ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ TRANG THỦY
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
TRẦN DẦN QUA ĐÊM NÚM SEN VÀ NHỮNG NGÃ TƢ
VÀ NHỮNG CỘT ĐÈN
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI - 2020
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ TRANG THỦY
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
TRẦN DẦN QUA ĐÊM NÚM SEN VÀ NHỮNG NGÃ TƢ
VÀ NHỮNG CỘT ĐÈN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8229030.04
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS HÀ VĂN ĐỨC
HÀ NỘI - 2020
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các
thầy cơ giáo Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội văn nhân văn – Đại
học Quốc Gia Hà Nội, các thầy cô công tác tại Viện Văn học Việt Nam, gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS
Hà Văn Đức – người đã hết lịng giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để em hoàn thành tốt
luận văn này.
Em xin gửi tới quý thầy cô trong Hội đồng bảo vệ lời cảm ơn chân thành!
Do cịn hạn chế về trình độ nên luận văn chắc chắn sẽ cịn nhiều thiếu sót,
em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý từ phía thầy cơ, đồng nghiệp và các bạn.
Hà Nội, tháng 05 năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Trang Thủy
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................5
3. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................8
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................8
6. Đóng góp luận văn ..................................................................................................9
7. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................10
PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................................11
CHƢƠNG 1. LÝ THUYẾT TRẦN THUẬT VÀ KHÁI QUÁT VỀ TIỂU THUYẾT
TRÂN DẦN ..............................................................................................................11
1.1. Lý thuyết nghệ thuật trần thuật ..........................................................................11
1.1.1. Khái niệm trần thuật ........................................................................................11
1.1.2. Vai trò của nghệ thuật trần thuật trong xây dựng tiểu thuyết .........................12
1.2. Khái quát về tiểu thuyết Trần Dần .....................................................................15
1.2.1. Trần Dần và hành trình sáng tạo nghệ thuật ...................................................15
1.2.2. Giới thiệu tiểu thuyết Trần Dần ......................................................................19
CHƢƠNG 2. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT VÀ HÌNH THỨC KẾT CẤU TRẦN
THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT TRẦN DẦN ......................................................24
2.1. Điểm nhìn trấn thuật trong tiểu thuyết Trần Dần. ..............................................24
2.1.1. Khái quát về điểm nhìn trần thuật ...................................................................24
2.1.2. Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và
những cột đèn ............................................................................................................30
2.1.2.1. Điểm nhìn bên trong với Đêm núm sen ........................................................32
2.2.2.2. Điểm nhìn bên ngồi với Những ngã tư và những cột đèn..........................29
2.2.2.3. Điểm nhìn phức hợp với Những ngã tư và những cột đèn..........................32
2.2. Hình thức kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần ...................................35
2.2.1. Khái niệm về kết cấu và kết cấu trần thuật .....................................................35
2.2.2. Hình thức kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư
và Những cột đèn.......................................................................................................39
1
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN ...........................................................55
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần ........................................55
3.1.1. Giới thuyết chung về ngôn ngữ nghệ thuật .....................................................55
3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn ....57
3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần .......................................74
3.2.1. Giới thuyết chung về giọng điệu trần thuật .....................................................74
3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn ....76
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................95
2
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1.
Trần Dần là một tác giả có đóng góp quan trọng trong văn học Việt Nam
hiện đại. Khi nhắc đến Trần Dần ngƣời ta nhắc đến một nhà văn vƣợt qua nhiều ngã
tƣ để đến với cuộc đời. Cuộc đời của Trần Dần đã trải qua những lình xình về vấn
đề chính trị. Vì thế suốt một thời gian dài bóng dáng tên tuổi của ông không đƣợc
mọi ngƣời biết đến trên văn đàn. Thời điểm thơ ca phƣơng Tây xâm nhập vào Việt
Nam nhƣ một hiện tƣợng lạ đã thu hút đông đảo văn nghệ sỹ khám phá, nhìn nhận
những đặc trƣng mới mẻ và tính hiện đại vốn có của nó. Bên cạnh đó những trào
lƣu, hiện tƣợng, lý thuyết Phƣơng Tây hiện đại cũng đem đến một cái nhìn thống
hơn đối với văn học hiện đại Việt Nam, trong đó có thơ văn Trần Dần. Trần Dần
sáng tạo nghệ thuật từ rất sớm, đặc biệt là thơ ca. Mặc dù trải qua cách đây mấy
chục năm, đọc thơ văn Trần Dần ngƣời ta vẫn ngạc nhiên bởi những cách tân mới
mẻ. Khơng chỉ dừng lại ở đó, khi đất nƣớc vận động và chuyển mình bƣớc sang thế
kỷ XXI, tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn lần lƣợt đƣợc
xuất bản đã gây cho ngƣời đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác khơi dậy một làn
sóng sơi nổi trên thi đàn văn học nƣớc nhà. Ngƣời đọc ngạc nhiên trƣớc sự nổi bật
và cách tân táo bạo hơn hẳn so với tác phẩm ở giai đoạn văn học ấy. Vì thế ngƣời ta
bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu nghiêm túc và kỹ càng hơn trong sáng tạo nghệ thuật
của Trần Dần.
Là ngƣời trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, hòa chung khơng
khí của dân tộc, Trần Dần có nhiều đóng góp chung về đề tài kháng chiến, cách
mang: thơ ca mang âm điệu hùng tráng, dồn dập trong Đi! Đây Việt Bắc! hay nỗi
xót xa trƣớc những đau thƣơng cùng niềm tin tƣơng lai tƣơi sáng của dân tộc trong
Nhất định thắng. Trong tác phẩm văn xuôi, sáng tác của Trần Dần nhƣ một dòng
suối mát lạnh trong thời điểm văn học nƣớc nhà đang khơ cằn. Ơng đem đến một
luồng gió mới cho văn học, khi chiếm lĩnh một chân trời riêng, cũng viết về đề tài
chiến tranh nhƣng ông khai thác sự kiện, nhân vật, kết cấu hoàn toàn khác lạ so với
thơ văn thời ấy. Sáng tác của Trần Dần tạo ra sự tò mò và khơi gợi tính thích thú
cho nhiều nhà nghiên cứu, phê bình ở thời điểm bấy giờ.
3
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
1.2.
Trong khơng khí đổi mới, cùng với việc nhìn nhận lại các vấn đề chính trị đã
trả lại sự trong sạch cho Trần Dần. Cùng với đó văn chƣơng Trần Dần một thời
vắng bóng nay đã đƣợc in ấn lại và đã khẳng định đƣợc vị trí của ơng trên các diễn
đàn văn học. Khi mới bƣớc ra ánh sáng, ngƣời ta vẫn thấy thấp thống đâu đó tâm
lý của sự dè dặt, ngƣợng ngùng sau bao nhiêu biến cố Trần Dần đã trải qua. Trong
bóng tối, im lặng ln dai dẳng, ông âm thầm kiên quyết và đau đớn theo đuổi
những giấc mơ cách tân của mình. Hành trình ấy dài bất tận cho đến cuối cuộc đời,
khi ông khơng cịn đủ sức lực để cầm bút nữa. Ngƣời thân, gia đình và bạn bè vẫn
khâm phục ơng, trân trọng công sức sáng tạo những giá trị nghệ thuật mà ông đem
đến cho đời. Tại cuộc tọa đàm về thơ do Đại sứ quan Pháp tổ chức tại Việt Nam,
Dƣơng Tƣờng chia sẻ những ngày tháng lận đận của ông, Trần Dần từng viết trong
Nhật ký thơ: “Phải có gan bỏ rẻ một cuộc đời cho một thử nghiệm thơ”. Và con
ngƣời Trần Dần chính là minh chứng thực tế cho quan niệm ấy. Quả thật, trời không
phụ ngƣời có tài. Trải qua những biến động trong số phận con ngƣời thực, ngƣời ta
vẫn thấy sức sống mạnh mẽ, kiên trì bền bỉ và giá trị tiềm tàng qua những tác phẩm
Trần Dần để lại. Đây chính là sự quyết liệt trong cá tính, quyết liệt hành động để
tìm kiếm những hình thức thể nghiệm, ngọn nguồn Tiếng Việt để nó bật ra những ý
nghĩa mới mẻ.
1.3.
Tác phẩm Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn đƣợc viết trong
cùng một thời kỳ nhƣng có sự định hƣớng khác nhau về tƣ tƣởng, góc nhìn nghệ
thuật. Bên cạnh đó hai cuốn tiểu thuyết cũng có sự kế thừa và cách tân trong nghệ
thuật. Cùng viết về đề tài chiến tranh, nhƣng có lẽ Trần Dần lại khai thác một mảng
hiện thực về sự kiện, nhân vật hoàn toàn khác so với thơ văn thời ấy. Nếu nhƣ
Những ngã tư và những cột đèn là cuốn sách mang đậm yếu tố trinh thám, tự thuật
của nhân vật Dƣỡng, anh ngụy binh trở về sau cuộc chiến. Tác phẩm Đêm núm sen
lại gây choáng ngợp cho ngƣời đọc khi bƣớc chân vào thế giới loài kiến – ngƣời.
Cuộc phiêu lƣu trong thế giới giả tƣởng ấy khiến ngƣời ta nhận ra sự khốc liệt của
chiến tranh. Chiến tranh nghiền nát tất cả: sự sống, tình yêu, thành phố... Hai cuốn
tiểu thuyết ra đời trong thời đại mới đã gây đƣợc tiếng vang lớn bởi những cách tân
hiện đại. Ngƣời viết chọn đề tài: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT TRẦN DẦN với mong muốn nghiên cứu nghệ thuật Trần Dần theo một
4
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
hệ thống các yếu tố về ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật; nghệ thuật tổ chức
kết cấu và cốt truyện; giọng điệu và ngôn từ trần thuật.
Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần, một mặt
giúp ngƣời đọc thấy rõ hơn những nỗ lực cách tân nghệ thuật của nhà văn, đồng
thời, còn cho chúng ta có thể nhìn thấy rõ hơn mạch vận động về quá trình tƣ duy
tiểu thuyết trong giai đoạn hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Trên thực tế đã có những cơng trình nghiên cứu tiểu thuyết Đêm núm sen và
Những ngã tư và những cột đèn, các nhà nghiên cứu, phê bình chủ yếu đi sâu vào
nghiên cứu và chỉ ra những đặc điểm làm mới thể loại tiểu thuyết, đặc biệt chú ý
trên phƣơng diện nghệ thuật. Dƣới đây, chúng tôi xin đi giới thiệu một số bài viết
chính về hai cuốn tiểu thuyết này:
Tiểu thuyết Đêm núm sen ngay từ khi ra đời đã chịu số phận im lặng cùng với
tác giả. Phải chờ gần một nửa thế kỷ mới đƣợc ra mắt bạn đọc, nhƣng dấu ấn Đêm
núm sen để lại thực sự trở thành “bom tấn” nặng ký đối với nền văn học nƣớc nhà
thời điểm bấy giờ. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học cũng đƣa ra những nhận
định chung về tiểu thuyết đầy sức thuyết phục:
Nhà nghiên cứu văn học Phạm Xuân Ngun đã có nhận xét xác đáng: “Hồi
hộp, thích thú, kinh ngạc... Ðêm núm sen tươi mọng, run rẩy, cựa quậy, phập phồng
ngôn ngữ, câu chữ, cảm giác của một thế giới kiến, mà đọc thấy rất hiện thực về
lịch sử của con người. Trần Dần luôn gây bất ngờ bởi văn chương Trần Dần với
một văn cách khác - lạ - mới mà ông coi là một nhà văn thì phải có mới thực là có
tư cách nhà văn. Viết năm 1961, Ðêm núm sen, một lần nữa đem lại một Trần Dần
không thể sống một ngày không sáng tạo...”[43]. Ðọc Ðêm núm sen, ngƣời đọc thật
sự cảm phục tài năng sáng tạo, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Trần Dần và lại
càng tin và yêu về sự giàu đẹp của tiếng Việt.
T.S Trần Ngọc Hiếu đặt mối liên hệ giữa thân xác và chiến tranh: “Nếu ta cần
phải biết lịch sử trong mối liên quan với thân thể, ta hồn tồn có thể thấy lịch sử là
sự khống chế và nghiền nát thân thể”. Trong Đêm núm sen, chiến tranh ứng xử với
con ngƣời nhƣ một thứ chất liệu. Bên cạnh súng đạn, chiến tranh cần xác ngƣời.
Chiến tranh kìm hãm mọi thứ cảm xúc, để biến con ngƣời thành một thứ gì trừu
5
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
tƣợng: “Cuốn tiểu thuyết này viết về tình dục với tất cả sự hồn nhiên của thân xác.
Ngôn từ trong sách nếu theo đạo đức thơng thường ta thấy nó có phần tục. Nhưng
trong bối cảnh chiến tranh, nó thể hiện sức sống của con người, niềm ham sống của
con người, xưng tụng sự sống của con người”[43]
Nhà văn Dƣơng Tƣờng không ngần ngại xếp Đêm núm sen là một ngụ ngôn
đen, giống như những ngụ ngôn đen của Gunter Grass thể hiện gương mặt bị lãng
quên của lịch sử [43]
Nhà phê bình văn học Mai Anh Tuấn thừa nhận “Tôi không đủ sức để đuổi theo
hết ý tưởng của Trần Dần. Cuốn sách này làm cho ta ngỡ ngàng về tính hiện đại.
Đọc nó, cho tơi những cặp tri nhận khác nhau: chiến đấu – lao động, tình yêu – sự
thù oán, đau khổ – hèn nhát, mộng tưởng – tuyệt vọng…[43]. Những cảm giác của
Mai Anh Tuấn không chỉ đúng với con ngƣời ở một thời đại mà còn đúng với chúng
ta ở thời đại ngày nay. Đọc Đêm núm sen, ngƣời đọc vẫn bắt gặp đƣợc những cảm
xúc chung trong tác phẩm và cảm xúc hiện tại.
Tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn, có thời gian xuất bản trƣớc tiểu
Đêm núm sen, vì thế cũng đã đƣợc cơng chúng đón nhận sớm và nhiều nghiên cứu
chuyên sâu đặc điểm thể loại tiểu thuyết này. Dƣới đây là những nhận định chung
về tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn:
Trong Im lặng trong cô đơn để viết tương lai, Công Tú nhận ra rằng: “những
cách tân theo lối phương Tây thường được dùng như lời khen tặng với các nhà văn
ham tìm tịi của Việt Nam thời đang sống, Trần Dần đều đã “thể nghiệm” cả”[44].
Quả thật Những ngã tư và những cột đèn là cuốn tiểu thuyết đƣợc xem là mới trên
nhiều phƣơng diện nghệ thuật trần thuật từ điểm nhìn, kết cấu cho đến hình thức
ngơn ngữ đều đa dạng và hiện đại. Điều mà Trần Dần đã làm đƣợc từ rất sớm, là
mong ƣớc của nhiều nhà văn Việt Nam hiện đại chạm tới.
Hồi Nam trong Một cuộc thử nghiệm ngơn ngữ, cũng đƣa ra ý kiến và đề cao
Trần Dần khi viết: “B ng sáng tác của mình, ơng gây hấn, ông tấn công và đập phá
không thương tiếc những đường biên nghệ thuật tưởng đã rất sâu gốc bền r ” [22].
Thoát khỏi những ràng buộc truyền thống, Trần Dần tìm cho tác phẩm của mình
hƣớng đi mới, thậm chí phá vỡ những quy phạm mang tính chuẩn mực để tự do viết
6
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
theo ý đồ của mình. Cách dùng từ của Hồi Nam khá chặt chẽ, từ “gây hấn” rất hợp
với ý hƣớng sáng tạo của Trần Dần.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên mạnh dạn bàn về nội dung và nghệ thuật:
“Trao cho Những ngã tư và những cột đèn là khẳng định một cá tính sáng tạo độc
đáo, là đề cao một tác phẩm có lối viết khác lạ, là kêu gọi sự đổi mới nghệ thuật
phải trở thành một bản năng thường trực trong mỗi người viết”[25].
Ngoài những bài báo đánh giá, nhận xét, khám phá, tìm hiểu một số khía
cạnh về tiểu thuyết của Trần Dần cịn có một số cơng trình nghiên cứu bƣớc đầu so
sánh với một số nhà văn trẻ khác nhƣ: Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Minh Thu với
đề tài: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần qua Người người lớp
lớp và Những ngã tư và những cột đèn (2012), Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Huệ
với đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Những ngã tư và những cột đèn (2014).
Dõi theo con đƣờng nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần cùng các
nhà nghiên cứu, phê bình văn học; chúng tôi nhận thấy mỗi tác giả đều ít nhiều đã
chỉ ra một nét riêng biệt nào đó của Trần Dần dù là trong tiểu thuyết Đêm núm sen
hay Những ngã tư và những cột đèn. Các tác giả chủ yếu chú trọng đến phƣơng diện
nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần, nổi bật hơn hẳn là chủ thể trần
thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. Bởi với phƣơng diện này phong cách nghệ thuật của
ông đƣợc thể hiện rõ, qua đó ngƣời đọc dễ dàng đi sâu vào nghiên cứu và khám phá
tiểu thuyết Trần Dần.
Chúng ta có thể thấy, khơng thể phủ nhận hết những đóng góp của Trần Dần
đối với nền văn học nƣớc nhà. Tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những
cột đèn thực sự là cách tân nghệ thuật táo bạo của Trần Dần trên nhiều phƣơng diện
khác nhau. Với phƣơng thức thể nghiệm táo bạo và mạnh dạn, hai cuốn tiểu thuyết
đƣợc xuất bản với thời gian gần nhất đã đem đến cho độc giả và nhiều nhà nghiên
cứu những trải nghiệm mới mẻ. Qua bài viết này, chúng tôi triển khai nghiên cứu
nghệ thuật trần thuật tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn
nhằm khái quát một cách đầy đủ đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Trần Dần đồng
thời bổ sung thêm những yếu tố mới để làm sáng rõ những sáng tạo, cách tân mới
mẻ độc đáo của thể loại tiểu thuyết cũng nhƣ sự nghiệp nghệ thuật của Trần Dần.
7
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là ứng dụng cơ sở lí luận về nghệ thuật trần
thuật vào làm sáng tỏ biểu hiện nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm tiểu thuyết của
Trần Dần. Từ đó, chúng tơi xác định vị trí của tác giả trong dòng văn học Việt Nam
hiện đại.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: Nghệ thuật trần thuật của Trần Dần qua hai
cuốn tiểu thuyết: Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn.
Trong đó ngƣời viết sẽ chú ý đến các yếu tố sau: ngƣời trần thuật và điểm nhìn
trần thuật; nghệ thuật tổ chức kết cấu và cốt truyện; ngôn từ và giọng điệu trần
thuật. Ngƣời viết nhận thấy, những yêu tố nói trên đƣợc xem là nổi bật nhất trong
hai tiểu thuyết. Và nó cũng là những yếu tố thể hiện nét độc đáo và sự sáng tạo của
nhà văn Trần Dần. Với mỗi yếu tố về nghệ thuật của hai tác phẩm này, ngƣời viết
rút ra kết luận về sự thay đổi và cách tân trong sáng tác của Trần Dần.
b. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận phạm vi của luận văn này, ngƣời viết chỉ khảo sát nghệ thuật trần
thuật của hai cuốn tiểu thuyết của Trần Dần:
- Đêm núm sen
- Những ngã tư đường phố và những cột đèn
Theo thống kê, nhà văn Trần Dần có đến bốn cuốn tiểu thuyết (ngoại trừ hai
quyển này còn tiểu thuyết: Người người lớp lớp và tác phẩm thơ – tiểu thuyết: Cổng
tỉnh) nên chúng tôi sẽ dùng tác phẩm còn lại nhƣ một tƣ liệu để bổ trợ nghiên cứu
hành trình sáng tạo tiểu thuyết Trần Dần đƣợc trọn vẹn, hồn thiện hơn.
Ngồi ra chúng tơi tiến hành so sánh một số tác phẩm của Trần Dần trong đó có
tiểu thuyết Người người lớp lớp và các tác giả đƣơng thời để thấy đƣợc sự cách tân
mới mẻ của nhà văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần qua Đêm
núm sen và Những ngã tư và những cột đèn, chúng tôi vận dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu sau:
8
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
-
Phương pháp phân tích- tổng hợp: là phƣơng pháp đƣợc ngƣời viết vận dụng để
phân tích, lý giải ý nghĩa của các yếu tố nghệ thuật và làm sáng tỏ những nét
mới mẻ trong tiểu thuyết Trần Dần, thông qua đó tổng hợp những vấn đề nghiên
cứu đƣợc.
-
Phương pháp thống kê: sƣu tầm, thu thập, tổng hợp một số tác phẩm tiểu thuyết
có liên quan đến nội dung nghiên cứu. Ngồi ra, chúng tơi cịn tiến hành thống
kê những từ ngữ có tính biến âm và sự phá cách về ngôn từ trong tiểu thuyết
Trần Dần.
-
Phương pháp so sánh: phƣơng pháp này đƣợc áp dụng để so sánh sự thay đổi
trong quan niệm nghệ thuật với chính ơng qua mỗi tác phẩm, qua mỗi thời kỳ; so
sánh nét khác biệt của ông so với các văn nghệ sĩ đƣơng thời. Đồng thời cũng
đối chiếu với thơ ông, để khẳng định sự cách tân là một điều không thể thiếu
trong cuộc đời sáng tạo của ông.
-
Phương pháp xã hội học: nghiên cứu mối quan hệ tƣơng tác giữa văn học và độc
giả, quá trình của đời sống văn học sẽ đƣợc hồn chỉnh thành một chu trình khép
kín: xã hội- tác giả- tác phẩm- công chúng- tác giả. Bằng phƣơng pháp này,
ngƣời viết làm rõ nguyên nhân của sự cách tân, cũng nhƣ vì sao số phận tiểu
thuyết Trần Dần nằm im lặng trong khoảng thời gian dài.
-
Phương pháp tự sự học: nghệ thuật trần thuật chỉ đƣợc tìm hiểu kỹ càng khi có
tự sự học ra đời. Phƣơng pháp là một yêu cầu bắt buộc có trong luận văn.
-
Phương pháp tiểu sử: là một trong những phƣơng pháp nghiên cứu văn học,
theo đó, tiểu sử và nhân cách nhà văn đƣợc tìm hiểu để lý giải tác phẩm.
Những phƣơng pháp trên đƣợc xem nhƣ là những phƣơng pháp chính đƣa vào
vận dụng chủ yếu trong luận văn. Ngoài ra, chúng tơi cịn vận dụng các phƣơng
pháp khác trong q trình nghiên cứu: phƣơng pháp cấu trúc...Tuy nhiên, những
phƣơng pháp này không phải là phƣơng pháp chủ đạo của luận văn.
6. Đóng góp luận văn
Từ khi ra đời, tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn của
Trần Dần trở thành “bom tấn” văn chƣơng nhận đƣợc sự quan tâm đông đảo từ bạn
đọc, các nhà nghiên cứu, phê bình. Đã có khá nhiều bài báo, bài phát biểu, nghiên
cứu về những yếu tố nghệ thuật trong hai tiểu thuyết này. Trong bài nghiên cứu,
9
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
ngƣời viết mong muốn làm rõ những thành công của Trần Dần đặc biệt trên phƣơng
diện nghệ thuật. Qua đó khẳng định vị trí vai trị Trần Dần trong tiến trình hiện đại
hóa văn học Việt Nam.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm có ba chƣơng:
Chƣơng 1. Lý thuyết trần thuật học và khái quát về tiểu thuyết Trần Dần
Chƣơng 2. Điểm nhìn trần thuật và hình thức kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết
Trần Dần
Chƣơng 3. Ngôn ngữ nghệ thuật và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần
10
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. LÝ THUYẾT TRẦN THUẬT VÀ KHÁI QUÁT
VỀ TIỂU THUYẾT TRÂN DẦN
1.1. Lý thuyết nghệ thuật trần thuật
1.1.1. Khái niệm trần thuật
Ngay từ đầu thế kỉ XX, lý thuyết trần thuật luôn là vấn đề đƣợc các nhà
nghiên cứu trong và ngồi nƣớc quan tâm bởi nó mang tính thời sự và ứng dụng
hữu hiệu trong việc cắt nghĩa, lý giải lớp ngôn ngữ văn bản. Từ đó dến nay lí luận
trần thuật đã đạt đƣợc một số thành quả quan trọng. Có thể kể đến là các nghiên
cứu về tự sự của các nhà hình thức Nga (V.Propp, V.Shklovski, Eikhenbaum);
nguyên tắc đối thoại của M.Bakhtin; loại hình học về kĩ thuật trần thuật Anh Mĩ do
P.Lubbock khởi thảo và N.Friedman tu chỉnh; các nghiên cứu về loại hình trần
thuật của các học giả Đức (E.Leibfried,W.Fƣger,F.K.Stanzel, W.Kayser, O.Ludwig,
K.Friedman); các quan niệm của nhà cấu trúc ngƣời Czech Z.Doleze, các học giả
Nga Ju.Lotman và B.Uspenski. Cũng nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới, ở nƣớc ta, trần
thuật cũng là một vấn đề đƣợc giới nghiên cứu quan tâm.
Nghệ thuật trần thuật là một phƣơng diện không thể thiếu trong phƣơng thức
tự sự. Bởi trong tác phẩm tự sự, nghệ thuật trần thuật có vai trị quan trọng trong
việc khẳng định tài năng, phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn. Mỗi một thể loại
cụ thể sẽ có hình thức trần thuật khác nhau. Xét về khía cạnh thuật ngữ, trần thuật
(narration), hay còn gọi là kể chuyện, đƣợc J.Lin Velt cho rằng: “Kể là một hành vi
trần thuật theo nghĩa rộng là một tình thế hư cấu, bao gồm cả người trần thuật và
người nghe kể” [37, tr. 154].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Trần thuật là phương diện cơ bản của
phương thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân
vật, sự kiện, hồn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất
định…Thành phần của trần thuật không chỉ là lời thuật và chức năng của nó khơng
chỉ là kể việc. Nó bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hồn cảnh, thuật lại
tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả….Trần
11
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
thuật gắn với tồn bộ cơng việc bố cục, kết cấu tác phẩm… Trần thuật là phương
diện cấu trúc của tác phẩm tự sự, thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể trong
loại hình nghệ thuật này” [17, tr. 307].
Trong cuốn Giáo trình lí luận văn học đƣa ra khái niệm về trần thuật nhƣ
sau: “Trần thuật là kể, thuyết minh, giới thiệu về nhân vật, sự kiện, bối cảnh trong
truyện. Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật, miêu tả sự kiện, nhân vật, theo
một thứ tự nhất định” [39, tr. 146].
Qua những định nghĩa trên, chúng ta nhận thấy hoạt động trần thuật thực chất là
kể. Trần thuật là thuật lại những diễn biến sự kiện, nhân vật, hồn cảnh theo một cách
nhìn nhất định. Qua đây, ta cũng nhận thấy: khái niệm trần thuật và khái niệm kể
chuyên có thể thay thế cho nhau và đƣợc diễn đạt bằng những từ ngữ mang tính cụ thể
nhƣ: ngƣời kể chuyện, điểm nhìn, ngơi kể... Khái niệm trần thuật luôn gắn liền với bố
cục và kết cấu của văn bản. Ngƣời trần thuật đóng vai trị nhƣ một Master – ngƣời dẫn
chƣơng trình, giúp độc giả tìm hiểu tác phẩm ở cả bề mặt cũng nhƣ bề sâu.
Trần thuật đóng vai trị chính trong việc cấu thành tác phẩm, giúp ngƣời đọc
dễ dàng nắm đƣợc kết cấu của một tác phẩm “ai, xuất hiện ở đâu, khi nào, làm việc
gì, trong tình huống nào…”. Nhờ cách kể chuyện của tác giả mà làm sống lại linh
hồn cho tác phẩm. Trong tiểu thuyết của Trần Dần đã sử dụng nghệ thuật trần thuật
vào việc khai thác hiện thực cuộc sống, mảnh đời tƣ, tâm lý nhân vật trong các mối
quan hệ, hồn cảnh, khơng gian và thời gian nhất định. Điều đó, tạo nên đặc trƣng
riêng trong phong cách Trần Dần đồng thời khẳng định những đóng góp của nhà
văn vào tiến trình văn học.
1.1.2. Vai trị của nghệ thuật trần thuật trong xây dựng tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thể loại lớn, tiêu biểu cho loại hình tự sự, đƣợc coi là “cỗ
máy cái” của nền văn học hiện đại. Mang đặc trƣng thi pháp riêng, với phƣơng thức
trần thuật, tiểu thuyết chiếm lĩnh và khái quát hiện thực cuộc sống một cách đa
chiều và phong phú và đa dạng. Nhiều bề mặt, lát cắt đƣợc đƣa vào tiểu thuyết nhƣ
những thƣớc phim của thời đại. Trong văn xi tự sự nói chung, tiểu thuyết nói
riêng, nghệ thuật trần thuật chính là đặc trƣng cơ bản nhất luôn gắn liền với bố cục,
kết cấu tác phẩm. “Trần thuật gắn liền với tồn bộ cơng việc bố cục, kết cấu tác
12
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
phẩm”,“là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ chủ thể khách thể trong loại hình nghệ thuật này” [17, tr.364 - 365].
Luận bàn về vai trò của nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm tự sự, trong Dẫn
luận nghiên cứu văn học, Pospelov cho rằng trần thuật đóng vai trị quyết định
chính trong các tác phẩm tự sự. Ơng cịn xác định những yếu tố cơ bản của nghệ
thuật trần thuật: “Với sự trợ giúp của trần thuật, miêu tả, bình luận, tác giả, lời nói
nhân vật trong các tác phẩm tự sự, cuộc sống được nắm bắt một cách tự do, sâu
rộng” [30, tr. 68].
Khi nói đến sự thành cơng của tác phẩm văn xi, đã có một thời gian dài
các nhà nghiên cứu đánh giá sự thành cơng đó qua những phƣơng diện: Chủ đề, tƣ
tƣởng, nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ. Ngƣời ta thừa nhận có tính cá thể hóa hay
“phong cách cá nhân” (tức là dấu ấn riêng của tác giả không dễ bắt chƣớc) nhƣng
vẫn chƣa thừa nhận vai trò quan trọng của trần thuật. Trong các tác phẩm văn xuôi
tự sự, để dễ dàng phân biệt nhà văn này với nhà văn khác ngƣời ta thƣờng chú trọng
vào lối kể chuyện đƣợc thể hiện trong lời nói của từng nhân vật, trong diễn đạt từng
sự việc, hình ảnh, tình huống... chứ khơng phải nhờ bản thân các biến cố, các câu
chuyện đƣợc kể. Mỗi một tác phẩm, ngƣời đọc nhận thấy những hình ảnh quen
thuộc, hay một “lát cắt của đời sống” hiện thực trong đó. Nhà văn hay ngƣời nghệ
sĩ bao giờ cũng phải đắm mình vào cuộc sống, lắng nghe hơi thở và nhịp đập của
đời sống biến đổi từng giây để chắt lọc những gì tinh túy nhất đem vào trang viết
của mình. Song thông qua cách kể của nhà văn ngƣời đọc sẽ bị lôi cuốn vào mạch
truyện. Lối kể sinh động khiến cho câu chuyện trở nên mới mẻ và hấp dẫn hơn. Đối
với tiểu thuyết một thể loại văn xuôi tự sự dài hơi thì nghệ thuật trần thuật – nghệ
thuật kể chuyện lại càng đƣợc xem là thủ pháp nghệ thuật quan trọng, nhờ nó nhà
văn mới có thể sắp đặt các câu chuyện, các nhân vật, các sự kiện tình huống một
cách có lơgic và truyền tải một cách hiệu quả, phản ánh hiện thực đến với độc giả
và nhờ nó bạn đọc cũng phân biệt đƣợc tài năng giữa các nhà sáng tạo tiểu thuyết
với nhau. Vì vậy có thể thấy, nghệ thuật trần thuật hay cách kể chuyện chính là đặc
trƣng của tác phẩm tự sự, đóng vai trị chủ đạo chính góp phần tạo nên thế giới nghệ
thuật của tác phẩm.
13
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Misen Buytor (nhà văn Pháp hiện đại thuộc trƣờng phái Tiểu thuyết mới) đã
đƣa ra những quan điểm rất ý nghĩa về vấn đề chuyện kể trong văn xi nói chung
và tiểu thuyết nói riêng: “Tiểu thuyết là một hình thức kể chuyện đặc biệt vượt quá
giới hạn của văn chương; đó là một trong những phương thức hết sức quan
trọng giúp con người nắm bắt được thực tại (…). Cái được kể liên quan đến cả
những con người, những sự vật, những đồ vật và nơi chốn mà bản thân chúng
ta chưa bao giờ đến, nhưng có một ai đó đã mơ tả cho chúng ta nghe (…) Tiểu
thuyết là những phịng thực nghiệm kể chuyện… Các hình thức kể chuyện khác
nhau cũng tương ứng với các hình thức khác nhau của thực tại” [36, tr. 379 380]
Trần thuật là một phƣơng thức nghệ thuật đặc trƣng của tác phẩm tự sự.
Theo 150 thuật ngữ văn học của Nhà phê bình Lại Nguyên Ân thì tiểu thuyết là
“Tác phẩm tự sự trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận cá nhân trong
quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần thuật ở đây được khai triển
trong không gian và thời gian nghệ thuật đến đủ mức truyền đạt “cơ cấu” của
nhân cách. Belinski gọi tiểu thuyết là “sử thi của đời tư”, do chỗ nó “miêu tả
những tình cảm, dục vọng và những biến cố thuộc đời sống riêng tư và đời
sống nội tâm của con người” [1, tr. 313]. Trần thuật tồn tại với nội dung trần
thuật và hình thức trần thuật.
Thực tiễn văn học cũng cho thấy, nghệ thuật trần thuật là một trong
những yếu tố cơ bản thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Đối với ngƣời nghệ sĩ tài
năng, trong mỗi tác phầm nghệ thuật trần thuật là sự tìm tịi, sáng tạo ra những hình
tƣợng độc đáo và biến hóa linh hoạt nội dung. Đúng nhƣ Nam Cao- nhà văn hiện
thực phê phán đã từng viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay
làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết
đào sâu, tìm tịi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.
Ngƣời nghệ sĩ trong q trình lao động nghệ thuật phải khơng ngừng sáng tạo, có
khi là dùng nhân vật hình tƣợng để gửi gắm tâm tƣ tình cảm của mình, có khi phát
biểu tƣ tƣởng ấy bằng một hình thức nghệ thuật độc đáo, riêng biệt. Chính vì thế, sự
thành cơng về phƣơng diện trần thuật không hề đơn giản và dễ dàng với bất kì
ngƣời cầm bút nào.
14
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Nhƣ vậy, nghệ thuật trần thuật là phƣơng diện thi pháp đặc trƣng của thể loại
tiểu thuyết. Ngƣời đọc có thể khám phá, tiếp cận đƣợc những giá trị văn chƣơng
đích thực thơng qua việc tìm hiểu các phƣơng diện trần thuật. Nhờ có nghệ thuật
trần thuật, tiểu thuyết mới đƣợc xem là một trong những sáng tạo kỳ diệu của ngƣời
nghệ sĩ.
1.2. Khái quát về tiểu thuyết Trần Dần
1.2.1. Trần Dần và hành trình sáng tạo nghệ thuật
Trần Dần sinh ngày 23 tháng 8 năm 1926, nguyên quán thành phố Nam
Định, tỉnh Nam Định, cha Trần Dần là một viên chức kho bạc tỉnh Nam Định. Ông
học qua bậc Thành Chung ở quê rồi lên Hà Nội học tiếp và đỗ bằng tú tài.
Thuở niên thiếu, Trần Dần chơi thân với Vũ Hoàng Địch (là em của nhà thơ
Vũ Hoàng Chƣơng). Họ sống gần nhà nhau, cùng lớn lên và có những ký ức đẹp về
tuổi thơ. Hai ngƣời đƣợc gần gũi với hai nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn lúc đó là Vũ
Hồng Chƣơng và Đình Hùng. Chính vì thế, hai ngƣời sớm có điều kiện tiếp xúc
với thơ văn và trƣờng phái tƣợng trƣng Pháp. Thần tƣợng của Trần Dần là
Rimbaud, ông ngƣỡng mộ cả lối sống phiêu bạt, tính triệt để và tinh thần tự do vƣợt
ngồi mọi khn khổ của nhà thơ này. Vì thế, khơng khó hiểu bản lĩnh thơ ca của
một chàng trai trẻ luôn sục sôi, ôm ấp những dự định lớn lao về nghệ thuật thi ca.
Văn học Việt Nam thời kỳ này đã có bƣớc chuyển mới, với sự xâm nhập của
văn hóa, thơ ca phƣơng Tây đã tạo nên những trào lƣu, khuynh hƣớng mới. Trần
Dần bắt đầu sáng tác từ trƣớc 1945, thời điểm thơ Mới đã phát triển rực rỡ. Chứng
kiến sự ra đời của những tay bút “chắc nịch” làm nên diện mạo thơ ca Việt nhƣ:
Tiếng thu của Lƣu trọng Lƣ, Tinh huyết của Bích Khê (1939), Thơ say của Vũ
Hồng Chƣơng, Lửa thiêng của Huy Cận (1940)...Năm 1943, bản Đề cương văn
hóa Việt Nam đƣợc cơng bố, có tính chất nhƣ kim chỉ nam định hƣớng về đƣờng lối
cho các văn nghệ sĩ Việt Nam. Thế nhƣng, Trần Dần vẫn bình yên đứng ngoài lề sự
kiện với những bài thơ mang tinh thần thơ Mới nhƣ: Hồn Xanh dị kỳ (1944). Sau
đó, ơng quan niệm văn chƣơng là mới mẻ, là khác biệt...Vì thế, ông đến với những
cách tân, mong muốn sáng tạo ra thứ thơ phải mang tinh thần thời đại, mới hơn
những thành tựu hiện tại vì theo ơng thơ mới đã làm xong cuộc cách mạng của nó.
Trần Dần cùng một số nhà thơ nhƣ: Trần Mai Châu, Đình Hùng, Vũ Hoàng Địch
15
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
của phải thơ tƣợng trƣng cho ra đời tạp chí Dạ Đài nhằm khai mở một lối thơ khác
biệt, với quan niệm nền tảng thơ ca sẵn có, những yếu tố cũ khơng cịn phù hợp,
vƣợt lên trên quan niệm cũ đề cao hình thức sáng tạo, cảm thụ thơ ca trong mỗi con
ngƣời. Nhóm thơ tƣợng trƣng Dạ Đài với dịng tun ngơn: “Chúng tơi-một đồn
thất thổ- đã đầu thai nh m lúc sao mờ. Cho nên buổi chúng tôi xuất hiện, chúng tôi
để cho tàn suy giấc mơ của người trước... Chúng tôi sẽ nối lại nghiệp dĩ của một
Rimbaud-nỗi cô đơn của những nhà thơ lãng mạn”... Dạ đài chính là khí thế của
ngƣời trẻ tuổi trong khơng khí thời chiến, ln sục sơi nhiệt huyết sáng tạo, đổi mới
gỡ bỏ những lối mòn truyền thống.
Ngày 19/12/1946, ông làm việc cùng nhóm Dạ Đài cho ra số báo Dạ đài 2.
Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Trần Dần cũng nhƣ bao thanh niên thời ấy
“xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”, ông trở về Nam Định tham gia công tác
tuyên truyền ở huyện Vụ Bản, làm việc ở Sở Truyên Truyền khu IV. Năm 1948,
khu 14 ở Tây Bắc đƣợc thành lập, Trần Dần cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng địch lên
Tây Bắc. Một thời gian sau khu 14 bị giải thể, ông tham gia quân đội nhận cơng tác
địch vận của trung đồn Sơn La. Tại đây, ơng cùng một số ngƣời bạn là: Trần Thƣ,
Hồi Niệm tham gia sáng lập Nhóm Sơng Đà- nhóm văn nghệ quân đội đầu tiên.
Vẫn luôn giữ quan niệm cũ, làm thơ là phải cách tân, là đổi mới, thời gian này dù tất
bật với khơng khí kháng chiến nhƣng ý thức sáng tạo ln âm ỉ cháy trong ngƣời
lính trẻ. Ông bắt đầu làm thơ bậc thang học theo Maiacopxki và vẽ tranh lập thế,
mặc dù đƣợc nhiều ngƣời đón nhận nhƣng họ vẫn bng lời nhận xét là khó hiểu.
Hồ Phƣơng kể lại: “Ở nhóm văn nghệ Tây Bắc có Trần Thứ (nay là Trần Vũ), Trần
Dần và Hồi Niệm... Tờ Sơng Đà của nhóm này cũng là một tờ báo được trình bày
khá đẹp, nghiêng về sáng tác thơ văn. Hội ấy Trần Dần hay làm thơ leo thang, bài
thơ thường được trình bày khá kiểu cách. Dịng thì in chữ nhỏ, dịng lại in chữ to,
thiên về hạng theo mốt” [9]
Năm 1954, Trần Dần tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ cùng với Đỗ
Nhuận, Tô Ngọc Vân và viết tiểu thuyết Người người lớp lớp. Không khí hào hùng
của cuộc chiến cùng với những mất mát, hi sinh của ngƣời bạn thân thiết Tô Ngọc
Vân đã để lại những cảm xúc đau thƣơng, khó phai trong lòng Trần Dần. Tiểu
thuyết Người người lớp lớp đƣợc viết theo khuynh hƣớng sử thi và cảm hứng lãng
16
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
mạn. Trần Dần đã đem đến cho độc giả một bức tranh sinh động đƣợc coi là “huyền
thoại”, “một điểm hẹn lịch sử”, “cột mốc vàng” trong cuộc chiến tranh nhân dân và
chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu của những anh bộ đội cụ Hồ. Có thể thấy, Trần
Dần quyết khơng bao giờ đi theo lối mịn cũ trong văn chƣơng, ông luôn khao khát
theo đuổi sự sáng tạo mới mẻ.
Chiến dịch kết thúc, ông đƣợc cử sang Trung Quốc viết thuyết minh phim
Chiến thắng Điện Biên Phủ. Do bất đồng với ngƣời cán bộ chính trị đi cùng nên
ông “nhường” cho ngƣời này viết thuyết minh. Tại thời điểm này, ở Trung Quốc,
dấy lên vụ án Hồ Phong – một nhà phê bình văn học và là Đảng viên lâu năm, với
những quan điểm văn chƣơng không thống nhất. Trần Dần khơng thể ngờ rằng số
phận mình lại sang một ngã rẽ khác, ông viết Anh đã thấy (thơ – 1954), Tiếng trống
tương lai (thơ, đã trích đăng trong Văn nghệ Quân Đội năm 1954)
Năm 1955, khi trở về Hà Nội, Trần Dần kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Kh
(gia đình bà có ngƣời di cƣ vào Nam) nên chính quyền khơng cho phép. Trần Dần
tham gia phong trào Nhân văn- Giai phẩm, mong muốn thay đổi quan điểm sáng tác
và rồi rơi vào vũng lầy của bế tắc.
Câu chuyện Nhân Văn- Giai Phẩm có lẽ là thƣớc phim buồn nếu ta cứ mải
miết tìm lại quá khứ để xem xét, bình phẩm đúng sai. Trần Dần cũng khơng thể ngờ
rằng số phận mình lại chỉm nghỉm trong bờ vực ấy. Từ đây, ơng chọn cho mình
cách sống lặng lẽ, âm thầm ngoài lề lối sinh hoạt văn nghệ chính thống sống bằng
nghề dịch sách và tơ ảnh màu. Đam mê viết vẫn chƣa dừng lại trong huyết quản của
ngƣời nghệ sĩ. Trần Dần lại ghi, ghi lại những suy nghĩ, những sự kiện, những điều
mắt thấy tai nghe, những câu chuyện bạn bè kể lại, thậm chí những suy nghĩ đột
hiện ra trong óc...tất cả là bộ mặt đời sống của thời ấy, hỉ- nộ- ái -ố đều có. Phạm
Thị Hồi gọi ơng là “thủ lĩnh trong bóng tối”. Vƣợt lên trên thực tại, bỏ ngồi tai sự
khen chê, lẽ đƣợc mất ở đời, vƣợt qua mặc cảm, cô đơn, Trần Dần đã để lại những
tác phẩm vƣợt thời gian cả về số lƣợng và chất lƣợng. Đây là giai đoạn thăng hoa
nhất trong sự nghiệp sáng tác Trần Dần.
Với Trần Dần, chính cột mốc này lại đánh dấu một sự dấn thân quyết liệt
hơn, sung sức nhất cho tích lũy và sáng tạo. Các tác phẩm liên tiếp ra đời, đánh dấu
cách thức dấn thân của một kẻ ngoài lề đứng bên thềm văn chƣơng: Đêm núm sen
17
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
(tiểu thuyết – 1961), Jờ Joạcx (thơ – 1963), Mùa sạch (thơ – 1964), Một ngày Cẩm
Phả (tiểu thuyết – 1965), Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết – 1966), Con
trắng (thơ-hồi ký – 1967), 177 cảnh (hùng ca lụa – 1968), Động đất tâm thần (nhật
kí-thơ – 1974), Thơ không lời – Mây không lời (thơ- họa – 1978), bộ tam Thiên
Thanh-77-ngày ngày (1979), bộ tam 36-Thở dài-Tư mã zâng sao (1980), Thơ mini
(1987)... Suốt gần 40 năm, Trần Dần lao động và sáng tác không ngừng nghỉ. Viết
mà không cần biết bao giờ đƣợc xuất bản, ông đã cho mọi ngƣời thấy sự kiên định
phi thƣờng mà hiếm nhà văn nào có đƣợc điều đó. Ơng làm bạn với con chữ, tận tụy
với nghề ghi chép mà cuộc sống mƣu sinh trong hồn cảnh ấy khơng hề dễ dàng.
Không muốn liên lụy tới bạn bè, cách duy nhất ơng lựa chọn đó là theo đuổi nghệ
thuật bằng sức sáng tạo không ngừng nghỉ.
Năm 1988, Hồ Phong ở Trung Quốc đƣợc phục hồi danh dự, Trần Dần và
một số ngƣời bạn đƣợc mời tham gia sinh hoạt văn học trở lại. Ông giao lƣu gặp gỡ
đồng nghiệp và bạn đọc. Từ đây, những bản thảo của ông lần lƣợt đƣợc đƣa ra xuất
bản. Năm 1991, trƣờng ca Bài thơ Việt Bắc đƣợc xuất bản tại Hà Nội (NXB Tác
Phẩm Mới). Tiếp đó, năm 1994, tiểu thuyết-thơ Cổng tỉnh (1960) đƣợc xuất bản tại
Hà Nội, NXB Hội Nhà Văn. Một năm sau, tác phẩm đƣợc trao giải thƣởng của Hội
Nhà Văn Việt Nam.
Trần Dần mất ngày 17 tháng 1 năm 1997 tại Hà Nội. Năm 2007, ông đƣợc
truy tặng Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học Nghệ thuật. Tác phẩm của ông đƣợc
soạn thảo lại và tiếp tục xuất bản, tuyển tập Trần Dần –Thơ xuất bản năm 2008 bị
đình chỉ phát hành và yêu cầu thu hồi. Có lẽ, ngƣời ta vẫn hồi nghi điểu gì đó ở
trong chính con ngƣời ơng. Nhƣng bằng tình cảm q trọng ngƣời tài, các nhà văn,
nhà nghiên cứu đã vực những đứa con tinh thần của ông trở về với cuộc đời, đem
chúng ra ánh sáng trƣớc sự chứng kiến của nhiều ngƣời. Thật khơng hồi cơng,
uổng phí, khi đứng trƣớc tập thơ Trần Dần, nhiều ngƣời không khỏi ngạc nhiên bởi
sự độc, lạ cũng nhƣ những gì nó chuyển tải. Sáng tác của Trần Dần khẳng định
đƣợc sức sống dẻo dai của mình trên hành trình phiêu lƣu tìm đến với độc giả và
từng bƣớc từng bƣớc chiếm trọn trái tim của mọi ngƣời qua những giải thƣởng.
Năm 2010, Trần Dần khiến ngƣời đọc ngỡ ngàng trƣớc thể nghiệm mới của ông
trong Những ngã tư và những cột đèn tạo nên một dƣ chấn khó qn trong lịng độc
giả. Và bảy năm sau, năm 2017 ngƣời ta một lần nữa lại nhắc cái tên Trần Dần trên
18
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
thi đàn qua tiểu thuyết Đêm núm sen đƣợc coi là “bom tấn” văn chƣơng. Mặc dù
Trần Dần luôn đắm đuối cho thơ những cảm xúc dào dạt với những rung động
mạnh mẽ, nhƣng với tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn
đã phần nào khẳng định ý chí sáng tạo, làm bùng nổ những cách tân nghệ thuật
trong tiểu thuyết. Điều đó đều đƣợc ghi nhận xứng đáng bằng những giải thƣởng về
văn xuôi và ln giữ một vị trí trong lịng độc giả.
1.2.2. Giới thiệu tiểu thuyết Trần Dần
Trần Dần đã để lại bốn cuốn tiểu thuyết, có đóng góp khơng nhỏ vào sự
nghiệp văn học nƣớc nhà. Trong phạm vi luận văn chúng tơi nghiên cứu chính tiểu
thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn, còn hai cuốn tiểu thuyết:
Người người lớp lớp và tác phẩm thơ- tiểu thuyết: Cổng tỉnh chúng tôi sẽ dùng nhƣ
môt tƣ liệu tham khảo, bổ trợ quá trình nghiên cứu về tiểu thuyết Trần Dần.
1.2.2.1 Tiếu thuyết Đêm núm sen
Tiểu thuyết Đêm núm sen của Trần Dần ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc
biệt của tiểu thuyết Việt Nam. Phải bƣớc vào thế kỉ XX, thể loại tiểu thuyết Việt
Nam mới thực sự xuất hiện đầy đủ với tƣ cách tiểu thuyết hiện đại. Dòng chảy lịch
sử của dân tộc ta biến thiên theo thời gian với đầy đủ những sự kiện, biến cố của
dân tộc. Song hành mạch nguồn lịch sử ấy, nền văn học tồn tại song song song ghi
dấu chứng tích thời kỳ. Nhiều thể loại văn học hình thành bồi đắp giá trị tinh thần
của ngƣời Việt. Bên cạnh đó, thể loại tiểu thuyết góp phần bồi đắp, làm đầy dịng
sơng văn học. Trong giai đoạn đầu của nền văn học mới, khi nền văn hóa chịu sự
chi phối của xã hội phƣơng Tây, tiểu thuyết quốc ngữ Việt Nam đầu tiên với Tố
Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản; đến các
tác phẩm tiểu thuyết lãng mạn của Tự lực văn đoàn; sau đó là tiểu thuyết phê phán
hiện thực mà đại diện tiêu biểu là Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, v.v..
Trong thời kì này, tiểu thuyết chủ yếu miêu tả những xung đột điển hình, mang tính
phổ qt, nhƣ mâu thuẫn giai cấp, vấn đề lí tƣởng văn nghệ.
Sau đó, tiểu thuyết bƣớc vào guồng chung của văn học kháng chiến giai đoạn
1954-1975, một nền văn học giàu tính sử thi lãng mạn. Văn học giai đoạn này là
văn học của những sự kiện lịch sử, vận mệnh tồn dân tộc. Mục đích chính văn học
hƣớng tới là phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu, hƣớng đến thống nhất. Các nhà văn
19
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
đều xây dựng nhân vật điển hình cho con ngƣời của thời đại, họ không đứng trên
lập trƣờng cá nhân mà bằng con mắt của thời đại đứng trên lập trƣờng của cộng
đồng, dân tộc xây dựng những anh hùng lý tƣởng, sức mạnh, đại diện cho tinh thần
dân tộc. Một sổ tiểu thuyết tiêu biểu thời kỳ này: Trước giờ nổ súng của Lê Khâm,
Vùng trời của Hữu Mai, Trên mảnh đất này, Mùa mưa của Hoàng Văn Bổn… tất cả
các tác phẩm đều hƣớng về cuộc chiến diễn ra ác liệt mà cả dân tộc đang trải qua,
đồng thời ca ngợi tinh thần anh dũng, kiên cƣờng của nhân dân.
Đêm núm sen là cuốn tiểu thuyết đƣợc viết năm 1961, thời điểm cuộc chiến
tranh chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Khi hồn thiện nó vẫn cứ “lặng lẽ” chỉ là vết
mực lì, nét bút cịn ngun, gạch xóa trên những trang giấy cũ. Đợi đến thời điểm
thích hợp, mới chịu ra mắt công chúng. Những ngày đầu năm 2017, “có cần kể nữa
khơng?” câu hỏi chẳng biết trả lời ra sao của anh kiến Gầy, khi mà đúng 56 năm từ
khi Trần Dần hoàn thành bản thảo, tròn 20 năm nhà thơ vội vã ra đi mãi mãi...
Có lẽ, Trần Dần hiểu rằng nó ra đời chƣa đúng thời điểm, ông chỉ biết lẳng
lặng cất đi, bỏ gọn vào một góc nào đó trong lãng quên. Để rồi ba mƣơi năm sau,
ông đã mở ra, đọc lại, và thấy xót xa khi một số chƣơng mất đi: “Người ta có thể
trách tơi đủ thứ! Kém trách nhiệm? Vô ý thức bảo quản tác phẩm? Cẩu thả? Buông
lung?? Không dạy được vợ con ý thức bảo tàng? Những điều kể ra cũng có cơ sở?
Cũng đáng trách đầy?..Song chậc? Tư Mã thở dài...”Mất rồi thì thơi”.
Nhà thơ Dƣơng Tƣờng là ngƣời đƣợc đọc trọn vẹn bản thảo khi Trần Dần
cịn sống, vì vậy ơng đã giúp sức khơi phục bản thảo theo trí nhớ của mình. Gia
đình nhà thơ Trần Dần cùng với biên tập viên cũng làm việc hết sức cẩn trọng để có
đƣợc từng chữ bản thảo cũ nát. Vì thế mà tác phẩm đƣợc phục hồi có câu chuyện
khá liền mạch. Dƣơng Tƣờng từng viết: Đêm núm sen, “bản thảo đau ròng rã hơn
nửa thế kỷ..bụi bặm...thời gian...chuột bọ gặm nhấm... những trang thất lạc...”
Đêm núm sen là câu chuyện đƣợc kể theo ngôn ngữ của loài kiến. Số phận
của loài kiến lại hiện lên, biến thiên theo số phận loài ngƣời. Xoay quanh thế
giới của loài kiến, tác giả mƣợn loài kiến để gửi gắm suy tƣ, triết lý, cảm xúc của
mình. Mở đầu câu chuyện Kiến Gầy kể về hoàn cảnh sống ở ngơi làng của mình
xung quanh mối quan hệ bạn bè và thế giới loài kiến ngƣời nơi đây. Trên đoạn
đƣờng khôn lớn và trƣởng thành không thể thiếu những tâm tƣ, cảm xúc đó là
20
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
tình u. Kiến Gầy đã phải lịng một cơ gái vú vểnh có tên Sứa. Anh tìm mọi
cách đến biệt thự Đá Đỏ để tìm hiểu, tỏ tình với Sứa. Nhƣng anh không thể ngờ
đƣợc rằng chiến tranh khiến cuộc chinh phục của mình lại gian nan đến thế…
Ngày gặp cô Sứa lần đầu, Kiến Gầy đã sục sạo trong lịng, sắc màu nhục cảm
khiến anh sao xuyến: “Cơ đi rất nhanh trên quyền lực bộ đùi dài. Tia chớp cặp
đùi trắng”. Trong lần hẹn hò đầu tiên: “Một pho tượng ngà trong suốt khỏa thân.
Tôi đường đột quá. Tôi không gõ cửa, cô ấy đang thay quần áo. Một chút lụa
mỏng vương trên sàn nhà như một vẩn mây”. Và khi cả hai yêu nhau: “Trông cô
như sắp ra trận. Những đường cong gọn ghẽ. Giày, ủng ba lô với túi cứu thương
bó sát. Bộ ngực vẫn nhí nhói. Đẹp thế! Tôi kêu lên”. Cuộc chiến tranh nổ ra, đã
khiến tình yêu của họ bị nghiền nát và cuốn theo.
Tác phầm khơng chỉ xoay quanh mối tình của Kiến Gầy với cơ Sứa, Trần
Dần cịn mạnh dạn miêu tả các mối tình khác, mà mối tình nào cũng mang màu sắc
nhục cảm. Đó là mối tình của anh Kiến Ngựa sau chuyến cơng tác trở về làng tƣ
tình với vợ. Câu chuyện tình cảm sơi nổi của Bƣớng với cô Xinh. Chuyện anh kiến
Sƣ tử và cô Vú vẫn tìm đến ngủ với nhau giữa chiến trƣờng… Và cái kết của tác
phẩm, là hình ảnh thuyền trăng mật của anh kiến Sƣ tử và cô Vú trên hồ sen.
So với những cuốn tiểu thuyết cùng thời viết về đề tài tình u và chiến
tranh, ngƣời ta thấy có cái gì đó mới mẻ trong văn phong của Trần Dần. Nếu nhƣ
tác phẩm ở thời kỳ này miêu tả tình yêu mang vẻ đẹp lãng mạn, tình yêu đƣợc lý
tƣởng hóa, tình u hịa chung với tình u đất nƣớc nhƣ: tình yêu của Quyên và
Ngạn hay tình yêu chung thủy một lòng một dạ của chị Sứ trong Hòn Đất (Anh
Đức), của Thiêm và Mẫn trong Mẫn và tôi (Phan Tứ)... Với Trần Dần, tác giả mạnh
dạn miêu tả hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh thông qua thế giới kiến ngƣời.
Cuộc sống, tình yêu đƣợc thể hiện trần trụi nhất mà không ngƣợng ngùng, giấu
giếm. Vƣợt qua những khó khăn, khốc liệt của chiến trƣờng Kiến Gầy và Sứa vẫn
tìm đến nhau để hƣởng trọn vẹn khao khát của trái tim.
Đêm núm sen lôi cuốn ngƣời đọc vào một thế giới giả tƣởng, nơi mà cuộc
sống cá nhân, bị nghiền nát bởi chiến tranh, bởi đời sống tập thể. Tác phẩm còn là
21
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
một cuộc trình diễn ngơn ngữ của một tác giả mà từ vựng là thi ca và cảm xúc là thi
sĩ. Núp bóng sau hơn nửa thế kỷ Đêm núm sen vẫn tỏa nguyên một “quyền lực man
mác”.
1.2.2.2. Tiếu thuyết Những ngã tư và những cột đèn
Cách mạng tháng Tám đánh dấu một mốc son mới cho văn học dân tộc.
Cùng với sự hồi sinh của dân tộc là sự khai sinh của nền văn học mới. Đó là nền
văn học của nhân dân với những nguyên tắc mới mẻ: dân tộc, khoa học, đại chúng,
với nhiệm vụ phục vụ sự nghiệp chiến đấu của nhân dân, phản ánh cuộc sống của
quần chúng nhân dân. Nhân vật trung tâm trong văn học thời kỳ này là công, nông,
binh. Nhà văn cũng là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, với phƣơng châm cách mạng
tƣ tƣởng quần chúng dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Nền văn học mới ra đời và lớn lên
trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, kéo dài, với sự phát triển khơng bình thƣờng về
nhiều mặt của đời sống xã hội bên cạnh thơ, văn xuôi chú trọng đến đề tài ngƣời
lính, con ngƣời thời chiến sẵn sàng dấn thân, hi sinh hết mình vì Tổ Quốc. Các tác
phẩm tiểu thuyết cũng góp mình tái hiện những mảnh đời, những khía cạnh của con
ngƣời trong thời chiến nhƣ: Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Một chuyện chép
ở bệnh viện, Hòn đất của Anh Đức, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tƣởng,
Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Đất lửa của Nguyễn Quang Sáng, Cửa sơng,
Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Mẫn và tôi của Phan Tứ...
Số phận văn chƣơng của Trần Dần cũng giống nhƣ chính cuộc đời của tác
giả. Tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn đƣợc tác giả hồn thành năm 1966.
Nhƣng đến tận năm 1988, ơng mới đƣợc nhận lại bản chép tay duy nhất của bản
thảo này. Bản thảo bị nhiều nhà xuất bản từ chối, cất trong ngăn kéo và không một
lần chạm tay. Trƣớc khi mất, Trần Dần đã chép lại và sửa chữa tác phẩm. Bản thảo
cuối hoàn thành hồi đầu năm 1990. Đến năm 2011, tác phẩm mới ra mắt bạn đọc và
đƣợc trao giải thƣờng Hội nhà văn Hà Nội.
Tiểu thuyết xoay quanh câu chuyện của Dƣỡng- anh lính ngụy binh và mấy
ngƣời bạn cùng cảnh ngộ. Dƣỡng sau 14 tháng đi lính “tàu bị” cho Pháp, đƣợc vận
động đào ngũ, đã ở lại khi chính quyền cộng sản vào tiếp quản. Vì “vết đen chính
trị” và lối sống tƣ sản thiếu lành mạnh nên anh đã gặp khơng ít những rắc rối. Anh
vơ tình bị kéo vào một vụ án gay cấn, một cuộc đấu trí giữa bọn gián điệp và lực
lƣợng an ninh đã làm đảo lộn cuộc sống xung quanh anh cho đến những mối quan
hệ không mấy tốt đẹp với ngƣời thân. Cuối cùng, lực lƣợng an ninh đã giải tỏa đƣợc
22
LUAN VAN CHAT LUONG download : add