Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

VÌ SAO SẮT LẠI BỊ GỈ ? potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.28 KB, 6 trang )

VÌ SAO SẮT LẠI BỊ GỈ ?
Sắt là kim loại rất dễ bị gỉ. Hầu như các đồ vật bằng sắt bày trong
viện bảo tàng đều bị gỉ . Dao thái rau nếu để mấy tháng không dùng
đến sẽ bị gỉ. Hàng năm, trên toàn thế giới có đến hàng triệu tấn thép
biến thành sắt gỉ.
Sắt bị gỉ ngoài việc do tính hoạt động hóa học của sắt còn do các
điều kiện ngoại cảnh. Nước là một điều kiện làm cho sắt bị gỉ. Các nhà
hóa học đã chứng minh nếu để sắt trong bầu không khí không có nước
thì dù có trải qua mấy năm cũng không hề bị gỉ. Tuy nhiên nếu chỉ
riêng một mình nước cũng không hề làm sắt bị gỉ. Nếu cho mảnh sắt
vào trong bình đun sôi với nước cất trong bình kín thìsắt cũng không bị
gỉ. Nguyên nhân là chỉ khi có nước và oxy tác dụng đồng thời mới làm
cho sắt bị gỉ. Ngoài ra khí cacbon dioxyt hòa tan trong nước cũng làm
cho sắt bị gỉ. Thành phần của gỉ sắt rất phức tạp, chủ yếu gồm sắt oxyt,
hydroxyt sắt, cacbonat sắt v.v
Gỉ sắt vừa xốp, vừa mềm giống như bọt biển. Một mảnh sắt bị gỉ hoàn
toàn sẽ tăng thể tích khoảng 8 lần. Một mảnh sắt gỉ có trạng thái như
bọt biển sẽ dễ dàng hấp thụ nước và nhanh chóng bị rã nát.
Còn có nhiều nhân tố làm sắt dễ bị gỉ: như các muối hòa tan trong
nước, bề mặt trên các đồ vật bằng sắt không sạch, độ thô ráp, thành
phần cacbon trong thép v.v…
Người ta đã nghĩ ra nhiều biện pháp để chống sắt thép bị gỉ. Phương
pháp thông dụng nhất là khoác cho các đồ vật bằng sắt thép một bộ “áo
khoác”. Sơn và mạ là các biện pháp đơn giản để chống gỉ sắt. Trên các
cầu sắt cho xe hỏa người ta thường sơn, trong các ống phun khí nóng
người ta phủ lớp sơn xì bằng bột nhôm, trên các đồ đựng người ta mạ
thiếc, các tấm tôn được mạ kẽm V.V…
Biện pháp triệt để nhất để chống sắt gỉ là cấp cho sắt một “lõi bền”,
là thêm các kim loại khác để tạo thép hợp kim không gỉ. Loại thép
hợp kim trơ , không rỉ chín
VÌ SAO XĂNG DỄ BỐC CHÁY HƠN DẦU


Xăng và dầu hoả đều được chế tạo từ dầu mỏ.Xăng và dầulà "anh em
với nhau", về phương diện hoá học chúng đều là hợp chất do hai loại
nguyên tử cacbon và hyđro - các hyđrocacbon - tạo ra. Điểm khác nhau
là ở chỗ xăng gồm có các phân tử có số nguyên tử cacbon trong phân tử
từ 5 - 11, còn ở dầu hỏa số nguyên tử cacbon trong phân tử là 11 - 16.
số nguyên tử cacbon trong phân tử hyđro cacbon khác nhau thì tính
chất cháy cũng khác nhau. Với xăng ở nhiệt độ thường khi tiếp xúc với
ngọn lửa hoặc tia lửa là bốc cháy dễ dàng, còn dầu hoả ở nhiệt độ
thường khi tiếp xúc vói lửa ngọn không bắt cháy được. Thế nhưng khi
tẩm dầu hoả vào bấc đèn dùng ngọn lửa để châm thì bấc đèn sẽ cháy
ngay. Vì sao vậy?
Sự cháy của vật chất được chia thành bốn tình huống: Loại thứ nhất
gọi là cháy lan rộng. Khí than trong phòng kín, khí hoá lỏng là nhiên
liệu khí. Khi dòng khí thoát ra, sẽ lan toả trong không khí một mặt vừa
trộn lẫn, một mặt vừa cháy. Loại thứ hai là chất cháy bay hơi: cồn,
xăng, là nhiên liệu ở trạng thái lỏng. Thông thường bản thân nhiên liệu
lỏng không cháy, nhưng sau khi bay hơi, hơii nhiên liệu sẽ trộn lẫn với
không khí làm thành hỗn hợp dễ cháy. Loại thứ ba là sự cháy phân huỷ:
đó là các chất rắn hoặc chất lỏng khó bay hơi. Sau khi chịu tác dụng
của nhiệt sẽ phân huỷ thành các chất khí dễ cháy. Cuối cùng là loại chất
cháy trên bề mặt. Than cốc thuộc loại này. Với loại chất cháy này sự
cháy xảy ra trên bề mặt tiếp xúc giữa không khí và vật rắn. Đặc điểm
của sự cháy này là xảy ra không rõ rệt.
Xăng và dầu hoả thuộc loại nhiên liệu lỏng bay hơi. Sự cháy của
xăng và dầu hoả thuộc loại chất cháy do bay hơi. Sự cháy do các chất
bay hơi có liên quan đến sự dẫn lửa và điểm bắt lửa của các nhiên liệu
lỏng. Điểm bắt lửa liên quan đến nhiệt độ thấp để trên bề mặt nhiên liệu
lỏng có thể biến thành hơi trộn lẫn với không khí thành hỗn hợp cháy.
Ví dụ điểm bắt lửa (hay điểm chớp lửa) của xăng khoảng trên dưới -
46°c. Điểm bắt lửa của dầu hoả từ 28 - 45°c. Những chất lỏng có điểm

bắt lửa lớn hơn 45°c là những chất cháy được. Dầu mazut, dầu thực vật
thuộc loại này. Những chất có điểm bắt lửa từ 22 - 45°c thuộc loại chất
dễ cháy, dầu hoả thuộc loại chất dễ cháy. Các chất có điểm bắt lửa nhỏ
hơn 22°c thuộc loại chất cháy nguy hiểm, cồn có điểm bắt lửa là1°c
thuộc loại chất cháy nguy hiểm. Xăng có nhiệt độ bắt lửa thấp hơn
thuộc loại chất cháy rất nguy hiểm.
Xăng có điểm bắt lửa thấp hơn nhiệt độ môi trường bên ngoài nhiều.
Trên bề mặt của xăng ở nhiệt độ thường dễ bay hơi để tạo thành với
không khí hỗn hợp cháy nên chỉcần tiếp xúc với lửa ngọn hoặc tia lửa
là sẽ bắt cháy đùng đùng. Sau khi lớp hơi xăng trên mặt xăng lỏng bị
cháy, xăng lại tiếp tục bay hơi mạnh hơn và sự cháy tiếp tục được duy
trì.
Đối với dầu hoả thì tình hình có khác. Ví dụ khi nhiệt độ bên ngoài là
25°c, do chưa đạt đến điểm bắt lửa của dầu hoả nên trên bề mặt dầu hoả
không có lượng hơi dầu đủ trộn với không khí thành hỗn hợp cháy nên
sẽ không bắt được lửa để cháy. Vì vậy khi bạn đem que diêm đang
cháy lại gần bề mặt dầu hoả, dầu hoả không thể nào cháy được. Nhưng
nếu bạn lại tẩm dầu hoả vào bấc đèn thì tình hình lại khác. Khi tẩm dầu
hoả vào bấc đèn (ví dụ làm bằng sợi vải, hay sợi bấc), dưới tác dụng
của các mao quản trong sợi vải, dầu sẽ ngấm toàn bộ vào bấc đèn. Do
bấc đèn là vật dễ cháy, nên khi đem châm lửa vào bấc đèn, nhiệt độ
xung quanh sợi bấc sẽ lớn vượt quá điểm bắt lửa của dầu hoả nên làm
cho dầu hoả trên bề mặt bấc đèn bốc cháy. Dầu hoả ở đầu sợi bấc đã
cháy hết, dầu ở bên dưới lại được ngấm lên do lực mao quản, do đó sự
cháy được duy tri lâu dài.
Sự cháy của dầu hoả nói chung gắn chặt với tim đèn. Nhưng nếu trong
một số điều kiện đặc biệt, nhiệt độ xung quanh dầu hoả cao hon điểm
bắt lửa, bấy giờ không cần có tim đèn dầu hoả vẫn bốc cháy. Ví dụ khi
có một xe chở dầu đã bị cháy, nhiệt độ có thể lên đến mấy trăm độ.
Trong điều kiện đó các nhiệt độ xung quanh đã vượt quá điểm bắt lửa

của chất dễ cháy, kể cả các chất có điểm bắt lửa cao như dầu mazut,
dầu ăn, thậm chí nhựa đường cũng sẽ cháy rất mãnh liệt, bấy giờ dĩ
nhiên không cần đến tim đèn.



×