Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Bai thu hoach giới trong lanh dao quan ly, phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị việt nam, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.69 KB, 7 trang )

BÀI THU HOẠCH
MÔN GIỚI TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
MỞ ĐẦU
Phong trào giải phóng phụ nữ cùng với sự tham gia vào đời sống chính trị
của phụ nữ phát triển mạnh mẽ nhằm đấu tranh địi quyền bình đẳng giới, bao gồm
bình đẳng về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Ở đó, phụ nữ và nam giới cùng
được hưởng các quyền, đồng thời chia sẻ lợi ích, trách nhiệm và thụ hưởng các giá
trị chân, thiện, mỹ. Ngày nay, việc tham gia chính trị của phụ nữ đã và đang gắn
liền với vấn đề bình đẳng giới và được thực hiện ngày càng hiệu quả. Việc phụ nữ
tham gia lãnh đạo, quản lý là biểu hiện cao nhất, đầy đủ nhất quyền bình đẳng giới
của phụ nữ. Việc tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý
khơng chỉ là một tiêu chí quan trọng của bình đẳng giới mà cịn là động lực thúc
đẩy mức độ bình đẳng giới. Khi người phụ nữ ở vị trí lãnh đạo, quản lý, việc ban
hành các chính sách và tổ chức thực hiện các chính sách có lồng ghép vấn đề bình
đẳng giới sẽ thuận lợi hơn. Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã có
nhiều nỗ lực để phụ nữ ngày càng giữ nhiều vị trí chủ chốt trong hệ thống chính trị.
Chính vì vậy, đánh giá những thành cơng, hạn chế của công tác cán bộ nữ thời gian
qua, đặc biệt là nhìn nhận đúng đắn, khách quan nguyên nhân của những hạn chế sẽ
giúp chúng ta có những giải pháp hiệu quả hơn về việc bảo đảm bình đẳng giới
trong lĩnh vực chính trị. Xuất phát từ những lý do trên, em lựa chọn xây dựng bài
thu hoạch hết môn của mình là "Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ
thống chính trị Việt Nam, thực trạng và giải pháp".
NỘI DUNG


I. Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam và những
rào cản hạn chế phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc giải phóng
phụ nữ, coi đó là một nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng. Đảng ban hành nhiều chỉ


thị, nghị quyết về công tác cán bộ nữ như Chỉ thị số 37/CT-TW ngày 16/5/1994 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về "một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ
trong tình hình mới", Nghị quyết số 04-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng đã đặt vấn
đề xây dựng đội ngũ cán bộ nữ thành nhiệm vụ có tính chiến lược trong tồn bộ
cơng tác cán bộ của Đảng và Nhà nước. Những nghị quyết, chỉ thị đó là cơ sở để
Đảng và Nhà nước ta có những chính sách, biện pháp cụ thể nhằm tăng cường sự
tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Do đó, số lượng phụ nữ được
giữ trọng trách trong hệ thống chính trị ngày càng tăng.
Tuy nhiên, cơng tác cán bộ nữ vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Mặc dù tỷ lệ
nữ lãnh đạo quản lý từ Trung ương đến địa phương trong các cơ quan, tổ chức
chính trị xã hội đã tăng đáng ghi nhận nhưng trên thực tế Việt Nam khơng có nhiều
đại diện nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo cao cấp, tỷ lệ nữ là bộ trưởng cũng còn thấp,
những cán bộ nữ nắm giữ được những vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị
thường đã nhiều tuổi, khơng có nhiều thời gian để phát huy hết năng lực của mình;
nữ lãnh đạo, quản lý cấp vụ trở lên ở cấp Trung ương và cán bộ nữ chủ chốt cấp
tỉnh hiện nay hầu hết đều ở độ tuổi trên 50; tỷ lệ cán bộ nữ cấp phòng ở huyện,
quận và cấp cơ sở khơng nhiều. Chính vì vây, phụ nữ Việt Nam mặc dù vị thế trong
lĩnh vực chính trị đã được nâng lên nhưng vẫn còn những mặt tồn tại, hạn chế, một
số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do còn tồn tại sự chênh lệch giới trong công tác giáo dục
Trình độ học vấn là một yếu tố quan trọng cấu thành năng lực của người cán
bộ. Vì vậy, đây cũng là một trong những tiêu chí quan trọng để đề bạt, bổ nhiệm
phụ nữ vào những vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tuy


mức độ chênh lệch về trình độ giữa nam và nữ ở cấp học thấp khơng đáng kể
nhưng ở trình độ học vấn càng cao thì mức chênh lệch về giới lại càng lớn. Có rất
nhiều nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch giới về trình độ học vấn ở mức cao như:
ở lứa tuổi này, phụ nữ thường bận rộn với cơng việc gia đình, sinh con và chăm sóc
con, phụ nữ thường nhường cơ hội học tập cao cho người chồng của mình… Tuy

nhiên, khi tỷ lệ phụ nữ có trình độ học vấn cao thấp hơn nam giới thì họ sẽ bị thua
kém hơn về cơ hội trong việc tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý.
Thứ hai, định kiến giới vẫn còn tồn tại
Đây là một vấn nạn còn nan giải, Việt Nam là một nước nơng nghiệp lạc hậu,
trải qua hàng nghìn năm thuộc địa phong kiến nên ý thức hệ phong kiến với quan
niệm “trọng nam khinh nữ”; việc làm quan, công việc đại sự là của nam giới, phụ
nữ chỉ lo việc bếp núc trong nhà, đã ăn sâu vào nếp nghĩ của khơng ít người. Mặc
dù hiện nay pháp luật đã dần cơng nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong mọi
lĩnh vực nhưng tâm lý này vẫn còn tồn tại trong một bộ phận nhân dân, trong đó có
một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý. Điều đó là một trở ngại cho sự tham gia
cơng tác lãnh đạo, quản lý của nữ giới. Bởi lẽ khi cấp trên khơng tin tưởng thì sẽ
khơng cất nhắc, đề bạt họ lên những vị trí quan trọng, chủ chốt, không mạnh dạn
giao việc cho cán bộ nữ đúng lúc, đúng việc, đúng tầm.
Thứ ba, tâm lý tự ti, an phận của phụ nữ
Từ cổ chí kim, người phụ nữ thường tự ti. Trong thâm tâm, chị em ln nghĩ
mình là phận gái, vốn dĩ thua kém đàn ông, nên chi ít người gắng sức để thành đạt,
mà thường “an phận thủ thường”. Do hoàn cảnh lịch sử để lại, phụ nữ ít có điều
kiện, cơ hội để tham gia những công việc trọng đại của cộng đồng, đất nước, ít có
cơ hội để khẳng định mình trước nam giới. Chính vì vậy, đã hình thành tâm lý tự ti,
thiếu tin tưởng vào khả năng của mình trong chính bản thân phụ nữ. Hơn nữa, với
thiên chức làm vợ, làm mẹ của mình, người phụ nữ có trọng trách rất lớn trong việc
xây dựng gia đình. Chế độ xã hội phong kiến kéo dài hàng nghìn năm đã cột chặt


người phụ nữ vào trọng trách đó. Do vậy, mặc dù khi xã hội phát triển, phụ nữ được
tham gia các hoạt động xã hội nhiều hơn nhưng trước mâu thuẫn giữa sự nghiệp và
gia đình, nhiều phụ nữ có tâm lý an phận, đặt gia đình quan trọng hơn sự nghiệp.
Họ chấp nhận tham gia các hoạt động xã hội ít đi để có thể dành được nhiều thời
gian lo lắng, chăm sóc cho gia đình hơn. Thế nên, ngay bản thân phụ nữ cũng đã tự
dưng lên cho mình trở ngại trong việc tham gia lãnh đạo, quản lý.

II. Giải pháp để tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh
đạo, quản lý
Thứ nhất, khắc phục định kiến giới
Phụ nữ phải được xã hội và đặc biệt là nam giới tôn trọng, ủng hộ thì vai trị
của họ trong xã hội mới được phát huy. Nếu những cán bộ lãnh đạo quản lý có
nhận thức đúng đắn về giới thì họ sẽ cơng bằng hơn trong đào tạo, đánh giá, đề bạt,
bổ nhiệm cán bộ dù là nam hay nữ. Nếu nam giới nhận thức đúng đắn hơn về bình
đẳng giới thì họ sẽ cùng chia sẻ, gánh vác cơng việc gia đình với phụ nữ theo điều
kiện và khả năng có thể, tạo điều kiện cho phụ nữ có thêm cơ hội để nâng cao trình
độ học vấn, có thêm thời gian để làm việc, cống hiến và tham gia công tác lãnh
đạo, quản lý. Tuy nhiên, để xóa bỏ một tâm lý, tư tưởng đã ăn sâu trong nếp nghĩ
của nhiều thế hệ người Việt Nam không phải là việc dễ dàng, nó địi hỏi nỗ lực cao
độ trong cơng tác giáo dục về bình đẳng giới. Bởi lẽ mặc dù pháp luật đã thừa nhận
sự bình đẳng giới bằng văn bản chính thống, nhưng nếu những tư tưởng, định kiến
về giới vẫn cịn tồn tại dù là khơng cơng khai thì cũng vẫn là cản trở rất lớn đối với
việc tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ. Chính vì vậy, đào tạo lại thế hệ người
lớn tuổi hiện nay là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là đào tạo thế hệ trẻ, bởi vì
chính thế hệ trẻ mới có khả năng vượt qua những định kiến do lịch sử để lại, để xây
dựng một xã hội bình đẳng giới, cơ hội dành cho cả nam giới và nữ giới.
Thứ hai, có kế hoạch phát triển cán bộ nữ cụ thể


Việc thay đổi định kiến về giới phải được biểu hiện bằng những hành động
mang tính thực tế, đó là phải có kế hoạch phát triển cán bộ nữ mang tính chiến lược
lâu dài và có tính đột phá. Chính vì vậy, cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị
cần phải có kế hoạch thiết thực trong việc đào tạo, bồi dưỡng và cất nhắc cán bộ
nữ. Tức là các cấp lãnh đạo cần phải thường xuyên quan tâm, xây dựng chỉ tiêu cụ
thể, chi tiết trong từng năm, từng thời kỳ cho công tác cán bộ nữ và nghiêm túc
thực hiện. Trong đó, phải coi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ là khâu nền tảng.
Nếu không chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ thì phụ nữ sẽ khó hội tụ đủ

điều kiện và tiêu chuẩn để được đề bạt, bổ nhiệm, cất nhắc.
Thứ ba, bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên
Ngày nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, chủ
trương, đường lối, tạo mọi điều kiện để phụ nữ phát huy hết khả năng, trí tuệ của
mình mà chính bản thân phụ nữ khơng cố gắng vươn lên thì cũng khơng có ý nghĩa
gì. Vì vậy, phụ nữ trước hết phải xóa bỏ tâm lý tự ti và tin tưởng vào khả năng của
mình. Khi đủ tự tin, phụ nữ sẽ không quản ngại khó khăn, sẽ nỗ lực học tập để
khẳng định mình, bởi lẽ chỉ có tự nâng cao trình độ, trí tuệ thì phụ nữ mới có thể
đảm đương được mọi cơng việc mà Đảng và Nhà nước giao phó. Nếu khơng khẳng
định được năng lực của mình tương xứng với nam giới thì cơng tác đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ nữ sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ tư, phát triển các dịch vụ xã hội về gia đình
Lãnh đạo, quản lý cũng là một loại lao động chất lượng cao, địi hỏi nhiều trí
tuệ và chất xám. Trong khi đó, thực tế cho thấy, phụ nữ hầu như phải dành nhiều
thời gian và tâm sức hơn nam giới cho công việc gia đình. Do đó, để phụ nữ có thể
phát huy hết khả năng của mình trong cơng tác lãnh đạo, quản lý thì phải phát triển
tốt các dịch vụ liên quan đến gia đình như nhà trẻ, nhà hàng, dịch vụ dọn dẹp nhà
cửa… nhằm giải phóng phụ nữ khỏi một phần cơng việc gia đình. Nhà nước cần


đầu tư, phát triển rộng khắp các dịch vụ xã hội liên quan đến gia đình với mức chi
phí phù hợp để nhiều gia đình có thể sử dụng các dịch vụ này.
Thứ năm, phải có sự sẻ chia của nam giới đối với phụ nữ
Để có được thành cơng, phụ nữ cần phải có sự sẻ chia từ nam giới; sự bình
đẳng chỉ có khi nam giới xác định rõ đó vừa là trách nhiệm, vừa là sự chia sẻ u
thương trong gia đình, chứ khơng phải do một chuyên gia về giới nào đó bảo cần
phải làm vậy.
Các giải pháp trên phải được thực hiện một cách đồng bộ mới có thể góp
phần vào việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ Việt Nam vào các vị trí lãnh đạo,
quản lý. Nó địi hỏi sự nỗ lực, cố gắng thay đổi trong cả nhận thức và hành động

của toàn xã hội, cả nam giới và nữ giới. Việc thực hiện bình đẳng giới nói chung,
bình đẳng giới trong chính trị nói riêng, là nhiệm vụ chung của tồn xã hội, khơng
phải là cơng việc của riêng một giới nào.
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam, nền tảng tư
tưởng cho hành động của cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách
mạng Việt Nam. Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính
sách của nhà nước về cơng tác phụ nữ, các cấp ủy Đảng, chính quyền của tỉnh Phú
Thọ đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ nữ có đủ trình độ chun môn,
nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý đáp ứng với u cầu đẩy mạnh sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, cơng tác tuyển dụng đào tạo, bồi dưỡng,
bố trí, sử dụng, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ vào các cương vị lãnh đạo
quản lý đã có những chuyển biến tích cực. Cùng với đó là sự nỗ lực học tập, rèn
luyện về phẩm chất đạo đức và năng lực, đội ngũ cán bộ cơng chức nữ cơng tác
trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể đã chủ động, tích cực phấn đấu hoàn


thành tốt nhiệm vụ được giao, nhiều cán bộ nữ được bổ nhiệm giữ chức vụ quan
trọng chủ chốt trong các ngành, các cấp.
----------------



×