MỤC LỤC
Tran
g
A. PHẦN MỞ ĐẦU
2
B. NỘI DUNG
4
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO
ĐƯC CÁCH MẠNG.
1. Quan điểm về vị trí và vai trị của đạo đức cách mạng
4
2. Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện
7
3. Những chuẩn mực đạo đức cơ bản
8
4. Nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng.
15
II. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
VỚI VIỆC VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
2.1. Tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức cho cán bộ,
19
đảng viên ở nước ta hiện nay.
2.2. Quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào việc xây
dựng đạo đức cho cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.
3. Những giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
27
37
C. KẾT LUẬN
44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
46
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ chúng ta đang
tiếp tục xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu xây dựng
1
xã hội: “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Đến nay
nhìn lại sau gần 30 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về
mọi mặt. Đời sống chính trị ln ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững. Vị
thế của đất nước được khẳng định trên trường quốc tế, đời sống của các tầng lớp
nhân dân được cải thiện đáng kể. Những sự kiện trọng đại của đất nước trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội mà nhân dân ta giành được dưới sự lãnh
đạo của Đảng qua những năm qua đã minh chứng cho điều đó.
Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển đất nước, trong xu thế mở cửa, hội
nhập quốc tế và những đòi hỏi khách quan của thời đại, chúng ta phải chủ động
giành lấy những cơ hội, ngăn chặn những thách thức để tiếp tục phát triển. Vì vậy,
bên cạnh những thắng lợi nhất định trong phát triển, toàn Đảng, tồn dân ta cũng
đang đối diện với khơng ít những nguy cơ và thách thức. Trong đó, ở những năm
gần đây, nổi cộm lên là những biểu hiện suy thoái về đạo đức xã hội mà đặc biệt là
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đã gây ra khơng ít những vấn đề nhức nhối làm
ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân vào chế độ. Nó xuất phát
từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Tuy nhiên quan trọng hàng đầu
vẫn là sự thiếu ý thức về việc rèn luyện, bồi dưỡng đạo đức của từng cá nhân, do
khơng thể chiến thắng chính bản thân mình bởi sự cám dỗ của những yếu tố vật
chất, những mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động vào mỗi người, đặc biệt là
những cán bộ, đảng viên.
Thực trạng đó địi hỏi chúng ta phải tự nhìn nhận lại vấn đề giáo dục và rèn
luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời đại mới. Để làm được điều đó thiết
nghĩ chúng ta cần phải quán triệt hơn nữa tấm gương đạo đức sáng ngời và những
chuẩn mực, những phẩm chất đạo đức cao cả mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu
phải có ở con người mới, con người xã hội chủ nghĩa. Bởi chính những giá trị đó
đã từng một thời làm cho lịch sử Việt Nam nở hoa bằng những thắng lợi lừng lẫy
trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc ta, và nó cịn là những giá trị định
hướng cho hành động cách mạng trong tương lai.
Đem những giá trị đạo đức trong tư tưởng và tấm gương của Hồ Chí Minh
rọi vào đời sống con người Việt Nam trong thời đại mới, chúng ta càng thấy thấm
2
thía hơn sự cần thiết phải nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng của Người để
xây dựng một nền đạo đức con người Việt Nam mới. Để góp phần phát huy những
giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, đồng thời tạo ra sức mạnh to
lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Với ý nghĩa đó, em xin chọn đề tài: “Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức với việc xây dựng đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay”
làm tiểu luận học phần VI cho chuyên ngành Hồ Chí Minh học của mình.
3
B. PHẦN NỘI DUNG
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐƯC CÁCH
MẠNG.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm đến vấn đề đạo đức. Người không để lại cho chúng ta những tác phẩm đạo đức
lớn nhưng qua các bài nói, bài viết ngắn gọn; qua những hành động cụ thể trong
thực tiễn cải tạo cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy ở Người ngời lên một phẩm
chất đạo đức cao cả của một vị lãnh tụ vĩ đại, một chiến sỹ cộng sản tiên phong.
Chính vì vậy khi tiếp cận tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta không chỉ thông
qua những tác phẩm của Người về đạo đức, mà còn phải tiếp cận những hành động
cụ thể trong chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh.
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh khơng chỉ chiến đấu cho độc lập tự do cho dân tộc
mà còn hướng đến giải phóng cho nhân loại cần lao. Người khơng chỉ quan tâm
đến nhiệm vụ hiện tại mà cịn ln hướng tầm nhìn của mình đến tương lai và đặt
vào đó một hồi bão to lớn. Chính vì thế, tư tưởng đạo đức của Người luôn lan tỏa
sâu rộng trong mỗi thế hệ người Việt Nam yêu nước hôm nay và mai sau.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh bao gồm trong nó những chuẩn mực,
nguyên tắc xây dựng những phẩm chất của con người nhằm hướng đến một nền
đạo đức trong xã hội mới - đạo đức xã hội chủ nghĩa. Tất cả được đúc kết lại từ
truyền thống đạo đức hàng ngàn năm của dân tộc, từ sự tiếp thu tinh hoa những giá
trị đạo đức nhân loại, từ cái nơi của q hương, gia đình và tấm lòng nhân ái cao cả
của Người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với những giá trị sâu sắc của nó là ánh sáng
soi đường cho các thế hệ người Việt Nam đi đến một xã hội tươi đẹp hơn, hoàn mỹ
hơn cho sự phát triển toàn diện của con người.
1. Quan điểm về vị trí và vai trị của đạo đức cách mạng
Xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến vấn đề đạo đức. Ngay cả khi cách mạng gặp phải những khó khăn
cũng như trong những lúc thuận lợi, Người luôn yêu cầu phải luôn rèn luyện và
4
nêu cao đạo đức cách mạng. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh để thực hiện thành
cơng sự nghiệp cách mạng thì đạo đức chiếm một vị trí vơ cùng to lớn. Điều đó
được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, theo Hồ Chí Minh đạo đức là cái gốc của Người cách mạng
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng ngừng
chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
ta. Người nói: “cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nước thì sơng
cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân” 1.
Như vậy, với Hồ Chí Minh đạo đức chính là nền tảng, là gốc để hình thành những
phẩm chất của người cách mạng. Với Người đạo đức là một sức mạnh tinh thần to
lớn, là hành trang không thể thiếu được của những người cách mạng trên bước
trường chinh vô cùng gian khổ nhưng rất vinh quang. Người nói: “Làm cách mạng
để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng
là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài và gian khổ. Sức
có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” 2. Đó cũng
là “Đem tinh thần mà chiến thắng vật chất” 3. Coi đạo đức là gốc là nền tảng của
người cách mạng, Hồ Chí Minh thể hiện cái nhìn biện chứng trong mỗi quan hệ
giữa vật chất và tinh thần, thấy được sự tác động trở lại của yếu tố đạo đức, tinh
thần đối với tồn tại xã hội. Điều đó tạo nên tinh thần lạc quan cách mạng giúp mỗi
người biết vượt qua khó khăn hướng niềm tin vào một tương lai tốt đẹp.
Thứ hai, theo Hồ Chí Minh đạo đức cịn được xem như tiêu chuẩn hàng đầu
của người lãnh đạo trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Vấn đề đạo đức của Người cầm quyền được người phương Đơng nói chung và
Việt Nam nói riêng từ xưa đã bàn đến rất nhiều, nhất là dưới chế độ phong kiến. Lý
tưởng vua sáng, tôi hiền, phẩm chất đạo đức của những bậc vua chúa rất được coi
trọng, có khi như là thước đo cho sự hưng ung của xã tắc. Đối với nhân dân niềm
1
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 5, tr 252 - 253
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 9, tr 283.
3
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 5, tr 148
2
5
tin chính trị gắn với niềm tin vào đạo đức của người cầm quyền, lãnh đạo, do đó sự
nêu gương đạo đức đối với cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người lãnh đạo giữ một
vai trò cực kỳ quan trọng bởi “thượng bất chính” thì “hạ tất loạn”. Trong lịch sử
dân tộc ta mấy ngàn năm qua, những lãnh tụ dân tộc tập hợp được lực lượng trong
các cuộc đấu tranh vì chính nghĩa cũng đều là những người có uy tín đạo đức rất
cao. Ngược lại những tham quan, vua chúa vô đạo sớm muộn cũng đều bị nhân dân
lật đổ. Chính vì vậy ta hiểu vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: đối với các dân tộc
phương Đơng “một tấm gương sáng cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tun truyền” .
Hồ Chí Minh ln nhắc nhở phải đấu tranh chống nguy cơ xa rời cuộc sống,
xa rời quần chúng nhân dân để rồi rơi vào thoái hoá bản chất của một Đảng cầm
quyền. Với trí tuệ sáng suốt, với tầm nhìn vượt thời đại, ngay từ sớm Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tiên lượng về những nguy cơ suy thoái đạo đức của những người cầm
quyền và chỉ ra những biện pháp để đề phịng và khắc phục. Trong đó Người đặt
lên hàng đầu việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng
viên. Nhận thức được vai trò sức mạnh đạo đức của Người cầm quyền, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã suốt đời nhắc nhở, giáo dục cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng
suốt đời không ngừng tu dưỡng, rèn luyện mình về đạo đức để trở thành tấm
gương tuyệt với vì đạo đức cách mạng, tấm gương sáng ngời và một “người lãnh
đạo người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, là niềm tự hào vô hạn của các
thế hệ người Việt Nam.
Thứ ba, trong quan niệm của Hồ Chí Minh đạo đức cịn góp phần tạo nên sức
hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa xã hội không chỉ là đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân,
mà trong quan niệm của Hồ Chí Minh nó cịn tạo ra những giá trị đạo đức cao đẹp.
Đó là giá trị đạo đức của con người Cộng sản. Người đã phát biểu quan điểm này
khi khẳng định: “Phong trào cộng sản quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận
mệnh loài người chẳng những là do những chiến lược thiên tài của cách mạng vơ
sản, mà cịn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở
thành sức mạnh vô địch”, “Lênin đã nêu cho chúng ta một tấm gương về sự giản
6
dị, vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ, những đặc tính làm đẹp thêm những chiến sĩ
chân chính của cách mạng vì những người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Như
vậy sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội không phải chỉ ở lý tưởng cao đẹp mà trước
hết, cụ thể và trực tiếp là ở những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương và hành
động của mình để biến những ý tưởng đó trở thành hiện thực. Trong thực tế việc
củng cố hay làm giảm niềm tin ở quần chúng và tương lai của chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản không phải ở những thất bại sai lầm tạm thời mà do chính ở sự
sa sút về đạo đức của những người được mệnh danh là những chiến sỹ mang trọng
trách tiên phong trên con đường thực hiện nó.
2. Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách tồn diện
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức bao giờ cũng được xây dựng bằng những quy tắc,
hành vi của con người, những chuẩn mực được dư luận xã hội thừa nhận nhằm
điều hòa các mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình phát triển
xã hội. Những vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh xem xét một cách tồn diện đó
là:
- Đối với mọi đối tượng trong nhân dân: từ công nhân, nơng dân, trí thức, văn
nghệ sỹ, tư sản dân tộc đến những người yêu nước mà trước đây gọi là thân sỹ dân
chủ và nhân sỹ yêu nước, từ thanh niên, phụ nữ, phụ lão đến các cháu thiếu niên,
nhi đồng; từ đồng bào các dân tộc đến đồng bào các tơn giáo, các nhà tu hành;
đồng bào sóng ở trong nước hay sinh sống ở nước ngoài... cùng với việc đề cập
đến vấn đề đạo đức công dân, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức
của cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức. Đây là nội dung chiếm phần chủ yếu
nhất và thường xuyên nhất trong tư tưởng đạo đức của Người.
- Trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người trong xã hội Hồ Chí Minh đã đề
cập đến vấn đề đạo đức trên mọi lĩnh vực từ việc riêng đến việc chung, từ cái nhỏ
đến cái lớn, từ đời tư đến đời công trên các mặt sinh hoạt, học tập lao dộng, chiến
đấu, rèn luyện hàng ngày.
- Trên mọi phạm vi: từ cá nhân đến tập thể, từ gia đình đến xã hội, từ giai cấp
đến dân tộc, từ dân tộc đến quốc tế. Trong bốn mối quan hệ này, Hồ Chí Minh coi
việc rèn luyện đạo đức của từng con người đóng vai trị chủ yếu; muốn có tập thể
7
tiến bộ thì từng cá nhân phải tiến bộ, muốn có chi bộ vững mạnh thì từng đảng
viên phải vững mạnh... Trong các mối quan hệ đạo đức của con người, Hồ Chí
Minh nêu lên ba mối quan hệ chủ yếu: đối với mình, đối với người, đối với việc.
3. Những chuẩn mực đạo đức cơ bản
- Trung với nước, hiếu với dân
Trong đạo đức truyền thống của dân tộc ta phạm trù đạo đức “Trung” và
“Hiếu” luôn là cặp phạm trù quan trọng hàng đầu trong hệ thống những chuẩn mực
đạo đức của con người.
“Trung”, “Hiếu” là những khái niệm đạo đức bắt nguồn từ Nho Giáo. Xã hội
phong kiến quan niệm “Trung” là trung thành với vua (Quân xử thân tử, thần bất tử
bất trung) còn hiếu là hiếu với cha, mẹ. Tuy nhiên đến Hồ Chí Minh vẫn là khái
niệm Trung, Hiếu nhưng được người phát triển lên nội dung mới phù hợp với thời
đại.
Đó là “Trung với nước, Hiếu với dân”, quan niệm cách mạng thực sự về đạo
đức. “Trung với nước” thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng trong xã
hội, là sự trung thành với lý tưởng của Đảng. Thể hiện trách nhiệm đối với sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Với cán bộ, đảng viên điều đó cũng có nghĩa là
phải tuyệt đối trung thành phụng sự nhân dân, lấy dân làm gốc. Hồ Chí Minh đã
nói: nước là nước của dân, do dân làm chủ, bao nhiêu quyền hành lực lượng đều ở
nơi dân; cán bộ là đày tớ trung thành của nhân dân, chứ không phải là “quan cách
mạng”, đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Do đó, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân.
Đầu này làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh phải xa về bản chất so với đạo
đức Nho Giáo phong kiến.
Với Hồ Chí Minh, Trung với nước, hiếu với dân khơng chỉ đơn thuần là lý
tưởng đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên mà nó cần phải được thực hành trong
thực tế, biến thành hành động cụ thể của mỗi người. Theo Người, nếu mỗi người
cán bộ có được đạo đức “Trung với nước, hiếu với dân” thì sẽ được dân tin, dân
yêu, dân ủng hộ, giúp đỡ, nên không nhiệm vụ nào khơng hồn thành, khơng khó
khăn nào mà khơng thể vượt qua, khơng có kẻ thù nào mà khơng đánh thắng.
8
Trong suốt cuộc đời mình, Bác đã dày cơng nghiên cứu vấn đề đạo đức con
người, không chỉ nghiên cứu các học thuyết đạo đức phương Đông, phương Tây
mà Bác cịn vận dụng kế thừa và phát triển nó, đưa vào nó những nội dung mới,
những yếu tố mới phù hợp với thời đại, với sự nghiệp cách mạng mà nhân dân ta
đang theo đuổi. Đạo đức “Trung với nước, hiếu với dân” mà Bác đã dạy cho cán
bộ, nhân dân ta là biểu hiện sống động cho điều đó. Người từng khẳng định: “Đạo
đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như
người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” 1 và sự thật lịch sử
đã chứng minh cho sự đúng đúng của tư tưởng đạo đức đó, tồn Đảng, toàn dân ta
quán triệt tư tưởng đạo đức của Người vững tin lèo lái con thuyền cách mạng Việt
Nam vượt qua mọi phong ba, bão táp đạt được những thành tựu to lớn như ngày
hôm nay.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Đây cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức phương Đơng nhưng được Hồ
Chí Minh đưa vào đó những nội dung mới.
Vì sao mà Người đưa ra khẩu hiệu “cần, kiệm, liêm, chính”. Theo Người thì
đây chính là những phẩm chất cơ bản của người cách mạng, nó là nền tảng của đời
sống mới, của thi đua ái quốc, nhằm xây dựng đất nước ngày càng tươi đẹp hơn,
Hồ Chí minh từng dạy:
“Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì khơng thành trời
Thiếu một phương thì khơng thành đất
Thiếu một đức, thì khơng thành người”2
Có thể hình dung mọi sự nghiệp, công việc lớn, nhỏ đều bắt nguồn từ con
người thơng qua hoạt động thực tiễn của mình. Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng
vơ tư, khơng chủ nghĩa cá nhân, không tham nhũng tiêu cực... cũng là biểu hiện cụ
1
2
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 6, tr 320
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 5, tr 631
9
thể của phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân” và nó cũng là những nội dung
cơ bản của việc thực hành đạo đức cách mạng. Thực ra những khái niệm này là của
đạo đức cũ, được giai cấp thống trị đề ra nhưng không bao giờ thực hiện mà bắt
nhân dân lao động phải phục tùng.
Nhưng theo Hồ Chí Minh, những khái niệm đó lại mang một nội dung mới, đó
là: ta ra tay Cần, Kiệm, Liêm, Chính, cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân
noi theo nhằm để ích cho nước, để lợi cho dân.
Theo Người: “Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Người Tàu
có câu: Khơng có việc gì khó, chỉ e ta khơng siêng. Tục ngữ ta có câu: Nước chảy
mãi, đá cũng mòn. Kiến tha lâu, cũng đầy tổ”1. Tuy nhiên “cần” ở đây không chỉ là
“cần” ở mỗi người, siêng năng ở mỗi người mà nó cịn có nghĩa rộng hơn: mọi
người đều phải cần, cả nước đều phải cần. Cần phải làm việc đúng giờ, chớ đến
muộn, về sớm, làm việc mau chóng, chu đáo, sáng tạo và có năng suất cao.
“Kiệm là thế nào? là tiết kiệm, khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa
bãi”2. Đó là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của nhân dân, của đất nước,
của bản thân. Là sử dụng một cách hợp lý từ văn phòng phẩm. nguyên, nhiên, vật
liệu: “Một miếng giấy nhỏ đủ viết thì chớ dùng một tờ giấy to”3.
Hơn nữa, theo Hồ Chí Minh, Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau. Cần mà
không Kiệm thì “làm chừng nào, xào chừng ấy”, Kiệm mà khơng cần thì sẽ khơng
có tăng thêm, khơng phát triển được.
Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng của công, của dân”, là trong sạch, không
tham lam, tham tiền, tham của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống
yên, đều là bất liêm. Do bất liêm mà đi đến tội ác trộm cắp. Cơng khai hay bí mật,
trực tiếp hay gián tiếp bất liêm, tức là trộm cắp. Người còn cho rằng: cán bộ cậy
quyền, cậy thế mà đục khoét của dân, mua gian bán lận, người cờ bạc đều là bất
liêm.
Cịn “Chính” theo Người tức là đúng đắn. “Chính tức là không tà, nghĩa là
thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì khơng đứng đắn, thẳng thắn tức là tà” 4. Chính vì
1
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 5, tr 632.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 5, tr 636
3
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 5, tr 104
2
4
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 5, tr 634
10
vậy nên Người khuyên: “Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ
mấy cũng tránh”1. Chính là đức tính cần thiết cho mỗi người, mỗi tập thể, cơ quan,
chớ đem của công dùng vào việc tư. Việc gì cũng phải cơng bằng, chính trực.
Người cho rằng: Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Mỗi người Cần, Kiệm,
Liêm nhưng đồng thời phải Chính nữa mới là người hồn tồn.
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với cán bộ, đảng viên: Cần, Kiệm, Liêm, Chính là
vơ cùng quan trọng và cần thiết, vì họ là những người làm việc trong các cơ quan
cơng quyền, nắm trong tay ít nhiều quyền lực. Nếu khơng giữ được những phẩm
chất đó thì dễ trở nên hủ hại, biến thành sâu mọt của dân. Người cịn xem Cần,
Kiệm, Liêm, Chính là thước đo của sự văn minh, tiến bộ của mỗi dân tộc:“Một
dân tộc biết, Cần, Kiệm, biết Liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh
thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ” 2. Cần, Kiệm, Liêm, Chính đối với mỗi con
người là những phẩm chất cần phải có để: “làm việc, làm người, làm cán bộ,
phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân. Tổ quốc và nhân loại”. Đó là biểu hiện
của một xã hội hưng thịnh, những điều trái lại là biểu hiện của một xã hội suy
vong. Trong di chúc Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự Cần,
Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư”
Chí cơng vơ tư ở đây, theo Hồ Chí Minh có nghĩa là hết sức lo cho việc chung,
hết sức vì sự cơng bằng, đặt lợi ích của Đảng, dân tộc, tập thể lên trên lợi ích riêng
tư. Thực hiện Chí cơng vơ tư cũng là thực hiện đạo đức “mình vì mọi người, mọi
người vì mình” đó là “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chuẩn mực này đồng
thời nhắc nhở người cán bộ, cầm cân nảy mực, phải hết sức cơng bằng, khơng
được có lịng riêng mà thiên tư, thiên vị. Vì nếu khơng “Chí cơng vơ tư” thì sẽ thấy
đúng khơng dám bảo vệ, thấy sai không giám lên án. làm cho công lý bị bẻ cong,
pháp luật bị chà đạp.
“Chí cơng vơ tư” là làm đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, chính vì vậy
theo Hồ Chí Minh cần phải phê phán và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân “Kiên
quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Bởi như Người
1
2
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 5, tr 645
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 5, tr 642
11
từng viết: “Vết tích xấu xa nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá
nhân”1. Vì vậy, đạo đức cách mạng là vơ luận trong hồn cảnh nào cũng phải kiên
quyết đấu tranh chống mọi kẻ địch mà trong đó có chủ nghĩa cá nhân “chủ nghĩa
cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho nên thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân”2.
Hồ Chí Minh cũng phân biệt rõ: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân khơng
phải là “giầy xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở
trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình mình... khơng có chế độ nào
tơn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm
cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”3.
- Yêu thương, quý trọng con người, sống có tình có nghĩa
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một lãnh tụ hết lịng u thương và q
trọng nhân dân.
Hồ Chí Minh rất tin tưởng ở con Người. Bác yêu thương là tin tưởng ở con
người bằng tất cả sự chân thành và lịng tận tụy của mình. Suốt đời phấn đấu cho
lợi ích của tổ quốc, nhân dân: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho
quyền lợi của tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.. bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi
cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc, lợi dân...” 4, yêu thương con
người, nhưng không phải là con người trừu tượng, theo quan điểm nhân văn bịp
bợm tư sản. Trước hết đó là những con người xung quanh ta, là đồng bào, đồng
chí, bạn bè,... những con người mà ta tiếp xúc hàng ngày, trước hết là những người
nghèo khổ, hễ ai đau khổ là Người thương, một tình thương bao la khơng bờ bến.
Hồ Chí Minh từng viết: “Vậy là dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai
giống người, giống người bóc lột và giống người bị bóc lột, mà cũng chỉ có một
mối tình hữu ái là thật thà mà thơi, tình hữu ái vơ sản”5.
1
2
31
,2, 3 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 9, tr 291
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 4, tr 240
5
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, tập 4, tr 26
4
12
Ở Hồ Chí Minh, u thương con ngươì cịn đi liền với việc tơn trọng, tìm cách
nâng con người lên, dù đó là những con người nhất thời lầm lạc... Người dạy:
“Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc
bao nhiều sách mà sống khơng có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác
- Lênin được”1. Chính những tình thương u đó đã đánh thức những gì tốt đẹp
nhất mà Người tin chắc rằng trong mỗi con người đều có, tuy nhiều, ít khác nhau.
Người ln tìm cách hướng con người đi về phía tốt đẹp của cuộc đời. Tình yêu
thương con người, yêu thương nhân dân của Bác là sự đồng cảm của những người
cùng cảnh ngộ, những người dân mất nước, nơ lệ, lầm than. Chính người cũng là
nạn nhân của chính sách thống trị bạo tàn của chủ nghĩa thực dân. Trái tim ngừi
cùng nhịp đập với khát vọng được giải phóng của các dân tộc bị áp bức. Người đau
với nỗi đau chung của nhân loại bị đoạ đày. Những điều đó làm nên sức phản
kháng mạnh mẽ và một nhiệt huyết cách mạng không gì ngăn cản nổi ở Hồ Chí
Minh.
Tình u thương và quý trọng con người theo Bác suốt cả cuộc đời, trước lúc
đi xa trong Di chúc Người còn nhắn nhủ: “Cuối cùng, tơi để lại mn vàn tình
thương u cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên
và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các
cháu thanh niên nhi đồng quốc tế”2 một tình thương yêu giản dị, chân thật mà bao
la.
Tất nhiên tình u thương của Hồ Chí Minh ở đây khơng phải là tình u có
ngun tắc, như thứ tình thương u của tôn giáo ru ngủ con người. Với Người yêu
thương là phải nâng con người lên, cải tạo con người tốt đẹp hơn, tức là phải xây
dựng, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Yêu thương cũng không phải là baio che
cả lỗi lầm, trở thành phe cánh, phường hội. Như vậy chỉ là đem lại tổn thất cho
cách mạng, cho tổ quốc. Chính vì vậy, theo Bác, nhiệm vụ của chính quyền, đồn
thể ta là phải phụng sự nhân dân, làm đầy tớ cho dân. Bác luôn nhắc nhở cán bộ,
đảng viên đã phụng sư cho nhân dân thì phải phụng sự cho ra trị, nghĩa là việc gì
1
2
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, tập 12, tr 55
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, tập 12, tr 500
13
có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức
tránh.
- Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Chủ tịch Hồ Chí Minh là giương sáng của dân tộc và nhân loại về tinh thần
đoàn kết quốc tế. Người là của mọi người, là con người của thời đại, của chủ nghĩa
yêu nước chân chính, của Chủ nghĩa quốc tế cao cả. Hiếm có một nhân vật lịch sử
nào có sức cuốn hút được mọi người khắp các nước, khác màu da, khác chính kiến
san sẻ sự kính trọng, niềm tin u như Hồ Chí Minh. Điều đó có được là nhờ
những phẩm chất vô cùng cao đẹp của Người, ở đó thể hiện một tinh thần đồn kết
quốc tế trong sáng thủy chung. Chẳng thế mà cả thế giới đã nói về Người: “tên
tuổi của đồng chí Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi gắn bó với những hành động cao cả
nhất và những ước mơ đẹp đẽ nhất của nhân loại. Nhằm thực hiện một khối cộng
đồng anh em thật sự của nhân loại các nước. Được hưởng quyền bình đẳng và
được thoả mãn đầy đủ những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, một thế giới
khơng có chiến tranh, khơng có sự tàn bạo, sự nghèo khổ và sự phân biệt đối xử”1
Người muốn cả thế giới đồn kết, hồ bình. Cả cuộc đời Người ln hướng
mục tiêu hành động của mình vì lợi ích của dân tộc và nhân loại, ln tìm hướng đi
để thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Hồ
Chí Minh cịn đặc biệt chú ý đến xây dựng tình hữu nghị, hợp tác với các nước
láng giềng trong khu vực, với phương châm “giúp nhân dân nước bạn tức là tự
giúp mình”. Chính tinh thần đó đã đem lại những thuận lợi trong cuộc đấu tranh
chống Mỹ thống nhất nước nhà của nhân dân ta từ sự giúp đỡ thiết thực của bạn bè
quốc tế.
Hồ Chí Minh khơng chỉ là hiện thân của dân tộc Việt Nam mà còn là biểu
tượng của tất cả các dân tộc trên đường tự giải phóng mình. Lý tưởng “khơng có gì
q hơn độc lập tự do” trở thành khẩu hiệu đấu tranh của hàng triệu con người nên
trái đất này. Người đã trở thành anh hùng của dân tộc và thời đại với tinh thần quốc
tế thủy chung, trong sáng, suốt đời người đã trăn trở tìm con đường để xây dựng
cho đân tộc Việt Nam cũng như cho thế giới sau này một xã hội đảm bảo cho sự tự
1
Ủy ban toàn quốc Đảng Cộng sản Mỹ (5/9/1969).
14
do, công bằng và no đủ cho mọi người. Một xã hội mà ở đó, mình vì mọi người,
mọi người vì mình, một thế giới đại đồng mà Người đã tìm thấy trong mong muốn
của các bậc hiền triết Cổ, Kim, Đông, Tây và trong hiện thực của con đường cách
mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Với tinh thần quốc tế cao cả đó, trước lúc vĩnh biệt chúng ta Người còn thể
hiện trong Di Chúc: “là một người suốt đời phục vụ cách mạng tôi càng tự hào với
sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế bao nhiêu thì tơi càng
đau lịng bấy nhiêu, vì sự bất hồ hiện nay giữa các Đảng anh em.
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào sự khơi
phục lại khối đại đòn kết giữa các Đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, có lý, có tình.
Tơi tin chắc rằng các Đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải
đoàn kết lại”.
Học tập và noi theo phẩm chất cao quý đó của Người, Đảng ta đã xây dựng
một đường lối quan hệ quốc tế đúng đắn. Làm bạn với tất cả các nước, với sự hợp
tác đa phương với tình đồn kết quốc tế trong sáng, nhằm thực hiện được những
điều mà Người đã mong muốn: “Xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống
nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới”1 [12, 500].
4. Nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng.
4.1. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Theo Hồ Chí Minh, mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo
đức. Đó là cơng việc phải làm suốt đời, không được chủ quan tự mãn, lơ là rèn
luyện. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Đạo đức cách mạng khơng phải từ trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng lồi người”.
Hồ Chí Minh địi hỏi chúng ta phải “gian nan rèn luyện mới thành cơng”2. “Hiền
1
2
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 12, tr 500
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 3, tr 350.
15
dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. “Kiên trì và nhẫn nại...
Khơng nao núng tinh thần”.
Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào
lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng. Người cách mạng phải ý
thức được rằng đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng con người và là đạo đức
của những con người được giải phóng. Đã hoạt động cách mạng thì khó tránh khỏi
sai lầm, khuyết điểm. Ở thời kỳ trước là người có cơng, nhưng ở thời kỳ sau có thể
là người có tội, lúc trẻ giữ được đạo đức, nhưng lúc già lại thối hóa biến chất, hư
hỏng, vì vậy, tu dưỡng đạo đức mới phải gắn với thực tiễn, bền bỉ suốt đời, mọi
lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Có như vậy, mới phân biệt được với cách tu thân,
dưỡng tính của Nhó giáo, Phật giáo. Bởi vì đạo đức cách mạng là đạo đức mới.
Mục đích của đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp của Đảng
và của dân tộc nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Cho nên, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, bền bỉ hàng ngày, không một phút lơi là.
Người viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa
phải chăm bón rất khó nhọc mới tốt được. Cịn cỏ dại khơng cần chăm sóc cũng
mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Cịn tư tưởng
cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi nảy nở rất dễ”1.
4.2. Nêu gương đạo đức, nói đi đơi với làm
Đây khơng chỉ là một nguyên tắc rèn luyện mà còn phân biệt giữa đạo đức
cách mạng và không phải đạo đức cách mạng.
Nói mà khơng làm là đặc trưng đạo đức của giai cấp bóc lột. Lời nói phải đi
đơi với việc làm và thực hiện đạo làm gương là đạo đức của người cách mạng nói
chung, nằm trong vốn văn hóa phương Đơng nói riêng. Hồ Chí Minh đã viết: “Nói
chung thì các dân tộc phương Đơng đều giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm
gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” 2. “Trước mặt
quần chúng, không phải cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
1
2
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 9, tr 448.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 1, tr 263
16
dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước... Hơ hào tiết kiệm, mình
phải tiết kiệm trước đã”1. “Đảng viên đi trước làng nước theo sau”. Trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh giáo dục mọi người và chính bản
thân Người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm túc và gương mẫu hơn ai hết.
Tại phiên họp Hội đồng Chính phủ đầu tiên 3/9/1945, Bác đưa ra sáu vấn đề cấp
bách, một trong sáu vấn đề cấp bách là chống “giặc đói”. Bác đề nghị phát động
chiến dịch tăng gia sản xuất để cứu đói, trong khi chưa tăng gia sản xuất được để
cứu đói, Bác đề xuất phương án mở cuộc lạc quyên, lập “Hũ gạo cứu đói”, tổ chức
“Ngày đồng tâm” để góp gạo cứu đói. Bác đề nghị với đồng bào cả nước cứ 10
ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn ăn ba bữa (mỗi bữa một bơ) đem gạo đó cứu
đói dân nghèo, chính Hồ Chí Minh là người gương mẫu thực hiện trước, đều đặn
và đầy đủ nhất.
Trong lĩnh vực đạo đức, lời nói phải đi đơi với việc làm thì mới đem lại hiệu
quả thiết thực cho chính bản thân mỗi người và có tác dụng đối với người khác.
Đảng ta có hơn hai triệu đảng viên, nếu tất cả đảng viên thực hiện nguyên tắc “lời
nói đi đôi với việc làm”, “đảng viên đi trước làng nước theo sau” thì việc khó mấy
cũng làm được. Nếu “nói nhiều mà làm ít” hoặc “nói một đằng làm một nẻo” thì
chỉ đem lại hiệu quả phản tác dụng.
Theo Hồ Chí Minh đạo làm gương “nói đi đơi với làm” phải được quán triệt
trong tất cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực, từ Đảng, Nhà nước, các đoàn thể đến nhà
trường, gia đình, xã hội...
Đạo làm gương của Hồ Chí Minh, nói đi đơi với làm ở Người thực sự có một
sức thu hút mãnh liệt, khiến cho cả dân tộc, nhiều thế hệ, các giai tầng xã hội đều
tin tưởng đi theo tiếng gọi của Người.
4.3. Xây dựng đạo đức mới, đấu tranh chống những hiện tượng vi phạm
đạo đức
Trog tác phẩm Đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh lưu ý: thói que và truyền
thống lạc hậu là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Người cũng
nhiều lần nhắc nhở rằng: sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang trong
mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng. Vả lại, trong
1
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, tập 5, tr 552
17
mỗi con người đều có cái thiện và cái ác. Trong cuộc sống hàng ngày những hiện
tượng tốt xấu, đúng sai có đạo đức và vơ đạo đức vẫn tồn tại, đan xen nhau, đối
chọi nhau. Vì vậy, xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm
mục tiêu xây. Cũng vì vậy, Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: “Phải kiên quyết quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập
thể, tinh thần đồn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”1.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục
những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới, bằng việc nêu gương người tốt,
việc tốt, những tấm gương đạo đức trong sáng xuất hiện trong cuộc sống và bằng
việc khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh, để mỗi người tự giác với trách nhiệm đạo
đức của mình.
Trong việc chống và xây để có đạo đức mới, Hồ Chí Minh coi trọng việc
chống chủ nghĩa cá nhân và xây dựng chủ nghĩa tập thể. Vì chủ nghĩa cá nhân là
một thứ bệnh cực kỳ nguy hiểm.
Bởi vì, do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn sa vào tham ơ, hủ
hóa, lãng phí xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao, tự đại, coi
thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền, xa rời quần chúng,
xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh; khơng có tinh thần cố gắng vươn
lên; khơng chịu học tập để tiến bộ. Cũng do chủ nghĩa cá nhân mà mất đồn kết,
thiếu tính tổ chức, kém tinh thần trách nhiệm, khơng chấp hành đúng đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân
dân...
Những nguyên tắc cơ bản nêu trên là một thể thống nhất, gắn bó với nhau một
cách chặt chẽ. Đó là các nguyên nhân rèn luyện của cá nhân để trở thành người có
đạo đức cách mạng. Đó cũng là những nguyên tắc để Đảng ta xây dựng nền đạo
đức mới Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
II. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VỚI VIỆC
VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.
1
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, t 12, tr 439.
18
1. Tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức cho cán bộ, đảng viên ở
nước ta hiện nay.
Một trong những vấn đề then chốt của của công tác xây dựng Đảng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh là chăm lo giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên toàn diện về phẩm chất
đạo đức, năng lực cơng tác, tính tiên phong gương mẫu của người cán bộ, đảng viên.
trong đó giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là cái gốc, là vấn
đề cốt lỏi. Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức
cách mạng, tiêu biểu cho những giá trị cao đẹp trong tâm hồn, ý chí, nhân cách Việt Nam.
Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế của đất nước, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng, đồng thời là vấn đề hết sức quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng và hoạt động công tác đảng hiện nay.
Thấm nhuần tư tưởng và noi theo tấm gương đạo đức cách mạng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Phát huy truyền thống của dân tộc qua mấy ngàn năm dựng nước và
giữ nước, kế thừa và phát huy tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đại bộ phận cán bộ,
đảng viên của Đảng luôn trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức cảnh giác, tình thần trách nhiệm cao, chủ động
sáng tạo, khắc phục khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; trong bối cảnh
phức tạp của tình hình vẫn vững vàng kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; giữ vững được phẩm chất đạo đức cách mạng; có ý thức tổ chức kỷ luật
và lối sống trong sạch, lành mạnh, gần gũi với quần chúng được quần chúng tin
tưởng.
Hiện nay, trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa
với bên ngoài, thời cơ chen lẫn thách thức, cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ
chịu tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng đã có một số chuyển biến tích cực . Đảng ta ln địi hỏi đội ngũ cán
bộ, đảng viên ở bất kỳ cương vị nào cũng phải nghiêm túc học tập, tự giác rèn luyện,
thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, nêu cao tính chiến đấu tự phê bình và phê
19
bình trong mọi hoạt động cơng tác, lao động, học tập, chiến đấu và cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày. Công tác xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng luôn được xác định là khâu
then chốt, một nội dung cơ bản quan trọng của công tác xây dựng Đảng, nằm trong chiến
lược con người của Đảng và là một nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức đảng và toàn
Đảng. Đồng thời là một vấn đề có tính cấp bách về xây dựng Đảng trong giai đoạn cách
mạng hiện nay như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng đã khẳng định. Nhằm
không ngừng nâng cao chất lượng, phát triển số lượng, làm trong sạch đội ngũ đảng viên,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng; góp phần làm cho
tồn đảng ln được củng cố vững chắc, phát triển mạnh mẽ, xây dựng đảng ngang tầm
với nhiệm vụ cách mạng.
Song, bên cạnh những mặt tích cực, lại phát sinh nhiều mặt tiêu cực.
Những tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay được bộc lộ là:
Một số cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu, giảm sút niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng, trung bình chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng. Một bộ phận cán bộ,
đảng viên thoái hoá, biến chất về đạo đức, lối sống, tham ô, lãng phí, tham nhũng,
buôn lậu, bè phái, cục bộ, mất đồn kết, mơ hồ, mê tín dị đoan, vi phạm nguyên tắc
tổ chức sinh hoạt Đảng; phe cánh, gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, lấn át tập
thể, chưa nghiêm túc tự phê bình và tiếp thu phê bình, tính chiến đấu kém. Một số
cán bộ sống buông thả, sa đọa, rượu chè, … vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà
nước, làm sói mịn bản chất cách mạng, thanh danh của cán bộ, đảng viên, vi phạm
nghiêm trọng đến bản chất tốt đẹp của Đảng. Đại hội VIII của Đảng đã nhận định:
“Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý
tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo
đức, lối sống”. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII chỉ rõ: “Tình trạng quan
liêu, suy thối, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên đang diễn ra phổ biến,
tinh vi và nghiêm trọng hơn, nhất là sự suy thối về tư tưởng chính trị và đạo đức,
lối sống, sự vi phạm về nguyên tắc tập trung dân chủ, kỷ cương, kỷ luật lỏng lẻo
… đang làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, làm suy giảm lòng tin của nhân
dân”.. Đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX vấn đề này tiếp tục được đề cập đến:
20
“Tình trạng tham nhũng và sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, đang cản trở việc thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng”, “Một số khơng ít cán bộ thối hố về
phẩm chất, sống thực dụng, cửa quyền, hối lộ, sách nhiễu... ảnh hưởng rất xấu đến
uy tín của Đảng và Nhà nước, nhân dân chê trách”. Trong đánh giá khái quát về
tình hình xây dựng Đảng trong những năm qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X khẳng định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ
chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực, thiếu tính chiến đấu và
tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà
nước, giảm sút lòng tin phai nhạt lý tưởng; một số ít cịn có những biểu hiện bất
mãn, mất lịng tin, nói và làm trái với quan điểm của Đảng, vi phạm pháp luật của
Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
có nhiều hướng gia tăng...Thối hố, biến chất về chính trị, tư tưởng về đạo đức
lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dìa chưa được ngăn chặn,
đẩy lùi...”. Trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa
khẳng định: “Tình trạng say thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận khơng nhỏ, cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn
tiếp tục diễn biến phức tạp”1
Điều đáng quan tâm nhất hiện nay là vấn đề đạo đức của người cách mạng
đang đứng trước những thử thách khắc nghiệt đó là “Hiện nay trong hệ thống
chính trị của ta có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, kể cả
một số cán bộ, đảng viên cấp cao khơng làm được bốn điều dạy đó, mắc vào chủ
nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng. Họ gây thiệt hại về kinh tế, chiếm đoạt
tài sản của nhân dân, xa rời nhân dân, gây phiền hà cho nhân dân, gây mất đoàn
kết nội bộ, đặc biệt là làm giảm sút niềm tin của nhân dân. Đây thật sự là một
nguy cơ đối với Đảng và nhà nước ta”2.
1
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lầ thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011
Các chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2004
21
Trên từng lĩnh vực có thể thấy những biểu hiện của sự suy thoái đạo đức dưới
sự tác động của cơ chế thị trường với sự nhận thức lệch lạc của cán bộ, đảng viên.
Họ lấy phương châm xử thế “lấy lợi ích cá nhân kích thích cho sự đóng góp cho lợi
ích tập thể”, một người làm giàu thì trăm người khỏi nghèo, và quy luật cạnh tranh
khốc liệt của thị trường đã dần xua đuổi đi lòng bao dung và tình nhân ái, vốn là
nét đẹp truyền thống trong tâm hồn người Việt.
Nguy hại và đáng báo động nhất là chủ nghĩa cá nhân nảy nở, lây lan và
phát triển trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ, viên chức Nhà nước. Mặc dù đã được
Hồ Chí Minh cảnh báo, tìm biện pháp ngăn ngừa từ rất sớm, nhưng đáng tiếc là
cho tới nay, nguy cơ chủ nghĩa cá nhân khơng giảm mà cịn có xu hướng ngày càng
gia tăng, đang huỷ hoại cơ thể Đảng, làm sói mịn uy tín của Đảng đối với nhân
dân.
Có khơng ít cán bộ, đảng viên đã xa dân, lên mặt “làm quan cách mạng”,
cửa quyền, hống hách với dân, tham ô, hối lộ, tiêu xài phung phí. Các loại bệnh
này xuất hiện phổ biến, có mặt ở tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa
phương, tuy mức độ trầm trọng có khác nhau. Sự suy thối đạo đức của một bộ
phận đảng viên này lại được một bộ phận đảng viên khác có trách nhiệm duy trì kỷ
luật Đảng, pháp luật Nhà nước dung dưỡng, làm ô dù che chắn cho kẻ phạm tội,
đổi trắng thay đen, trù dập những người ngay thẳng dám đấu tranh.
Một số cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền, nắm vật tư, tiền của Nhà
nước, chạy theo đồng tiền để làm giàu cho cá nhân, gia đình bằng cách ăn cắp của
cơng, ăn hối lộ, nhận quà biếu, thông đồng với chủ doanh nghiệp tư nhân rút tiền
Nhà nước, bán rẻ lợi ích của Đảng và nhân dân. trong Đảng ta đã và đang hình
thành một bộ phận có thu nhập khơng bình thường, thu nhập vượt cao hơn chính
năng lực và sự cống hiến của họ. Sự giàu sang của bộ phận này là do lợi dụng
quyền lực Nhà nước được nhân dân giao phó, coi đó là một thứ sở hữu riêng, làm
tha hố quyền lực để vinh thân phì gia. Số này có mặt ở khắp nơi, trong cuộc sống
hàng ngày, chúng là một ma lực quyến rũ người khác, dựa dẫm, liên kết với nhau
để tranh giành, mưu toan, chiếm đoạt, lừa đảo, ăn cắp… gây ảnh hưởng hết sức
nguy hại đến uy tín và thanh danh của Đảng, của cán bộ, đảng viên.
22
Tình trạng suy thối về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên trong những năm đổi mới đã được các Đại hội Đảng và Hội nghị Trung
ương nhìn nhận một cách thẳng thắn, nghiêm túc. Có thể quy lại bảy ngun nhân
chính của tình trạng đó.
Một là, tính hiệu quả của cơng tác giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên còn thấp kém.
Văn kiện Đại hội X của Đảng có viết: “Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng
cịn nhiều hạn chế, thiếu sót…Cơng tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức lối
sống còn chung chung, kếm hiệu quả”1 Việc chuyển từ cơ chế quản lý tập trung
quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường đã làm thay đổi nhiều thang giá trị, trong
đó có giá trị đạo đức của người cán bộ, đảng viên muốn hoàn thành được nhiệm vụ
thì phải nhạy bén với thời cuộc, chủ động trong công việc, tự lực, tự cường và có
tính quyết đốn, sáng tạo, chứ khơng thể dựa dẫm, ỷ lại, trơng chờ ở cấp trên. Tóm
lại, ngừoi cán bộ, đảng viên phải thật sự có tài năng, có phẩm chất đạo dức tốt mới
có khả năng hồn thành được nhiệm vụ của mình. Song cơng tác giáo dục tư
tưởng, đạo đức còn chung chung, hiệu quả thấp. Việc tổ chức sinh hoạt đảng ở
nhiều cho bộ cịn hình thức chiếu lệ mà khơng có sự đấu tranh phê bình và tụe phê
bình nhiêm túc để kiểm điểm và góp ý cho từng cán bộ, đảng viên. Đảng ta nhấn
mạnh, cuộc vận dộng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình của cấp
ủy, tổ chức đảng, đảng viên chưa đặt yêu cầu đề ra.
Hai là, việc tổ chức giám sát, quản lý cán bộ cịn bng lỏng.
Kiểm tra, giám sát, góp phần hco cán bộ, đảng viên hoạt động tốt hơn, đúng
hơn, Mặt khác còn là biện pháp vừa sửa chữa được cái sai, vừa phòng ngừa việc
mất cán bộ. Vấn đề là ở chỗ, làm thế nào để những sai phạm, khuyết điểm được
phát hiẹn sớm, kịp ngăn ngừa, xử lý chứ không phải tới lúc bùng nổ sai phạm lớn,
hết phương hướng cứu chữa.
Văn kiện Đại hội XI nhấn mạnh thêm: “Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm
tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng”2 .
1
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, H, 2011.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, H, 2011.
23
Ba là, trong điều kiện mới, một bộ phận cán bộ, đảng viên mắc chủ nghĩa cá
nhân, sống buông thả, thiếu tự giác rèn luyện tu dưỡng, trong khi đó sự giáo dục,
quản lý, kiểm tra của các tổ chức đảng, trước hết là các chi bộ và cấp uỷ lại lỏng
lẻo; đồng thời chưa có quy chế để nhân dân tham gia giám sát, giáo dục cán bộ
đảng viên.
Bốn là, chủ nghĩa thực dụng có cơ sở kinh tế sâu xa, khách quan từ mặt trái
của nền kinh tế thị trường, mở cửa đang làm thay đổi thước đo chuẩn mực đạo
đức, nhưng Đảng ta chậm dự báo tình hình và thiếu những biện pháp phù hợp
đồng bộ , có hiệu quả trong việc kiểm tra giám sát giáo dục rèn luyện cán bộ đảng
viên. Nhiều tổ chức Đảng coi nhẹ công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán
bộ đảng viên, trong điều kiện thực hiện nền kinh tế thị trường và mở cửa, thiếu
những hình thức biện pháp quản lý, kiểm tra việc rèn luyện của cán bộ, đảng
viên , xử lý chưa kịp thời, thiếu nghiêm minh khi có vi phạm.
Năm là, trong điều kiện đảng cầm quyền , một số cán bộ, đảng viên "cơ hội"
không chịu rèn luyện phẩm chất của người cộng sản đã biến ""quyền lực thành lợi
ích vật chất cá nhân, sống trên dân, xa cách dân; Đồng thời nhiều chủ trương
chính sách pháp luật, trước hết là về kinh tế chưa đầy đủ và cịn nhiều sơ hở ....đó
gõy thờm khú khăn cho việc ngăn chặn và đẩy lựi suy thoỏi của cỏn bộ đảng viờn.
Sáu là, mặt trái của cơ chế thị trường và mở cửa đang hàng ngày hàng giờ
tác động đến tư tưởng tình cảm của cán bộ đảng viên trong khi chế độ chính sách
đãi ngộ, nhất là chính sách tiền lương bảo đảm cho cán bộ cơng chức cịn nhiều
bất cập. Tình trạng phân hố giàu nghèo trong xã hội phát triển nhanh...đó tỏc
động không nhỏ đến cỏc tổ chức đảng và mỗi cỏn bộ đảng viên.
Bảy là, các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược diễn biến hồ bình,
bằng mọi âm mưu thủ đoạn tinh vi và thâm độc: dùng tiền, gái... làm tha hố cán
bộ đảng viên, hịng thực hiện những âm mưu, ý đồ thâm độc của chúng.
Từ yêu cầu của công cuộc đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội, từ thực trạng về
sự suy thoái biến chất của một bộ phận cán bộ đảng viên hiện nay, đặt ra vấn đề
cơ bản và cấp bách về giáo dục đạo đức, lối sống cách mạng trong các tầng lớp
nhân dân mà tập trung trước hết là đối với đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng, để
24
xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch và vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ của
một đảng cầm quyền trong sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Để chặn đứng đà suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, một
mặt, phải chủ động phòng ngừa những tác động tiêu cực từ bên ngoài; mặt khác,
chủ yếu và quan trọng và phải tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ,
đảng viên và mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự nghiêm túc tự rèn luyện, tự mình
nâng cao đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng chứa đựng nội dung lớn, căn bản và hồn tồn có thể thực
hiện tốt nếu mỗi người chú trọng tu dưỡng rèn luyện. Tuân theo những chỉ dẫn của
Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta trong cơng cuộc đổi mới, có thể
hiểu đạo đức cách mạng hiện nay trên mấy điểm chính sau đây:
- Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu hết sức
mình cho sự thắng lợi, sự phát triển của cơng cuộc đổi mới vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
- Hết lịng, hết sức phục vụ sự nghiệp của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân,
trung với nước, hiếu với dân, đặt lợi ích của cách mạng, của đất nước và nhân dân
lên trên lợi ích của cá nhân, theo ngun tắc "Dĩ cơng vị thương".
- Thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vô tư. Không tham nhũng, xâm
phạm tài sản của Nhà nước và nhân dân, khơng lãng phí. Chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối, cương lĩnh, kỷ luật của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Ra sức học tập, rèn luyện khơng ngừng nâng cao trình độ, năng lực cơng tác,
giữ gìn lối sống trong sạch, lành mạnh. Đề cao tự phê bình và phê bình nhằm góp
phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh.
- Gương mẫu trong mọi việc, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, đoàn
kết, thân ái, nêu cao tinh thần thương yêu đồng chí, thương yêu nhân dân.
Nghị quyết TW5 khoá VIII của Đảng đã xác định “ Xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong đó vấn đề xây dựng đạo
đức, lối sống là những vấn đề then chốt mà Nghị quyết đã chỉ rõ:
25