Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Lạm phát ở việt nam – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.02 KB, 67 trang )

LỜI CAM KẾT
Tôi SV: Nguyễn Văn Minh.
SV: Lớp Kinh Tế Phát Triển 48B
Khoa: Kế hoạch – Phát Triển
Trường: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân.
Xin cam kết bài viết dưới đây là công trình nghiên cứu của tôi, do tôi tự tìm hiểu và
sưu tầm, không ăn cắp, sao chép bản thảo của bất kỳ ai. Trong bài viết tôi có sử dụng
một số tài liệu đã có danh mục ở cuối. Nếu có gì sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm.
SV: Nguyễn Văn Minh
1
LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển kinh tế ổn định và duy trì tăng trưởng luôn là mục tiêu và định hướng của
mọi quốc gia. Với Việt Nam chúng ta, nền kinh tế còn chậm phát triển thì duy trì và
tăng tốc độ tăng trưởng mang tính quyết định để nâng tầm nền kinh tế. Tuy nhiên vấn
đề lạm phát lại là một trở ngại, thách thức, khó khăn để có thể đạt được các mục tiêu
kinh tế của đất nước. Thậm chí, Lạm Phát còn gây tác động tiêu cực đến mọi mặt
của kinh tế và xã hội đất nước.
Năm 2009, là năm chúng ta đã đạt được thành công trong việc kiềm chế lạm phát một
cách hiệu quả. Tuy nhiên, giai đoạn trước đó lại là một giai đoạn đầy biến động, phức
tạp của thị trường trước tác động của lạm phát. Lạm phát đã gây ra những tác động
tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến kinh tế và xã hội nước ta, những nó cũng đã cho chúng
ta thấy còn nhiều yếu kém trong một nền kinh tế, cũng như sự chưa chặt chẽ trong
điều hành chính sách vĩ mô của nước ta. Hãy cùng nhìn lại thực trạng lạm phát ở
nước ta thời gian qua để thấy rõ tác động của nó, và có được những bài học kinh
nghiệm quý báu, cũng như giải pháp hợp lý trong việc đối phó với lạm phát trong
tương lai của đất nước. Hướng tới một Việt Nam phát triển bền vững và ổn định.
ĐỀ TÀI: LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.
Trong bài viết còn nhiều thiếu sót và hiểu biết hạn chế, mong thầy, cô bỏ qua và góp
ý kiến để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn.
2


LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Phần I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LẠM PHÁT.
1.Khái niệm về lạm phát.
Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới vấn đề lạm phát đã và đang là
một vấn đề hết sức phức tạp đặt ra cho các quốc gia. Lạm phát không chỉ xảy ra ở
những nước kém phát triển mà ngay ở các nước có nền kinh tế phát triển nền kinh tế
cũng có bóng dáng của lạm phát. Lạm phát tác động đến giá cả thị trường. Nhưng
chủ yếu không phải ở chỗ giá cả tăng lên mà ở chỗ giá cả tương đối đã thay đổi. Nói
cách khác là việc tác động vào thị trường không phải là để triệt tiêu hoàn toàn lạm
phát mà kìm giữ nó ở một tỉ lệ nhất định vì bản thân lạm phát là yếu tố quan hệ mật
thiết với vấn đề thất nghiệp và tiền tệ. Như vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ nó
sinh ra cùng với việc mở rộng hệ thống tài chính, các loại tiền tệ theo sự phát triển
của nền kinh tế từ công xã nguyên thuỷ sang nền kinh tế tự do và đặc biệt là sự xuất
hiện của tiền giấy, đó là hiện tượng đặc trưng của sự thay đổi mức giá chung, khi
mức giá tăng lên hay sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian.
Theo một cách hiểu khác thì Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế
thị trường, nó xuất hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không
được tôn trọng, nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá, còn
tồn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát
và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm.
Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền giấy
phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền
giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước phát hành
vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm
xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
3
2. Thước đo lạm phát:
Các nhà kinh tế thường dùng hai chỉ tiêu để đánh giá lạm phát của nền kinh tế:
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước (D
DGP)

. CPI
biểu thị biến động về mức giá chung của một rổ hàng hóa và dịch vụ cố định dùng
cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình. Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước
biểu thị sự biến động về mặt bằng giá chung của toàn bộ hàng hóa và dịch vụ sản
xuất ra trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia.


=
PoQ
PtQ
CPIt
àng
D
GDPt


=
PoQt
PtQt
CPI nhằm giúp theo dõi mức tăng giảm giá của hàng hóa tiêu dùng, các nhóm
hàng quan trọng nhất có ảnh hưởng đến đời sống cũng như tâm lý của dân chúng.
CPI có thể đo lường hằng tháng, không như chỉ số giảm phát cho GDP có tính tổng
hợp hơn nên chỉ có thể đo lường hằng quý ở mức tin cậy hạn chế và nếu muốn đạt độ
tin cậy cao thì phải là chỉ số hằng năm vì lúc đó thống kê mới có thể thu thập đầy đủ.
CPI thường theo rất sát chỉ số giảm phát GDP vì tiêu dùng chiếm một tỷ lệ rất lớn
trong GDP. Vì vậy CPI được coi là thước đo lạm phát, các nước trên thế giới cũng
đang sử dụng chỉ tiêu này để xác định tỷ lệ lạm phát. Lạm phát hay tăng giá đối với
các nhà kinh tế là đồng nghĩa.
CPI là chỉ số thông dụng nhất trong đo lường lạm phát ở các nước trên thế
giới. Tuy vậy, CPI không phải là một chỉ tiêu hoàn hảo để đánh giá sự thay đổi chi

phí sinh hoạt. Thứ nhất, nó không tính đến độ chênh thay thế, đó là sự thay đổi cơ
cấu rổ hàng hóa tiêu dùng khi một số mặt hàng tăng giá nhanh hơn các mặt hàng
khác. Thứ hai, nó không phản ánh sự xuất hiện của các hàng hóa mới. và cuối cùng,
nó không đo lường được sự thay đổi về chất lượng hàng hóa. Tóm lại, CPI có xu
hướng phóng đại sự thay đổi trong chi phí sinh hoạt.
4
Q là rổ hàng hóa bao gồm hang hóa và dịch vụ mà một người
tiêu dùng điển hình mua. P
t
là giá hàng hóa năm t. P
0
là giá
hàng hóa năm gốc. Q
t
là rổ hàng hóa và dịch vụ được tính vào
GDP năm t.
Ngược lại, chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước có xu hướng đánh giá
thấp sự thay đổi trong chỉ số giá.
3. Phân loại lạm phát.
Lạm phát được phân loại dựa trên 2 tiêu thức, đó là định lượng và định tính.
3.1. Theo định lượng.
- Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới
10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì
này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn
định. Sự ổn định đó được biểu hiện: Giá cả tăng chậm, lãi xuất tiền gửi không cao,
không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn …
Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, những tác
động của nó là không đáng kể. Mặt khác, lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho
người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này, các hãng kinh doanh
có khoản thu ổn định, ít rủi ro và sẵn sàng đầu tư cho sản xuất kinh doanh .

- Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2
con số 1 năm . Ở mức 2 con số thấp: 11,12% thì nói chung các tác động tiêu cực
không đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai
chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động
lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá,
vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường.
Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động
tiêu cực của nó không nhỏ. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với
sự ổn định của nền kinh tế.
- Siêu lạm phát: 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc
độ rất nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi
mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả
tăng nhanh và không ổn định, tiền luơng thục tế của người lao động bị giảm mạnh,
tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường
5
biến dạng và hoạt động sản xuất khin doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương
hướng. Tóm lại ,siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách
nhanh chóng. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra.
3.2. Theo định tính.
- Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động,
tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó không
gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền kinh tế nói
chung.
- Lạm phát không cân bằng: Tốc độ tăng giá không tương ứng với tốc độ tăng
thu nhập của người lao động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
Khi đó mức sống thực tế của người lao động bị giảm sút.
- Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì
tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát này có thể dự đoán
trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý ,người dân đã quen
với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do đó không gây ảnh hưởng

đến đời sống ,đến kinh tế .
- Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện .Loại
lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi .Từ
đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân
dân vào chính quyền có phần giảm sút.
4. Nguyên nhân của lạm phát:
4.1. Lạm phát theo thuyết tiền tệ:
Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá… có nhiều nguyên nhân dẫn đến
lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá
lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá hàng tiêu dùng tăng lên.
Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng
6
tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức
giá chung và có thể giải thích theo 3 cách.
- Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung
tiền.
- Theo học thuyết Keynes, lạm phát xảy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ
trong nền kinh tế (do cầu kéo).
- Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất (chi
phí đẩy).
Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi nguyên
nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau.
Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỷ lệ lạm phát, mà dựa
vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong việc chống lạm
phát, các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung tiền.
Tăng cung tiền có thể đạt được bằng 2 cách:
- Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện kinh
doanh tốt), hoặc
- Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng.
Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về

mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung
không tăng tương ứng với cầu, thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá.
Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ
cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng.
4.2. Lạm phát cầu kéo.
Xảy ra khi tổng cầu tăng trong khi tổng cung không đổi hoặc tổng cung tăng
chậm hơn tổng cầu.
7
Có nhiều nguyên nhân làm tăng tổng cầu:
- Do tăng chi tiêu của các hộ gia đình và tăng đầu tư của các doanh nghiệp.
Khi đó có một lượng tiền lớn được tung ra mua hàng hóa và dịch vụ gây ra sự thừa
tiền trong lưu thông, dẫn đến việc đồng tiền bị mất giá.
- Do tăng cán cân thương mại, khiến cho nước ngoài tăng mua hàng trong
nước, còn người trong nước giảm mua hàng nước ngoài.
- Do Chính phủ tăng chi tiêu hoặc giảm thuế. Nếu chính phủ tăng chi tiêu của
mình dành cho hàng hoá và dịch vụ, lượng tiền mà chính phủ chi mua hàng hoá và
dịch vụ sẽ được đưa trực tiếp vào nền kinh tế, làm tăng tổng cầu. Nếu Chính phủ
giảm thuế hoặc tăng chi chuyển nhượng thì sẽ làm tăng thu nhập khả dụng, từ đó làm
tăng tiêu dùng của hộ gia đình, tức là tăng cầu. Hiện nay, nguyên nhân tăng chi tiêu
của Chính phủ là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng lạm phát
cao.
- Do việc kiểm soát lượng cung tiền của ngân hàng trung ương còn hạn chế.
Ngân hàng trung ương không kiểm soát được lượng cung tiền hợp lí, cung tiền tăng
làm tăng lãi suất, kích thích tăng đầu tư tư nhân làm tăng cầu.
4.3. Lạm phát chi phí đẩy.
Xảy ra khi chi phí sản xuất gia tăng hoặc năng lực sản xuất của quốc gia bị
giảm sút, trong cả hai trường hợp đều tạo ra áp lực giá.
Chi phí sản xuất tăng có thể do các nguyên nhân sau: do gia tăng tiền lương
danh nghĩa, tăng giá nguyên-nhiên-vật liệu,... Do chi phí sản xuất tăng nên doanh
nghiệp buộc phải tăng giá sản phẩm nhằm bảo đảm lợi nhuận, cuối cùng, thị trường

cân bằng tại mức giá cao hơn ban đầu.
Năng lực sản xuất của quốc gia giảm có thể do các nguyên nhân như: giảm sút
nguồn nhân lực, do sự gia tăng tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên, do sự biến động chính trị,
chiến tranh, thiên tai,... Do năng lực sản xuất suy giảm nên khả năng đáp ứng nhu cầu
giảm, gây khan hiếm hàng hoá và tăng giá cả.
8
Cả hai trường hợp nêu trên tuy có cơ chế tác động khác nhau nhưng cùng có
một kết quả sau cùng: nền kinh tế vừa bị lạm phát vừa giảm sản lượng.
4.4. Lạm phát dự kiến.
Kỳ vọng về lạm phát là những dự kiến, dự đoán của người dân về mức giá
chung trong tương lai. Kỳ vọng về mức giá trong tương lai của công chúng có tác
động giống như một cú sốc đối với nền kinh tế. Kỳ vọng mức giá trong tương lai là
cơ sở để ra quyết định trong hiện tại. Nếu công chúng dự kiến lạm phát cao, những
nhà sản xuất muốn tăng mức giá hàng hóa của họ, người công nhân sẽ đấu tranh đòi
tăng tiền lương danh nghĩa, người cho vay sẽ yêu cầu một mức lãi suất danh nghĩa
cao hơn, mọi người đến ngân hàng rút tiền nhiều hơn. Và kết quả là lạm phát thực tế
ở mức cao hơn. Những phân tích vừa rồi sẽ đảo chiều trong trường hợp mọi người kỳ
vọng một mức lạm phát thấp trong tương lai.
Lý thuyết giá cả cứng nhắc nhằm giải thích sự dốc lên trong ngắn hạn của
đường tổng cung mang những hàm ý về sự phụ thuộc của cung về hàng hóa và dịch
vụ vào nhận thức, tiền lương, giá cả và tất cả đều được ấn định dựa trên mức giá dự
kiến. Có thể biểu diễn tổng cung bằng công thức toán học:
Y = Y* + α(P – P
e
)
Trong đó, Y là mức sản lượng cung ứng trong ngắn hạn, Y* là mức sản lượng
tiềm năng, P là mức giá thực tế, P
e
là mức giá kỳ vọng và α là hệ số biểu diễn độ dốc
của đường tổng cung (0<α<1).

Mức giá kỳ vọng càng lệch so với mức giá thực tế sẽ làm tổng cung càng lệch
so với sản lượng tiềm năng. Theo phương trình này, một mức giá kỳ vọng cao giống
như một cú sốc cung bất lợi làm giảm sản lượng và tăng lạm phát.
4.5. Một số nguyên nhân khác.
9
Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa tăng
theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này
đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ tiền
gửi vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về mọi loại hàng
hoá có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá và tiếp
tục đẩy giá lên cao.
Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn các chính phủ có thể in
thêm tiền để trang trải, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm
phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm
một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường
xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên, chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng
cách vay dân thông qua tín phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không
có nguy cơ lạm phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả
gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát
mạnh là điều chắc chắn.
Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của Nhà nước, chính sách thuế,
chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí đầu
vào, nguyên nhân do nước ngoài.
5. Tác động của lạm phát.
5.1. Tác động về kinh tế.
5.1.1. Tác động đến lĩnh vực sản xuất:
Ở vị trí các nhà sản xuất, khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và đầu
ra biến động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất
giá của đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch toán kinh doanh. Hiệu quả
sản xuất – kinh doanh ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi gây ra những biến

động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm
phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
10
Tuy nhiên xét ở góc độ nào đó, khi tỷ lệ lạm phát thấp ,không gây ảnh hưởng
đến kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Từ đó sẽ khuyến khích các
doanh nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất, sản lượng sẽ tăng lên. Ngoài ra cũng
khuyến khích tiêu dùng, cầu tiêu dùng tăng lên, do đó hàng hoá bán chạy và cũng làm
sản lượng tăng .
5.1.2. Tác động đến lĩnh vực lưu thông:
Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm
hàng hoá. Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của mình để vơ vét và
thu gom hàng hoá, tài sản, tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ
cung – cầu hàng hoá trên thị trường giá cả hàng hoá tăng lên nhiều hơn .
Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản
xuất sẽ gặp phải những rủi ro cao. Do có nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu
thông nên lĩnh vực này trở lên hỗn loạn. Tiền vừa ở trong tay người bán hàng xong
lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều
này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng .
5.1.3. Tác động đến lĩnh vực tiền tệ tín dung:
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của
các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ
ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát
với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài
toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong
đợi tại hầu hết các ngân hàng, luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp
tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát
lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng
bất ổn cho cả hệ thống NHTM.
Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải thực hiện thắt chặt tiền
tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh

nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một
11
số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả,
với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho
vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo
đức sẽ xuất hiện.
Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng
hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát,
nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt
Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch
không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng.
Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, NHNN thực sự khó khăn trong việc
kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các NHTM cũng khó khăn trong việc phát
triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền
thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng,
thoát ly ngoài hoạt động.
Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn,
ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm
cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn
cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín
dụng.
5.1.4. Tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Về lý thuyết, lạm phát có thể tác động tiêu cực lẫn tích cực lên tăng trưởng
kinh tế: Theo Mundell (1965) và Tobin (1965), có mối tương quan tỉ lệ thuận giữa
lạm phát và tăng trưởng; hai trường phái Keynes và trường phái tiền tệ đều cho rằng
trong ngắn hạn, chính sách nới lỏng tiền tệ kích thích tăng trưởng, đồng thời làm gia
tăng lạm phát; đường cong Phillips nổi tiếng về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát
và thất nghiệp.
- Suy thoái và lạm phát, tình trạng nền kinh tế vừa có những dấu hiệu của lạm
phát, mà cơ bản nhất là giá cả leo thang, tiền mất giá nhưng lại vừa có những biểu

12
hiện của suy thoái như sản xuất đình trệ, thất nghiệp gia tăng, lạm phát cao, tăng
trưởng thấp.
- Lạm phát có thể tác động tiêu cực lên tăng trưởng như: dấu hiệu bất ổn kinh
tế vĩ mô; tăng sự không chắc chắn của các hoạt động đầu tư; lạm phát làm thay đổi
giá cả tương đối, làm méo mó quá trình phân bổ nguồn lực; lạm phát còn được xem
như là một loại thuế đánh vào nền kinh tế.
Rất khó có thể đạt cùng một lúc cả 2 mục tiêu, bởi 2 mục tiêu này là hai đại
lượng "chế ước" lẫn nhau. Để tăng trưởng, phải tăng mạnh đầu tư. Muốn tăng mạnh
đầu tư, phải hạ lãi suất cho vay, đẩy tiền ra lưu thông. Khi đó, lạm phát sẽ gia tăng.
Hơn nữa, khi lạm phát gia tăng thì phải tăng lãi suất huy động để hút tiền từ lưu
thông vào, nếu không sẽ không bảo đảm nguyên tắc lãi suất thực dương của kinh tế
thị trường; khi lãi suất huy động tăng thì lãi suất cho vay không thể không tăng lên
được; khi lãi suất cho vay tăng thì chi phí sản xuất tăng, làm giảm hiệu quả và sức
cạnh tranh, thậm chí còn "thắng ít trên sân người mà thua nhiều trên sân nhà", làm
giảm tăng trưởng kinh tế.
5.1.5. Tác động đến cán cân ngân sách và chính sách kinh tế tài chính nhà
nước.
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm
phát xảy ra thì những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả và
làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó người ta khó phân biệt được những doanh
nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, các khoản thu cho
ngân sách nhà nước không tăng. Do đó, nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền
cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội, các nghành, các lĩnh vực dự định được chính
phủ đầu tư hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị
thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có
điều kiện để thực hiện.
5.2. Tác động đến xã hội.
5.2.1. Làm giảm thu nhập thực tế.
13

Thu nhập thực tế được đo lường bằng lượng hàng hóa và dịch vụ mà một
người có thể mua được từ khoản thu nhập danh nghĩa của mình.
w = W/P Trong đó, w là thu nhập thực tế, W là thu nhập danh nghĩa, P là
giá hàng hóa.
Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát làm giảm thu nhập
thực tế của người lao động theo cùng một tỷ lệ.
Tất nhiên, khi giá cả tăng, mọi người đều có cơ hội có được mức thu nhập cao
hơn nhờ việc bán hàng hóa và dịch vụ với mức giá cao hơn, kể cả lao động. Nhưng
các hợp đồng lao động thường được kí kết trong một khoảng thời gian dài: 6 tháng, 1
năm hay 3 năm…..với mức lương thỏa thuận nhất định và người lao động chỉ có thể
được điều chỉnh tiền lương vào thời điểm ký kết hợp đồng mới, hoặc thông qua các
thỏa thuận đòi tăng lương, đấu tranh công đoàn, đình công….Trong khi đó, giá cả
tăng từng ngày, và như vậy người lao động bị thiệt thòi một cách tương đối trong thời
kỳ nền kinh tế có lạm phát.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi như
tiền mặt mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu
nhập thực từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều này xảy ra là do chính sách thuế
của chính phủ được tính trên cơ sở thu nhập danh nghĩa. Lạm phát tăng cao kéo theo
lãi suất danh nghĩa tăng cao làm cho tiền lãi danh nghĩa cũng tăng và khoản phải nộp
thuế cũng tăng theo. Kết quả là tiền lãi thực tế giảm. Tương tự như vậy đối với các
tài sản cổ phiếu hay trái phiếu. “ lãi vốn” là thu nhập có được từ việc bán một tài sản
cao hơn giá mua nó. Lãi vốn danh nghĩa là đối tượng chịu thuế. Trong trường hợp
lạm phát ở mức cao lãi vốn danh nghĩa sẽ cao hơn mức lãi thật rất nhiều, như thế
người nộp thuế sẽ chịu thiệt trong khi chính phủ được lợi.
5.2.2. Lạm phát làm phân phối thu nhập bất bình đẳng.
Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm phát tăng
cao, người cho vay sẽ là người chịu thiệt còn người đi vay thì được lợi. Vậy là phân
phối thu nhập không công bằng. Hơn thế nửa, lạm phát còn thúc đẩy những người
14
kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi. Những người nhiều tiền,

giàu có dùng tiền của mình vơ vét, thu gom hàng hóa, tài sản…nạn đầu cơ xuất hiện.
Tình trạng này làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hóa trên thị
trường, đẩy cơn sốt giá lên cao hơn. Và những người chịu ảnh hưởng nặng nề nhất
chính là những người nghèo. Lạm phát như một mức thuế vô hình đánh vào người
nghèo, trong số giá cả hàng hóa tiêu dùng, dịch vụ liên tục tăng thì mức thu nhập thấp
của họ không thể nào tăng kịp với mức tăng của lạm phát. Với những người nông
dân thì tình hình càng tồi tệ hơn. Khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập, mức sống
giữa người nghèo và người giàu càng bị phân hóa đẩy bất bình đẳng và mâu thuẫn xã
hội lên gay gắt hơn.
5.2.3. Lạm phát làm tăng các khoản nợ quốc gia.
Lạm phát làm cho chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người dân.
Tuy nhiên với nợ quốc gia, những khoản nợ nước ngoài thì sẽ trở nên trầm trọng hơn
rất nhiều. Lý do là lạm phát đã làm đồng nội tệ mất giá nhanh hơn so với đồng ngoại
tệ đẩy tỷ giá tăng cao. Những khoản nợ nước ngoài quy ra đồng nội tệ sẽ tăng vọt và
trở nên khổng lồ. Điều này trở nên nghiệm trọng và nguy hiểm đối với các nước đang
phát triển, những nước thường phải vay nợ đáng kể để đầu tư, xây dựng, phát triển
trong nước.
15
PHẦN II
LẠM PHÁT VÀ CÁC TÁC ĐỘNG LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
1. Đánh giá kinh tế VIỆT NAM qua các thời kỳ cùng chỉ số lạm phát.
1.1. Chỉ số giá tiêu dùng từ 1976 đến 1992 và lạm phát năm 1986.
1.1.1. Bối cảnh kinh tế.
Bối cảnh nền kinh tế từ 1976 đến 1985 là giai đoạn hết sức phức tạp và đầy
biến động. Nền kinh tế vốn bị tổn thương nặng bởi chiến tranh, khi hợp nhất đã
không chú ý đầy đủ những khác biệt cơ chế nên nhiều khó khăn mới nảy sinh. Phát
sinh các chiến dịch cải tạo công thương nghiệp, cải tạo nông nghiệp làm rối loạn sản
xuất, lưu thông.
Cũng những năm này đất nước lại có 2 cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam
rồi đến biên giới phía Bắc, trận lũ lụt lịch sử ở ĐBSCL.

Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế 1977-1985
1977 1978 1979 1980 1981 1982 1983 1984 1985
Tỉ lệ tăng
dân số
2,55 2 2,02 2,4 2,24 2,26 2,14 2,23 2,08
Tỉ lệ tăng
TNQD
2,8 2,3 -2 -1,4 2,3 8,8 7,2 8,3 5,7
Trong đó:
- CN 11,7 9,4 -5,3 -12,2 0,5 9,7 6,8 13,2 11,1
- NN -1,1 -3,3 1,6 6,3 4,5 10,5 8,5 3,2 5,2
- TM 0,7 7 -5 -2,9 0,1 6,2 2,6 16,6 -5,7
S lượng
LT(tr.tấn)
12,62 12,26 13,98 14,41 15,01 16,83 16,99 17,8 18,2
16
Bq/người
(kg)
250 238 266 268 273 299 296 303 304
Thu/chi NS
(%)
64,6 66,2 56,6 60,5 65,6 65,9 75,4 83,3 54,8
XK(triệu R-
USD)
322,5 326,9 320,5 338,6 401,2 526.6 616,5 649,6 698,5
Nhập siêu -896 -976
-1205
-976 -981 -946 -910 -1095 -1159
Nhập siêu/
XK(%)

-278 -299 -376 -288 -244 -179 -147 -168 -166
Nguồn: Kinh tế Tài chính Việt Nam 1986-1990 & Niên giám TK 1982.
Dr. Tran Hoang Kim "Economy of Vietnam", Statistical Publishing House,
Hanoi 1994.
Chỉ 2 năm đầu sau 1975 là có tăng trưởng khá, sau đó thì nền kinh tế bị trượt
dài. Tăng trưởng tính theo Thu nhập quốc dân từ 1977-1980 là 0,4 %. Trong đó 2
năm 1979 âm 2%, năm 1980 âm 1,4%. Thâm hụt ngân sách lớn, thu chỉ đáp ứng
60% nhu cầu chi tiêu. Xuất khẩu đạt rất thấp, nhập khẩu lại cao nên mức thâm hụt lên
đến hàng tỉ US dollar mỗi năm. Sản xuất đã không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng,
ngân sách thâm hụt lớn, phải vay muợn và in thêm tiền cho chi tiêu. Tình hình đó tác
động mạnh đến giá cả hàng hóa.
17
Bảng 2: Chỉ số giá hàng tiêu dùng 1977-1986
(% năm sau so năm trước, 1976=100))
1977 1978 1979 1980 1981 1982 1983 1984 1985 1986
Chỉ số chung 118,6 120.9 119,4 125,2 169,6 195,4 149,5 164,9 191,6 578,2
LT&TP 126,1 124,5 126,4 133,8 152,0 182,1 155,1 155,0 191,6 653,2
Lương thực 129,7 125,3 118,1 121,0 146,8 152,8 134,4 162,0 288,3 354,2
Hàng tiêu dùng khác 106,6 104,4 118,0 117,8 195,1 205,4 138,8 179,9 190,8 522,7
Vật tư nông nghiệp 118,6 133,3 134,2 131,8 127,0 194,3 119,7 139,3 204,4 750,8
Chỉ số chính thức 101,1 104,3 103,3 109,8 202,0 241,8 142,8 155,8 210,8 557,4
LT&TP 100,5 108.8 108.9 116.7 160.0 217.9 150.1 155.1 210.8 646.4
Lương thực 100.0 99.7 100.1 105.7 144.1 168.3 135.0 151.7 365.2 327.9
Hàng tiêu dùng khác 101.9 100.0 100.8 107.1 236.0 245.9 130.9 157.2 210.3 495.5
Vật tư nông nghiệp 100.0 100.0 100.0 101.4 122.0 250.0 101.5 153.2 220.9 692.0
Chỉ số TT tự do 138.0 134.1 140.0 143.8 147.4 165.0 157.5 176.3 154.7 682.3
LT&TP 143.0 133.5 138.1 142.5 147.8 164.2 159.5 154.5 160.2 668.9
Lương thực 164.7 153.3 131.1 131.9 148.6 143.8 134.1 173.9 147.0 558.3
Hàng tiêu dùng khác 123.8 123.0 185.0 148.5 154.0 163.9 150.8 217.4 146.8 636.1
Vật tư nông nghiệp 124.4 145.5 148.6 141.1 131.1 166.0 163.9 126.9 179.5 891.7

Nguồn: Report No. 8249-VN; Vietnam Stabilization and Structural Reforms,
April 30,1990, Document of the Wordbank
Trong Niên giám thống kê 1993, Tổng cục Thống kê đã điều lại chỉ số giá
hàng tiêu dùng các năm từ 1986 đến 1988, theo đó CPI năm 1986 là 876% và cũng
bỏ thống kê chỉ số giá thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Chỉ số giá hàng tiêu dùng (chỉ số giá chung) năm 80 tăng 25%, năm 81 tăng
69,5%, năm 82 lại tăng 95%. Trong chuỗi tăng liên tục, đến năm 85, năm đổi tiền thì
18
chỉ số giá chung đã tăng lên đến 92%. Hàng lương thực, thực phẩm với mức tăng rất
cao: 52% năm 81 và 92% năm 85; hàng tiêu dùng cũng tăng vọt, với chỉ số tăng giá
95% năm 81 và 105% năm 1982. Vào lúc đó thị trường được phân thành 2 mảng: thị
trường có tổ chức thì chỉ số giá của năm 80 tăng chỉ 10%, trong khi đó ở thị trường tự
do là 44%. Những năm sau đó chỉ số tăng giá ở thị trường có tổ chức lại cao hơn rất
nhiều so thị trường tự do. Năm 1985 chỉ số tăng giá ở thị trường có tổ chức là
110,8% thì ở thị trường tự do là 54,7%. Từ sau đổi tiền, khan hiếm hàng hóa và giá
cả tăng vọt đã xóa đi cái gọi là thị trường có tổ chức, mặc dù cơ chế 2 giá vẫn còn tồn
tại nhiều năm sau đó. Như vậy trước khi lạm phát bùng lên vào năm 1986 thì nền
kinh tế đã bị lạm phát và với mức tăng rất cao. Gọi là lạm phát năm 86 bởi đó là năm
lạm phát đạt mức cao nhất trong nhiều năm từ 1977 đến 1990, trước được kiềm chế.
1.1.2. Lạm phát phi mã bùng nổ.
Năm 1986 nền kinh tế đất nước bước vào thời kỳ lạm phát phi mã với tỉ lệ
tăng đến 3 chữ số và kéo dài trong 3 năm 86, 87, 88 với tỉ lệ 775%, 223% và 394%.
Năm 1989 chỉ số tăng giá tuy có giảm xuống còn 35% nhưng 2 năm sau đó lại tăng
lên với tỉ lệ 67% năm Chỉ đến năm 1992 lạm phát mới kiềm lại được ở mức 17,5%
và năm 1993 còn 5,2% Năm 1992, mặc dù lạm phát vẫn còn cao, nhưng so với nhiều
năm trước đó thì 17,5% là con số rất thấp, có thể coi đó là năm chấm dứt giai đoạn
lạm phát kéo dài 7 năm tính từ năm 1985, năm đổi tiền đẩy lạm phát lên đỉnh cao.
19
Hình 1: Lạm phát và tăng trưởng kinh tế các năm 1986- 1992.
1.1.3. Nguyên nhân.

* Lạm phát chi phí đẩy và tăng quá thừa mức cung tiền.
Những nguyên nhân chính đưa đến lạm phát cuối năm 80 là do sản xuất nông
nghiệp suy yếu, giá lương thực và thực phẩm tăng vọt; thâm hụt ngân sách, thâm hụt
thương mại cao, phát hành tiền cho nhu cầu chi tiêu. Nhung nguyên nhân của các
nguyên nhân là từ một các chính sách sai lầm thời đó kể cả việcchậm trễ trong việc ra
các quyết sách chống lạm phát.
Lạm phát đã xuất hiện nhiều năm trước 1986, nhưng vào lúc đó không thừa
nhận có lạm phát trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vấn đề lớn và tác động sâu rộng
như vậy nhưng không được đưa ra bàn luận. Không ai dám đưa vấn đề ra để phân
tích, trao đổi. Từ “lạm phát” như cái gì đó cấm kỵ không được nhắc đến trên các
phương tiện thông tin. Không ai dám đề cập nếu không phải là ở vị trí lãnh đạo cấp
cao.
Một vấn đề khác, cũng có thể là nguyên nhân đưa đến đánh giá thấp ảnh
hưởng và tác động của lạm phát bởi nền kinh tế ở miền Bắc chưa trải qua những năm
tháng bị lạm phát hoành hành như ở miền Nam, chưa có kinh nghiệm gì trong việc
đối phó với lạm phát. Cách tổ chức phân phối hàng hóa với 2 hệ thống khác biệt: hệ
20
thống tem phiếu với các cửa hàng quốc doanh và hàng hóa trên thị trường tự do. Thị
trường tự do là cho mọi người dân còn hệ thống tem phiếu và các cửa hàng mậu dịch
quốc doanh chuyên phân phối hàng hóa cho cán bộ. Cấp bậc, chức vụ càng cao thì
được mua nhiều hàng với giá phân phối rẻ, nên lãnh đạo càng ở cấp cao càng khó
cảm nhận được khó khăn do vật giá gia tăng. Đến khi hiểu được, cảm nhận được thì
tình hình đã hết sức nghiêm trọng.
Tình hình càng lúc càng bất lợi, cuối cùng biện pháp cũng được đưa ra vào
tháng 9/1985 là đổi tiền. Đây là lần đổi tiền thứ 3 kể từ lúc thống nhất đất nước
năm1975. Đổi tiền lần thứ nhất ở miền Nam vào tháng 8/1975 để thống nhất tiền tệ,
đổi tiền lần thứ 2 vào năm 1978 trên phạm vi cả nước trong chiến dịch cải tạo công
thương nghiệp ở các thành phố và đẩy mạnh cải tạo nông nghiệp ở nông thôn miền
Nam. Sau đổi tiền năm 75 và 1978 thì giá cả đều tăng vọt, sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp đều đình trệ, lưu thông hàng hoá khó khăn. Cả hai lần đổi tiền trước đó

đều đưa đến hậu quả hết sức tiêu cực nhưng không có bài học nào được rút ra.
Đổi tiền năm 1985 xuất hiện trong bối cảnh lạm phát đã rất cao, điều mà ngày
hôm nay là rất khó hiểu, nhưng lúc đó có thể cho rằng với đồng tiền đã bị mất giá, chỉ
cần nâng mệnh giá đồng bạc Việt Nam bằng cách đổi tiền thì có thể chấm dứt đà tăng
giá, như vậy lạm phát sẽ không còn. Quyết định số 01/HĐBT-TĐ của Chủ tịch
HĐBT vào ngày 13/9/1985 về việc phát hành tiền mới, thu đổi tiền ngân hàng cũ quy
định: “sức mua của đồng tiền mới bằng 10 lần sức mua của đồng tiền cũ”.
Kết quả sau đổi tiền CPI năm 1985 tăng 92 %, năm 1986 tăng 775%, lạm phát
phi mã với tỉ lệ tăng 3 chữ số kéo dài thêm 2 năm sau đó với tỉ lệ tăng 223% rồi
394%. Đến năm 1989, sau nhiều biện pháp tập trung cho sản xuất lương thực, hàng
tiêu dùng và xuất khẩu, nhập khẩu vàng, điều chỉnh cơ chế tỉ giá, lãi suất tiết kiệm,
hạn chế lưu thông tiền mặt thì lạm phát mới bước đầu được kiềm chế.
a. Tác động từ bên ngoài.
- Gánh nặng ngân sách của cuộc chiến.
21
Lạm phát là hậu quả của nhiều tác động từ thâm hụt ngân sách, thâm hụt các
cân thanh toán, cơ cấu nền kinh tế. Lạm phát cũng còn do công tác lãnh đạo điều
hành và có cả yếu tố tác động từ bên ngoài.
Việc xem xét các yếu tố bên ngoài vào nền kinh tế trong nước các năm 80 có
rất ít tài liệu đề cập đến vì liên quan đến chiên tranh. Chẳng hạn chiến tranh biên giới
Tây – Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 vốn ít được đề cập khi xem xét
các ảnh hưởng về mặt kinh tế. Do nhiều yếu tố, có thể là nhạy cảm, hoặc không đủ tư
liệu về chi phí của cuộc chiến tranh năm 1979 chống lại sự xâm lược của Trung Quốc
ở biên giới phía Bắc và với Khơmer đỏ ở biên giới phía Nam. Sau đó là chi phí để
duy trì quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia trong thời gian những năm 80 để ổn
định bộ máy chính quyền mới thành lập sau khi đánh đuổi lực lượng Khơmer đỏ.
Các số liệu về ngân sách được công bố vẫn chưa rõ là đã phản ánh đầy đủ các
phí tổn này hay chưa nhưng đã cho thấy tình trạng thâm hụt rất lớn trong những năm
có chiến tranh này. Cho dù số liệu chưa phản ánh đầy đủ thì thực chất của vấn đề vẫn
không thay đổi, phí tổn này đã chuyển thành gánh nặng lớn lao mà nền kinh tế Việt

Nam phải gánh chịu. Đó là những nguyên nhân từ bên ngoài và Việt Nam không thể
lường trước và cũng không thể dự trù đuợc phí tổn của nó.
b. Kết cấu ngoại thương và việc mất thị trường truyền thống.
Ngoại thương với khu vực đồng Rouble (loại tiền sử dụng ở nga) chiếm đến
70% tổng kim ngạch 2 chiều trong những năm đầu 80, giảm còn 60% trong các năm
86-90, nhưng đột ngột xuống chỉ còn 30% trong 2 năm 90 và 91, đến năm 92 thì
chấm dứt. Đây là cú sốc rất nặng, nó đủ làm sụp đổ cả một nền kinh tế, nói đó lại là
nền kinh tế mới vừa thoát ra khỏi chiến tranh lại gặp phải tình trạng đương đầu với
chiến tranh mới. Bù đắp khoảng trống trên là việc gia tăng xuất khẩu sang khu vực
đồng tiền chuyển đổi với bước tăng đột biến vào năm 1989 nhưng cũng trồi sụt thất
thường trong 2 năm sau đó (đến năm 92 mới lấy lại được mức của năm 90, và từ đó
trở đi ngoại thương VN thực hiện với thị trường các nước thanh toán bằng Dollar).
22
Lạm phát tăng cao trong các năm này có phần từ thâm hụt thương mại và thiếu
hụt hàng hóa do kết cấu trao đổi ngoại thương không hợp lý.
Ngoại thương của Việt Nam sau năm 1975 được thực hiện với cả 2 khu vực thị
trường: khu vực đồng Rouble và với khu vực đồng tiền chuyển đổi (USD).
Với khu vực đồng Rouble thực hiện theo Hiệp định giữa các chính phủ, cụ thể
bằng các Nghị định thư hàng năm. Với cơ chế kế hoạch, hàng hóa nhập khẩu được
đưa vào danh mục để ký kết mà đa phần trong đó là vật tư, nhiên liệu. Hàng hóa cho
tiêu dùng ít được quan tâm và thiếu cơ chế linh hoạt để bổ sung. Nhập siêu với khu
vực này thì lớn nhưng thiếu hụt hàng hóa cho tiêu dùng vẫn rất nghiêm trọng.
Các hoạt động buôn bán với khu vực đồng tiền chuyển đổi hầu hết do các công
ty ở miền Nam thực hiện với các thị trường gần (Hồng Kông, Singapore, Đài Loan,
Nhật…), phương thức thanh toán chủ yếu là hàng đổi hàng (barter), nhập hàng trước
xuất hàng trả nợ sau.
Bối cảnh ra đời của phương thức này là tình trạng thương mại của Việt Nam
lúc đó: yếu kém của hệ thống ngân hàng, lệnh cấm vận của Mỹ, các công ty xuất
khẩu cũng không vay được vốn từ ngân hàng nên cần phải có lượng hàng hóa ứng
trước để trao đổi lấy hàng nông sản xuất khẩu.

Vào lúc đầu các họat động xuất nhập khẩu chỉ thực hiện ở Tp. Hồ Chí Minh,
sau đó mở rộng dần với các tỉnh. Khi buôn bán mở rộng thì thương nhân một số nước
như Pháp, Đức, Hàn Quốc… thấy tiềm năng thị trường họ cũng nhập cuộc làm cho
ngoại thương với khu vực đồng tiền chuyển đổi gia tăng rất mạnh. Xuất khẩu ở khu
vực này tăng trung bình 38% năm trong các năm 86-90 (81-85 là 19% năm). Vào lúc
này việc đổi hàng trực tiếp ít đi, thay vào đó thanh tóan qua bảo lãnh của ngân hàng.
Do hạn chế tín dụng các công ty ngọai thương trong nước vẫn dựa chủ yếu vào hàng
hóa nhập khẩu ứng trước (với bảo lãnh của Ngân hàng), xuất khẩu thu được tiền sẽ
trả nợ sau.
Hàng tiêu dùng nhập về được bán ra thị trường lấy tiền mua hàng xuất khẩu trả
nợ, vật tư thì giao cho nhà máy sản xuất, lấy hàng từ nhà máy đổi lại với nông sản để
23
xuất khẩu trả nợ. Với phân bón, xăng dầu thì hợp đồng giao nông dân sau đó thu lại
lúa, xay thành gạo xuất khẩu trả nợ. Đó là cách làm trong tình thế khan hiếm tiền
mặt, khan hiếm hàng hóa và trong bối cảnh bị cấm vận, lạm phát hoành hành nhưng
lại đầy rủi ro khi có một mắc khâu nào đó trong chuỗi bị ách tắc, nhất là khi các ưu
tiên trong chính sách thay đổi. Và điều này đã xảy ra!
Vào các năm cuối của giai đoạn lạm phát, đà trượt giá bị chận lại, diễn biến tỉ
giá hết sức phức tạp: lúc tăng lên rất cao, lúc giảm xuống cũng rất đột ngột. Hàng
loạt công ty bị phá sản. Đầu tiên là các công ty cấp huyện, các công ty ở cấp xã, các
hợp tác xã ở xã bị lỗ, mất khả năng thanh toán bị thưa kiện, nhiều vị giám đốc bị đi
tù. Không có cơ chế phá sản các khoản nợ chuyển dần lên vai các công ty đang còn
hoạt động nên tình hình tài chính của hầu hết các công ty ngoại thương hết sức bê
bối.
Năm 1992, nền kinh tế bước vào chu kỳ phục hồi, nhưng năng lực hoạt động
của các công ty thì bị suy yếu bởi tình trạng nợ nần trói buộc. Công nợ chồng chéo,
quấn chân nhau, Chính phủ ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo thanh toán công nợ
quốc gia. Đây là một sáng kiến để giải quyết việc hết sức đặc thù: Chính phủ xử lý
nợ của các DN. Sau nhiều năm làm sổ sách đối chiếu, cuối cùng thì thanh toán bù trừ
được thực hiện. Công ty nào bị nợ nần thì cuối cùng cũng bị suy yếu, không thể

gượng dậy được. Chỉ trừ các công ty nhà nước độc quyền, không thiếu vốn thì tổn
thương ở mức thấp, sau đó được nhà nước tái cấp vốn để cấu trúc lại thì trụ được và
đi lên. Sự khát vốn ở giai đoạn điều chỉnh từ lạm phát cao sang ổn định rất lớn nhưng
lãi suất ngân hàng lúc đó cũng rất cao. Hàng loạt công ty đổ vỡ, lao động làm việc từ
khu vực kinh tế nhà nước được cho nghỉ, một phần trong số đó chuyển sang khu vực
ngoài quốc doanh. Đó cũng là các năm tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước từ hơn
12 nghìn doanh nghiệp (1989) giảm còn 6 nghìn (1994).
Hậu quả của tan vỡ thị trường truyền thống chiếm đến 70% khối lượng mua
bán có nguy cơ gây ra cuộc đổ vỡ của toàn bộ nền kinh tế nhưng cuối cùng nó được
giải quyết bằng chính thị trường mà trước đó nó không được ưu đãi, bị rất nhiều rào
cản từ bên trong (các qui định về tỉ giá, cho vay, hợp đồng giao hàng, pháp nhân
24
được quyền kinh doanh ngoại thương, mặt hàng không cho xuất, hoặc hạn chế xuất
khẩu…) lẫn bên ngoài (cấm vận của Mỹ…).
Trong khó khăn đã nảy sinh những cách làm mới và cơ chế mới hình thành.
Chính cơ chế mới phù hợp đã đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn và trải nghiệm bài
học đầu tiên về lạm phát.
1.2. Chỉ số hàng tiêu dùng từ 1993 đến 2008.
a.Từ lạm phát thấp đến giảm phát.
Đây là khoảng thời gian dài lạm phát từ chỗ bị khống chế trong các năm đầu
đến giảm trong các năm cuối thập niên 90. Ban đầu là tình trạng giảm chỉ số giá trong
một số tháng trong năm (các năm 93, 95) đến giảm liên tục nhiều tháng trong năm
(97, 99, 2000). Vào nửa giai đoạn đầu thập niên 90 (từ 92-96), tăng trưởng của nền
kinh tế rất cao (bình quân gần 9% năm), lạm phát thấp. Năm 1993 CPI chỉ tăng 5,2%
và xuất hiện chỉ số giá âm 6 lần trong năm (tháng 3, 4, tháng 6, 7 và tháng 9, 10), tốc
độ tăng GDP năm này là 8,1%. Các năm cuối của giai đoạn trên (97-2001) lạm phát
thấp, tăng trưởng kinh tế cũng thấp. Năm 1997, lạm phát ở mức 3,6% là tỉ lệ thấp
nhất từ sau năm 1975, tăng trưởng kinh tế chậm hơn so năm trước (8,1%), cũng từ
năm này tăng trưởng kinh tế bị chậm lại kéo dài cho đến năm 2001.
b.Giảm phát và suy thoái.

Sau 2 năm chỉ số giá thấp (96 và 97), năm 98 CPI tăng lên 9,2% nhưng tăng
trưởng kinh tế chỉ còn 5,8%. Dấu hiệu của giảm phát và suy thoái càng lúc càng rõ
ràng hơn. Trong 8 tháng, từ tháng 3 đến tháng 10 năm 99 CPI đều âm và kết cục chỉ
số giá cả năm tăng 0,1%, tăng trưởng kinh tế chỉ còn 4,8% thấp nhất kể từ 1990. Năm
2000, CPI âm (-0,6%), năm 2001 chỉ tăng 0,8%. Giảm phát đã gây những tác động
xấu đến tình hình phát triển kinh tế kéo dài từ 1998 cho đến 2001. Đó cũng là lần đầu
tiên trong lịch sử kinh tế của Việt Nam nhận biết được giảm phát với những tác động
và ảnh hưởng của nó.
Hình 2: Lạm phát và tăng trưởng kinh tế từ 1992 đến 2001
25

×