêng
của mình với nhiều bài hát khác nhau. Phần lớn là những bài ca trữ tình, ca ngợi
tình yêu quê hương đất nước, tình yêu nam nữ. Người Tày có then, lượn (lượn
slương, lượn cọi, lượn nàng ới), phong slư, phuối pác, phuối rọi, cò lẩu, vén
11


eng. Người Mường có thường rang. Người Hmơng có gầu phềnh. Người Dao
có páo dung. Người Sán Chay có slình ca. Người Sán Dìu có soọng cơ... Xưa
kia, hát dân ca, nhất là hát giao duyên và hát ru là khá phổ biến trong đời sống
hàng ngày. Nhưng ngày nay, các bài hát cổ truyền đã dần dần mai một, thậm chí
nhiều nơi, các chị khơng cịn biết hát ru nữa.
Ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên Việt Nam, trường ca (còn gọi sử thi)
là nét độc đáo trong văn học dân gian. Những trường ca được lưu truyền bằng
hình thức sinh hoạt đặc sắc là kể khan, thì giờ đây sinh hoạt kể sử thi hầu như
khơng cịn tồn tại trong đời sống thường ngày của cộng đồng dân tộc. Nhiều
người thường xuyên nghe hát dân ca qua máy thu thanh, hay xem ở các chương
trình truyền hình. Các cô gái, chàng trai người dân tộc thiểu số đến chợ tình
thường mang theo cassette (phiên âm là cát-xét) phát ra tiếng khèn, hay những
làn điệu dân ca tỏ tình, thay cho chính mình hát.
Về các loại nhạc cụ: Nhiều dân tộc có hàng chục loại nhạc cụ khác nhau.
Ví dụ người Khơ Mú có mbring, rbang, thằm đao đao, đàn mơi, pi tơm, phi tot,
tịn mu, tót mạ boi, ho rơ, sừng cum, brưng tnếch... Người Tây Nguyên có dàn
cồng chiêng - đã được cơng nhận di sản văn hoá thế giới. Các loại nhạc cụ được
phục vụ chủ yếu cho các hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng và cả trong đời sống
hàng ngày. Hiện nay, nhiều loại nhạc cụ dân tộc đã bị mai một, người biết sử

dụng nhạc cụ dân gian cũng ngày càng ít hơn. Theo tài liệu khảo sát ở tỉnh Lào
Cai: chỉ có 48% nam thanh niên biết sử dụng sáo ngang, 38% biết sử dụng sáo
đọc; 75% nữ thanh niên biết sử dụng khèn lá và 46% biết sử dụng đàn môi. Có
tới 63% học sinh con em dân tộc Hmơng ở trường phổ thông dân tộc nội trú của
tỉnh không biết múa khèn... Sự tác động của kinh tế thị trường cũng đã biến
nhiều nhạc cụ dân tộc trở thành hàng hoá được bày bán tại các quầy hàng phục
vụ khách du lịch. Còn những nhạc cụ hiện đại, như ghi- ta, oóc-gan... đang dần
thay thế các nhạc cụ dân gian.
Thực tế trên cho thấy q trình tồn cầu hóa và hội nhập đã và đang
tác động sâu sắc đến sự phát triển bền vững văn hóa của các dân tộc thiểu số.
12


Về mặt tích cực, q trình đó đã tạo nên sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ chưa từng
có trong lịch sử đất nước nói chung, ở Điện Biên nói riêng. Kết quả khơng thể
phủ nhận là văn hóa của các dân tộc phong phú hơn. Trong văn hóa mỗi dân tộc
đều in dấu ảnh hưởng của văn hóa dân tộc khác. Điều đáng nói là sự biến đổi
này hồn tồn tự nguyện, khơng xảy ra xung đột văn hóa. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt tích cực, sự xói mịn thậm chí nguy cơ mất đi giá trị và bản sắc văn
hóa của các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số. Chính điều này đang làm
giảm đa dạng trong nền văn hóa quốc gia, văn hóa vùng, và sự phát triển bền
vững văn hóa các dân tộc.
3. Những định hướng quan trọng trong bảo tồn, phát huy văn hóa các
dân tộc thiểu số hiện nay
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức về việc gắn kết chặt chẽ giữa phát
triển kinh tế với giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trong xây dựng
nơng thơn mới.
Các cấp chính quyền và đồng bào các dân tộc thiểu số cần tiếp tục nâng
cao nhận thức về phát triển kinh tế không phải chỉ là tăng trưởng kinh tế bằng
mọi giá mà còn phải giải quyết tốt các vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, trong đó

có vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số. Thành tựu của quá trình
xây dựng nơng thơn mới phải được thể hiện một cách tồn diện: kinh tế phát
triển, đời sống vật chất được nâng cao, đồng thời đời sống tinh thần được củng
cố bền vững trên cơ sở những giá trị tốt đẹp và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc
được giữ gìn hợp lý. Truyền thống và hiện đại được kết hợp hài hòa trong mọi
mục tiêu, nội dung, phương thức biểu hiện của vùng nông thôn mới.
Để nâng cao nhận thức về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc một cách
căn cơ, mang lại hiệu quả lâu dài, bền vững cần phải tiến hành đồng bộ các biện
pháp tác động mạnh mẽ đến tư duy, lối sống, hành động của cán bộ, các thế hệ
đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ hiểu biết về lịch sử,
văn hóa dân tộc, xây đắp lịng tự hào, ý thức tự tôn dân tộc, quyết tâm đưa dân
tộc mình vươn lên trong thời đại mới. Đẩy mạnh tuyên truyền về tầm quan trọng
13


của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế đối
với cán bộ, đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong q trình đó, phải kết hợp đẩy mạnh các chương trình phát triển
kinh tế phù hợp điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ
dân trí của người dân; đẩy mạnh các hình thức giáo dục thường xuyên, đào tạo
nghề; giáo dục đạo đức lối sống, nâng cao dân trí cho thanh niên, các tầng lớp
nhân dân. Lợi ích văn hóa phải gắn kết với lợi ích kinh tế mới tạo nên sức hút,
sức thuyết phục đồng bào các dân tộc thiểu số nâng cao nhận thức về việc giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Và chỉ khi đồng bào các dân tộc thiểu số nhận thức
rõ ràng về tầm quan trọng của việc giữ gìn và tự giác, chủ động, tích cực giữ gìn
thì những giá trị đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc mới thật sự hiệu quả bền vững
và có chiều sâu.
Để thực hiện được điều đó địi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các
ngành như: Văn hóa Thể thao và Du lịch, Giáo dục và Đào tạo, Lao động Thương binh và Xã hội, Công Thương, Nông nghiệp và phát triển nông thôn,…
sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan dân cử, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ,

Hội Cựu Chiến binh, Hội Người cao tuổi, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…
Thứ hai, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, sưu tầm, phổ biến các giá trị văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc thiểu số trong quá trình xây dựng nơng thơn mới.
Trong q trình xây dựng nơng thơn mới, việc giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc là một tất yếu nhằm nuôi dưỡng sợi chỉ đỏ truyền thống trong dòng chảy
liên tục của sự phát triển của xã hội hiện đại. Tuy nhiên, việc giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc cũng địi hỏi phải có quan điểm đúng đắn, cách thức giữ gìn phù
hợp. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu các giá trị văn hóa dân tộc
để phân định được đâu là cái lạc hậu, đâu là cái có giá trị, là hạt nhân hợp lý
trong quá trình giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số. Để phân định được
cần có tiêu chuẩn, thước đo xác định để kiểm chứng, đánh giá, phân loại. Tiêu
chuẩn, thước đo đó chính là thực tiễn xã hội với tất cả những nhu cầu nội tại của
nó nhằm hướng tới sự phát triển bền vững. Dựa trên sự nghiên cứu và phân định
14


đó mới định hướng một cách đúng đắn q trình giữ gìn bản sắc văn hóa, khắc
phục được bệnh chủ quan duy ý chí hay tự phát trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn. Trên cơ sở đó, việc giữ gìn ngun gốc, giữ gìn có chọn lọc, bổ sung
và phát triển được thực hiện một cách đúng đắn nhằm giữ lại được những hạt
nhân hợp lý, có giá trị trong bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số đồng thời cải
tiến, bổ sung và phát triển chúng phù hợp hơn với đời sống hiện đại. Chỉ có như
vậy, những giá trị truyền thống mới tiếp tục trở thành “địn bẩy”, “bệ phóng” cho
sự phát triển của dân tộc.
Nghiên cứu những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc sẽ cung cấp cơ
sở khoa học cho việc đề xuất những giải pháp giữ gìn phù hợp, bảo đảm sự kết
hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại; định hướng được các cách thức giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc đa dạng và linh hoạt phù hợp nguyện vọng của đồng
bào dân tộc thiểu số. Ở đây, những giá trị văn hóa phải thật sự trở thành nền tảng
khơng thể thiếu trong q trình xây dựng nơng thơn mới thì việc giữ gìn nó mới

thật sự đi vào chiều sâu thiết thực. Đó là cách thức giữ gìn thơng qua các chương
trình phát triển kinh tế, như giữ gìn nghề truyền thống, sản phẩm nơng nghiệp
địa phương hay các hoạt động sinh hoạt cộng đồng ở nông thôn. Bên cạnh gắn
kết công tác nghiên cứu khoa học với ứng dụng vào sản xuất và đời sống thì cịn
phải gắn với cơng tác tơn vinh những giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số, khẳng
định giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong xã hội nhằm nâng cao lòng tự hào dân
tộc, ý thức trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc trong tồn xã hội.
Để thực hiện được giải pháp này, cần phải đẩy mạnh đầu tư cho công tác
nghiên cứu khoa học một cách toàn diện, thấu đáo và kịp thời. Tiếp tục đổi mới
cơ chế chính sách theo hướng tăng tính tự chủ trong nghiên cứu khoa học để các
nhà khoa học có điều kiện làm việc tốt hơn, nâng cao chất lượng nghiên cứu. Có
chính sách ưu tiên phù hợp để khuyến khích, động viên cán bộ có năng lực và
tâm huyết, cộng tác viên là những nghệ nhân người dân tộc am hiểu văn hóa dân
tộc tham gia cơng tác nghiên cứu khoa học. Thơng qua đó, thúc đẩy việc sưu
15


tầm, thống kê, phục dựng, phân tích, đánh giá một cách toàn diện bức tranh tổng
thể các giá trị văn hóa đậm đà bản sắc của các dân tộc thiểu số; cung cấp cơ sở
khoa học cho việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa vật thể và
phi vật thể một cách bền vững.
Thứ ba, tiếp tục hồn thiện chính sách, tăng cường các nguồn lực cho giữ
gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trong q trình xây dựng nơng thơn
mới.
Cơng cuộc xây dựng nông thôn mới ở nước ta dựa trên triết lý là xuất phát
từ nguyện vọng của nhân dân, phục vụ nhân dân và do chính nhân dân xây
dựng. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng phải dựa trên triết lý đó, phải
do chính đồng bào các dân tộc thiểu số thực hiện với ý thức tự giác, sự tự tôn, tự
hào dân tộc. Tuy nhiên, giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số là mục tiêu

đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề trong thời gian dài và cần có sự đầu tư lớn
về nhân lực cũng như vật lực nên việc tăng cường các nguồn lực đầu tư để tạo
nguồn sức mạnh tổng hợp cho q trình này là vơ cùng cần thiết. Nhà nước cần
tiếp tục có những chính sách huy động sự tham gia, hỗ trợ của các cơ quan, tổ
chức, cộng đồng xã hội chung tay giúp sức cho cơng cuộc phát triển kinh tế và
văn hóa. Tăng cường các nguồn lực đầu tư cho quá trình phát triển vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số cần được xem xét một cách toàn diện: tăng về số lượng,
quy mơ, chất lượng, hiệu quả; đa dạng loại hình nguồn lực: vốn, lao động, kỹ
thuật, công nghệ, năng lực tổ chức quản lý, tâm huyết, trí tuệ...; huy động được
nhiều nguồn lực theo hướng tăng cường xã hội hóa (ngồi nguồn ngân sách nhà
nước huy động được nguồn lực của các doanh nghiệp, sự đóng góp của nhân
dân, nguồn viện trợ của các cá nhân, tổ chức trong nước và quốc tế và các nguồn
vốn hợp pháp khác); huy động sự tham gia của nhiều lực lượng xã hội (các nhà
quản lý, các nhà văn hóa, các nhà kinh tế, các nhà khoa học, các doanh nghiệp,
các tầng lớp nhân dân ở trong và ngồi nước).
Lực lượng nịng cốt và là nhân tố bảo đảm sự thành công việc giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc chính là đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhà nước cần ban
16


hành những chính sách mang tính đặc thù cho từng vùng nông thôn của đồng
bào dân tộc thiểu số. Việc xây dựng chính sách phải dựa trên một chiến lược quy
hoạch tổng thể vùng nông thôn đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc để vừa bảo đảm
tính định hướng vừa bảo đảm huy động và phát huy được nhiều nguồn lực trong
xã hội và nguồn nội lực của đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ tư, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số phải gắn với môi trường tự
nhiên và xã hội. Văn hóa mỗi tộc người được hình thành và phát triển trong
những mơi trường tự nhiên và xã hội nhất định, nếu mơi trường đó bị hủy hoại
thì văn hóa khó có thể phát triển lành mạnh. Q trình hiện đại hóa đất nước đã
làm thay đổi môi trường tự nhiên và xã hội của các dân tộc một cách cơ bản mà

chiều hướng tiêu cực đang lấn át. Vấn đề là phải tạo dựng môi trường cho phù
hợp, nhân dân phải thực sự là người làm chủ trong q trình phát triển. Phải có
sự đồng bộ trong xây dựng và thực thi hệ thống chính sách phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội phù hợp đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững văn hóa tộc người.

17


KẾT LUẬN
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tộc người trong điều kiện hiện nay là
tạo điều kiện, khai thác những nhân tố nội lực của sự phát triển. Việt Nam cũng
như nhiều quốc gia, trong tiến trình đổi mới, hội nhập và phát triển của mình,
khơng thể khơng quan tâm đến phát triển văn hố trong mối quan hệ với các
nước trên thế giới và trong khu vực Đơng Nam Á. Có thể nói, chính ý chí chính
trị và sự thống nhất trong đa dạng văn hố đang là điều kiện quan trọng, để một
nhóm nước có thể cùng nhau xây dựng một cộng đồng ổn định, hồ hợp, trong
q trình hội nhập phát triển hiện nay.
Việc giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trong q trình xây
dựng nơng thơn mới là vơ cùng quan trọng nhằm nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số vùng nơng thơn. Để thực hiện được
mục tiêu đó địi hỏi phải thực hiện đồng bộ một hệ thống các giải pháp nhằm
phát huy được nguồn nội lực, ngoại lực; thu hút sự tham gia tích cực của nhiều
lực lượng xã hội và được tiến hành bằng nhiều con đường, cách thức khác
nhau./.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Văn hóa tộc người, Biên soạn: PGS, TS. Nguyễn Thị Hương

2. Giữ gìn bản săc văn hóa các dân tộc thiểu số trong xây dựng nơng thơn
mới ở nước ta, TS. Đồn Thị Hương, Đại học Nội vụ Hà Nội
3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Báo điện tử
Đảng cộng sản Việt Nam.
4. Khác

19



×