Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Làng sinh thái- một mô hình quản lí tài nguyên dựa vào cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.85 KB, 27 trang )

LÀNG SINH THÁI-
MỘT MÔ HÌNH QUẢN LÍ TÀI NGUYÊN DỰA VÀO
CỘNG ĐỒNG
* Quản lí tài nguyên dựa vào cộng đồng
Là một quốc gia đang phát triển, cũng giống như tất cả các quốc gia khác,
Việt Nam phải đối diện với nguồn tài nguyên ngạy một khan hiếm, bên cạnh đó
lại là tình trạng khai thác và sử dụng tài nguyên không hợp lí dẫn tới nhứng thiệt
hại và nguy cơ vô cùng nghiêm trọng cho cả hiện tại và tương lai. Tài nguyên
thiên nhiên đang kêu cứu! Đứng trước tình hình đó, vấn đề quản lí tài nguyên lại
càng trở nên cấp thiết.
Một trong những hình thức quản lý tài nguyên thu được hiệu quả cao là quản
lý tài nguyên dựa vào cộng đồng. Đó là một hình thức quản lý đã và đang áp
dụng ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia phát triển.
Nội dung của phương pháp là lấy cộng đồng làm trọng tâm trong việc quản lý
tài nguyên. Đưa cộng đồng tham gia trực tiếp vào hệ thống quản tài nguyên, họ
trực tiếp tham gia trong nhiều công đoạn của quá trình quản lý, từ khâu bàn bạc
ban đầu tới việc lên kế hoạch thực hiện, triển khai các hoạt động và nhận xét,
đánh giá sau khi thực hiện. Đây là hình thức quản lý đi từ dưới lên, thực hiện
theo nguyện vọng, nhu cầu thực tế và ý tưởng của chính cộng đồng, trong đó các
tổ chức quần chúng đóng vai trò như một công cụ hỗ trợ thúc đẩy cho các hoạt
động cộng đồng. Quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng là một khái
niệm rộng và đa nghĩa theo tính ứng dụng của nó trong thực tiễn, đề cập sự tham
gia của các cộng đồng có lợi ích liên quan trong quản lý tài nguyên đất, nước,
rừng, động vật hoang dã và nguồn lợi thủy sản. Mô hình là một phương tiện cho
người dân trong cộng đồng tham gia vào quá trình ra quyết định. Quá trình này
đưa ra một giới hạn đầy đủ về các bên tham gia, từ đó phá vỡ những rào cản
1
giữa các bên liên quan và đưa ra những mục tiêu rõ ràng; tạo cơ hội cho cộng
đồng tham gia vào quá trình quản lý và xác lập khả năng tự trị. Do đó, đây là
một cơ chế quan trọng cho sự tham gia thực sự của cộng đồng vào giải quyết các
vấn đề của khu vực, duy trì tính công khai từ đó tạo hiệu quả cao trong việc xây


dựng năng lực quản lý của chính quyền địa phương. Với những lý do đó, tiếp
cận, áp dụng và nhân rộng mô hình này là một trong những bước đi quan trọng
hướng tới một xã hội phát triển bền vững.
3 khía cạnh chính là:
Trách nhiệm: cộng đồng tham gia làm chủ (có quyền sở hữu) và có nghĩa vụ
tham dự.
Quyền lực: với tư cách vừa là người sử dụng, vừa là người quản lý tài nguyên.
Kiểm soát: cộng đồng có khả năng thực hiện và xác định được kết quả từ các
quyết định của mình có liên quan đến hệ thống. Khía cạnh này chính là đề cập
đến năng lực của cộng đồng ở khả năng đóng góp về kỹ thuật, nhân công và tài
chính, cũng như sự hỗ trợ về thể chế của cộng đồng trong quá trình lập kế
hoạch, thực hiện và duy trì tính bền vững của hệ thống.
Quản lí tài nguyên dựa vào cộng đồng là một quá trình có sự tham gia
trong đó cộng đồng chính là trung tâm của hệ thống quản lí có hiệu quả. Sự
tham gia của cộng đồng rất đa dạng và phụ thuộc vào bối cảnh địa phương, quy
mô của cộng đồng, luật pháp Nhà nước, thể chế và năng lực địa phương, và
công nghệ được sử dụng.
Với Việt Nam, đây không phải là một hình thức hoàn toàn mới, mà nó đã
được manh nha trong tiềm thức của nhân dân ta từ xưa, có thể thấy điều này
trong truyền thống của rất nhiều dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Rừng là của chung
2
Đất là của chung
Suối nuôi cá là của buôn làng
Cá dưới suối ai bắt thì bắt
Bắt ếch con phải chừa ếch mẹ
Bắt cá con phải chừa cá mẹ
Chặt cây tre phải chừa cây con
Đốt tổ ong chừa lại ong chúa
Thuốc cá làm suối nghèo…

Muốn ăn ếch phải dùng ná bắn
Muốn ăn cá nên dùng rá vớt
Không được lấy cây rừng thuốc cá
Làm chết sạch cả tép cả cua
Buôn làng có quyền xét xử
Ai thuốc cá, có tội với buôn làng
Tội thuốc cá, không ai đếm nổi.
Có rất nhiều các mô hình quản lí tài nguyên dựa vào cộng đồng trong truyền thống.
Tuy rằng chưa có điều tra về sự thành công của các mô hình truyền thống đó nhưng
tính bền vững của các mô hình thì đã được xác nhận một cách rõ ràng. Với truyền
thống sẵn có ầy việc phát triển mô hình quản lí tài nguyên dựa vào cộng đồng ở
nước ta càng có cơ sở thành công.
* Nhu cầu phát triển làng sinh thái ở Việt nam
Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quá
trình phát triển đó diễn ra trên khắp các vùng lãnh thổ; các dạng tài nguyên cơ bản
như đất, nước và các hệ sinh thái được huy động tối đa để sử dụng vào các mục
đích phát triển KT-XH. Hậu quả là ở nhiều nơi tài nguyên bị suy giảm, cân bằng
của các hệ sinh thái bị phá vỡ, gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển.
3
Việt Nam là đất nước với trên 70% dân số là nông dân, cho đến nay nông
nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vùng nông thôn
rộng lớn chiếm 3/4 lãnh thổ là địa bàn hoạt động của nhiều cộng đồng dân cư và
nhiều ngành kinh tế khác nhau. Những hoạt động này có nhiều tác động hỗ trợ
nhau, nhưng thường đan chéo nhau, gây ra những xung đột trong sử dụng tài
nguyên, môi trường và các hệ sinh thái tự nhiên. Nông thôn Việt Nam là khu vực
có tỷ lệ gia tăng dân số cao, sức ép dân số đến môi trường sinh thái ngày càng lớn.
Việc khai thác sử dụng hệ sinh thái này có thể gây tác động xấu đến hệ sinh thái
khác, vì vậy cần nhận thức đúng mối quan hệ hữu cơ phức tạp giữa các hệ sinh thái
và giữa các yếu tố cấu thành của mỗi hệ sinh thái để từ đó tìm ra hướng sử dụng
chúng một cách hiệu quả trong phát triển nông thôn.

Để kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế- xã hội và bảo vệ môi trường sinh
thái, con đường duy nhất phải chọn là sự phát triển theo nguyên tắc bền vững. Đó là
chiến lược chung, là chương trình hành động về môi trường và phát triển bền vững
đã được thể chế hoá thành “chương trình Nghị sự 21” toàn cầu và đã được các quốc
gia đồng thuận, khẳng định trong các văn bản pháp luật do Nhà nước ra ban hành.
Phát triển bền vững không thể đạt được nếu không hiểu rõ các nguyên nhân dẫn đến
suy thoái tài nguyên và môi trường. Hầu hết các vấn đề môi trường đều phát sinh từ
chính những cấu trúc của hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Ở
các nước đang phát triển, sự nghèo đói của người dân ở nông thôn là gốc rễ của suy
thoái môi trường. Thông thường để tồn tại, các cá nhân của cộng đồng buộc phải
lạm dụng tài nguyên và do đó làm suy thoái tài nguyên môi trường, gây ra những
biến đổi bất lợi đối với các hệ sinh thái.
Xuất phát từ đó, việc nghiên cứu các cơ sở khoa học và thực tiễn để đề xuất và triển
khai mô hình phát triển kinh tế sinh thái tại những vùng nông thôn, vùng cao, vùng
xa ở Việt Nam là rất cần thiết, nhằm góp phần giải quyết những yêu cầu của cuộc
sống đặt ra, thực hiện chủ trương của Nhà nước về xoá đói giảm nghèo, giảm bớt sự
cách biệt giữa nông thôn và thành thị.
4
Mô hình hệ kinh tế sinh thái được nghiên cứu và thử nghiệm xây dựng tại 3
vùng sinh thái đặc thù kém bền vững, từ vùng đồng bằng úng ngập nước, vùng
cát hoang hoá ven biển và vùng đồi núi trơ trọc ở Việt Nam. Đó là những vùng
đất trũng úng ngập quanh năm như Phú Điền, Nam Sách, tỉnh Hải Dương; vùng
cát khô hạn ven biển Cảnh Dương, Hải Thuỷ, Thanh Thuỷ, tỉnh Quảng Bình và
Triệu Vân, Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; vùng đồi núi trơ trọc ở Ba Trại, Ba Vì,
tỉnh Hà Tây; Kim Lư, Na Rì tỉnh Bắc Kạn v.v..
Thiên nhiên đã ưu ái cho nước ta nhiều vùng đất mầu mỡ trù phú với
khoảng 8 triệu ha đất nông nghiệp nhưng cũng phải gấp 3 lần con số đó (khoảng
25 triệu ha) là đất ở hệ kém bền vững như bãi cát, đầm lầy, đất dốc, đất ngập
mặn, chiêm trũng, đồi núi, cao nguyên khô hạn... Cuộc sống của của người dân
ở những vùng đất này vô cùng khốn khó. Cái nghèo, cái đói luôn vây quanh họ...

Đây là những vùng đất dễ bị suy thoái nhất, điều kiện tự nhiên không thuận lợi
cho canh tác sản xuất nông nghiệp và phương thức sản xuất, sinh hoạt không
hợp lý của người dân địa phương đã khiến họ tác động vào môi trường tự nhiên
nhằm khai thác những thứ cần thiết cho nhu cầu hàng ngày của họ, làm cho môi
trường suy thoái, tài nguyên cạn kiệt. Nhất là suy giảm tài nguyên nước cả về
mặt chất lượng lẫn số lượng, suy thoái đất, bùng nổ dân số,... lại trở thành những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đói nghèo, tài nguyên lại càng bị khai
thác.
Đứng trước tình hình đó, một trong những biện pháp tạo dựng cho người dân ở
những vùng đất khó khăn này có một cuộc sống ổn định và một môi trường bền
vững là xây dựng những Làng sinh thái.
5
* Làng như thế nào được coi là Làng sinh thái?
"Làng sinh thái là kết quả thực tế từ một sự mong muốn của con
người nhằm tìm ra một lối sống bền vững dựa trên thái độ và cách tiếp cận
đối với vấn đề loại bỏ chất thải".
Các mục đích của Làng sinh thái là quy hoạch vật chất (như sử dụng năng
lượng thấp với mức hiệu suất cao và sản sinh chất thải thấp) và quy hoạch xã hội
(như nâng cấp các giá trị xã hội và văn hoá liên quan tới giá trị vật chất,...).
Trong Làng sinh thái, nhà ở thường là nhà kiểu năng lượng thấp (không quá
10.000KWh/năm), đảm bảo không dùng các nhiên liệu hoá thạch, tránh sử dụng
xe hơi, hàng hoá được tiêu thụ trong các cửa hàng bán lẻ. Rau, cây ăn quả, hoa
và cả cây lấy gỗ được trồng trên các lô đất tập thể và tư nhân để tự thoả mãn nhu
cầu. Các phế thải sinh vật được sử dụng làm phân bón và giảm lượng thải rắn
hữu cơ, hạn chế được sự ô nhiễm nguồn nước. Việc ủ phân cục bộ, tách nguồn
hợp lý và đốt giấy loại có thể giảm một khối lượng chất thải rắn từ các hộ gia
đình hàng năm khoảng từ 250kg/người xuống 100kg/người, hoặc thậm chí thấp
hơn,...
Mô hình Làng kinh tế sinh thái đã được Viện Kinh tế sinh thái nghiên
cứu xây dựng từ năm 1993. Theo GS. TS Viện trưởng Nguyễn Văn Trương,

Làng sinh thái là nơi tái lập lại cơ bản hệ sinh thái phù hợp với sự sống của con
người, cây trồng, vật nuôi. TS. Nguyễn Đắc Hy (Trung tâm Nghiên cứu sinh thái
và môi trường) cho biết thêm, mô hình Làng kinh tế sinh thái được xác định
bằng công thức: Đặc trưng sinh thái + Kiến thức bản địa + Kiến thức khoa học
= Mô hình Làng kinh tế sinh thái. Có nghĩa là mô hình Làng sinh thái được xây
dựng trên cơ sở sinh thái học và sự kết hợp kiến thức truyền thống (hay còn gọi
là kiến thức bản địa) với kiến thức khoa học trong tổ chức, xây dựng không gian
sống, các hình thức sản xuất, sinh hoạt, hoạt động văn hoá dân gian, cũng như
chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng.
6
Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, xây dựng thành công mô hình Làng
sinh thái ở các vùng sinh thái nhạy cảm, kém bền vững sẽ đem lại nhiều lợi ích
cho người dân. Từ việc nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và làm giàu
cho xã hội, tạo dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc trên cơ sở phát triển bền vững,
bảo tồn đa dạng sinh học có hiệu quả đến việc phòng chống và giảm nhẹ thiên
tai dịch bệnh, đồng thời cũng bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc.
Nó sẽ góp phần vào công cuộc Công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước.
Gần 14 năm kể từ khi mô hình làng sinh thái đầu tiên tại làng Vĩnh Hoà, xã
Triệu Vân, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị được nhen nhóm, đến năm
2007 đã có 13 làng sinh thái trên toàn quốc được Viện Kinh tế sinh thái xây
dựng thành công tại các địa phương áp dụng cho các vùng đất có hệ sinh thái
kém bền vững là đất dốc, bãi cát và vùng ngập nước.
Làng sinh thái là một mô hình minh hoạ cho hướng phát triển cần phải có
trong cả các nước phát triển cũng như đang phát triển để chuyển đổi được các xu
hướng có hại.
7
Bộ tiêu chí, chỉ tiêu làng kinh tế sinh thái tại Việt Nam
TT
Nội dung tiêu
chí

Chỉ tiêu

Vùng ven biển
miền Trung
Vùng úng trũng đồng
bằng sông Hồng
Vùng trung du
miền núi phía
Bắc
A.
Bảo vệ môi
trường sinh thái,
tạo cảnh quan
môi trường xanh
- sạch

1.
Tạo được môi
trường sinh thái
có lợi cho con
người.
1.1. Tăng tỷ lệ che phủ rừng đạt 50% và
chất lượng thảm thực vật
- Tỷ lệ che phủ
rừmg đạt ≥ 50%
- Tỷ lệ cây xanh trong
khu dân cư ≥ 30% diện
tích đất thổ cư
- Tỷ lệ che phủ
rừng đạt ≥ 60%

1.2. Giảm thiểu rủi ro những yếu tố bất lợi
về môi trường.
- Trồng vành đai
cây xanh để ngăn
chặn cát bay, cát
chảy và sự xâm
nhập mặn từ biển.
- Có hệ thống tiêu
thoát nước để không
gây ngập úng nơi sản
xuất và khu dân cư.
- Trồng rừng và
canh tác theo
đường đồng mức
để ngăn chặn xói
mòn đất, lũ quét,
sạt lở đất.
8
2.
Bảo vệ và phát
triển đa dạng
sinh học.
2.1. 100% số hộ biết giữ gìn không khai
thác động thực vật mang tính huỷ hoại.
- 100% hộ biết giữ
gìn và không khai
thác động thực vật
mang tính hủy hoại.
- 100% hộ biết đa dạng
hoá cây trồng, vật nuôi

- 100% hộ dân
không khai thác
những loại động,
thực vật có tên
trong sách đỏ.
2.2. 100% số hộ sử dụng phân bón hợp lý
và 4 đúng trong dùng thuốc bảo vệ thực vật
(đúng thuốc, đúng nồng độ, đúng sâu bệnh
và đúng thời gian)
- 100% số hộ sử
dụng phân bón hợp
lý và 4 đúng trong
sử dụng thuốc bảo
vệ thực vật.
- 100% số hộ sử dụng
phân bón hợp lý và 4
đúng trong sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật.
- 100% số hộ sử
dụng phân bón
hợp lý và 4 đúng
trong sử dụng
thuốc bảo vệ
thực vật.
9
3.
Vệ sinh môi
trường cộng
đồng dân cư
đảm bảo xanh -

sạch.
3.1. Tỷ lệ dân sử dụng nước sinh hoạt đảm
bảo VSMT đạt 82 %.
- Đạt 85% dân số - Đạt 90% dân số
- Đạt 70% dân
số
3.2. Vệ sinh môi trường trong khu dân cư
an toàn cho sức khỏe con người.
- ≥ 80% hộ gia
đình thu gom và
chôn lấp rác thải ở
nơi quy định.
- 100% hộ gia đình
thu gom và chôn lấp
rác thải ở nơi quy định.
- ≥ 70% hộ gia
đình thu gom và
chôn lấp rác thải
tại nơi quy định.
- ≥ 70% hộ có nhà
tiêu và chuồng trại
chăn nuôi đạt vệ
sinh môi trường.
- ≥ 90% hộ có nhà
tiêu và chuồng trại
chăn nuôi đạt vệ sinh
môi trường.
- ≥ 60% số hộ có
nhà tiêu và
chuồng trại chăn

nuôi đạt vệ sinh
môi trường.
- Thôn xóm có hệ
thống tiêu thoát
nước thải sinh hoạt
và sản xuất.
- Thôn xóm có hệ
thống tiêu thoát và xử
lý nước thải sinh hoạt
và sản xuất.
- Thôn xóm có
hệ thống tiêu
thoát nước thải
sinh hoạt và sản
xuất.
B.
Phát triển kinh
tế ổn định và
bền vững

10
4.
Sử dụng tài
nguyên thiên
nhiên, nguồn lực
tại chỗ hợp lý và
hiệu quả.
4.1. Có phương án quy hoạch sử dụng đất
đai phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội
của địa phương để phát triển kinh tế bền

vững và bảo vệ môi trường sinh thái.
- ≥ 80% số hộ biết
bố trí cây trồng vật
nuôi phù hợp với
điều kiện khô hạn
và nguồn lực của
hộ gia đình có hiệu
quả
- ≥ 90% số hộ biết
chuyển đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi phù hợp
với đất đai, khí hậu và
nguồn lực của hộ gia
đình có hiệu quả, phát
triển các mô hình trang
trại.
- ≥ 80% sử dụng
mô hình sản xuất
nông lâm kết hợp
trên vùng đất dốc
và ruộng bậc
thang.
- Biết xây dựng,
phát triển các mô
hình vườn kinh tế
sinh thái (cây ăn
quả, cây ăn quả xen
cây ngắn ngày,
vườn rừng,
VAC…) và chăn

nuôi gia súc gia
cầm.
- Duy trì và phát triển
những sản phẩm cây
con mang tính đặc
trưng bản địa.
- Xây dựng và
phát triển các mô
hình: VAC, vườn
nhà, vườn rừng,
trại rừng, nương
định canh, bãi
chăn thả…
4.2. Sử dụng năng lượng tái tạo - Sử dụng năng
lượng gió và mặt - Sử dụng hầm Biogas
- Sử dụng thuỷ
điện nhỏ
11

×