Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

ĐOẠN 1 14 câu đầu bài Tây TIẾN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.26 KB, 2 trang )

TÂY TIẾN ĐOẠN 1
* Hai câu đầu khái quát cảm xúc bao trùm của cả bài thơ là nỗi nhớ. Những câu thơ mang nỗi bâng khuâng hoài niệm để gợi về những gì thân thuộc
đáng nhớ nơi tâm tưởng nhà thơ. Nhà thơ cất lên tiếng gọi Tây Tiến đầy thiết tha, thức dậy bao kỉ niệm:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
- Theo tiếng gọi ấy tất cả hiện về trong nỗi nhớ da diết về đồng đội, nhớ rừng núi, nhớ hình ảnh con sơng Mã chạy suốt theo các chặng hành trình, chứng
kiến mọi buồn vui, mất mát, hi sinh. Tây Tiến là một thời đã qua, đã “xa rồi” trong cả khơng gian lẫn thời gian, giờ chỉ cịn lại kỉ niệm. Hai câu thơ trên đã
đưa tác giả và người đọc từ thực tại trở về quá khứ để sống trọn vẹn cùng Tây Tiến.
- Quang Dũng gọi tên “Sơng Mã” ngay từ những dịng thơ đầu vì trên qng đường hành qn, dịng sơng ấy khơng chỉ là một địa danh trên bản đồ địa lí mà
dịng sông ấy giống như chứng nhân lịch sử đã chứng kiến biết bao đau thương, gian khó, vui buồn của người lính chiến trong suốt cuộc trường chinh. Thế
nên trong nỗi nhớ của Quang Dũng, trước hết là nhớ về binh đồn Tây Tiến thân u, sau là dịng sơng Mã đầy kỷ niệm.
- Khơng chỉ có như vậy, trong ấn tượng, trong nỗi nhớ của nhà thơ cịn có hình ảnh của “rừng núi” gắn với nỗi nhớ “chơi vơi”. Bởi với người lính xuất thân
từ phố thị thì hình ảnh rừng núi đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng họ. Quang Dũng hai lần nhắc chữ “nhớ”, nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ đang khắc
khoải trong tâm hồn. Đặc biệt “nhớ chơi vơi” lại là một cách diễn tả nỗi nhớ rất riêng của Quang Dũng.
+ Điệp từ “nhớ” cùng từ láy “chơi vơi” hồn thơ Quang Dũng đang đắm chìm trong biển nhớ miên man, không bờ bến.
+ Cách hiệp vần “ơi” làm cho câu thơ ngân dài, tạo độ ngân vang về nỗi nhớ. Đó là cảm giác hụt hẫng, chơng chênh trong một nỗi hồi niệm xa xơi, bởi
Tây Bắc đã xa lắm rồi, một Tây Bắc đầy sương mù, mây vờn quanh núi chơi vơi, hoang vắng, nhưng lắm oai hùng.
=> Như vậy, qua cách thể hiện nỗi nhớ trong hai câu thơ đầu, Quang Dũng đã thể hiện tình yêu, sự gắn bó của mình đối với thiên nhiên Tây Bắc và đồng
đội.
* Nếu như hai câu thơ đầu khái quát cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ thì ở mười hai câu thơ tiếp, nỗi nhớ ấy đã được nhà thơ khắc sâu qua
những kỷ niệm cụ thể đầy ấn tượng.
- Đầu tiên là nỗi nhớ về Sài Khao, Mường Lát trong hai câu thơ:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
+ Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát đã gợi nhắc về những địa bàn hành quân của đoàn quân Tây Tiến, từ đó kéo ra các khơng gian rộng lớn khác xuyên suốt
cả bài thơ như Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu.
+ Những tên đất lạ lẫm: Pha Luông, Mai Châu, Mường Hịch, Châu Mộc gợi vùng đất xa xôi, hoang vu, hẻo lánh, chốn rừng thiêng nước độc.
+ Ấn tượng đầu tiên hiện ra trong nỗi nhớ của người lính Tây Tiến là Sài Khao sương núi mịt mù. Theo lời thơ, một hành trình gian khổ nhọc nhằn, đầy thử
thách với con người dần dần hiện ra. Thời tiết khắc nghiệt, sương mù che khuất đường đi, lấp dáng người đi trong mờ mịt. Đoàn quân hành quân trong
sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi. Con người trở nên hết sức bé nhỏ giữa biển sương dày đặc mênh mông ấy.
+ Tuy nhiên giữa mịt mù sương lạnh, người lính Tây Tiến vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và nên thơ qua cách nói “hoa về trong đêm hơi”, khiến


sương khói trở nên huyền ảo, lãng mạn.
=> Ở hai câu thơ này, thiên nhiên được tái hiện trong nỗi nhớ của tác giả bằng những hình ảnh thơ đẹp vừa mang yếu tố hiện thực vừa có sự lãng mạn bay
bổng.
- Nhớ chặng đường hành quân trên nền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ với nhiều đèo dốc hiểm trở
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
+ Điệp từ “dốc” gợi lên cảnh những con dốc nối tiếp nhau, hết dốc này lại tới dốc khác, chẳng biết bao giờ mới hết.
+ Từ láy tượng hình “khúc khuỷu” đã miêu tả không gian hiểm trở, quanh co, gập ghềnh của đường lên. Còn từ láy “thăm thẳm” gợi ấn tượng về độ sâu,
cảm giác như đường xuống hút tầm mắt người, không biết đâu là giới hạn cuối cùng. Như vậy, những từ láy giàu sức tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”
được đặt liên tiếp nhau để đặc tả đặc điểm của cung đường. Cả câu thơ tái hiện một không gian hành quân vừa cao lại vừa sâu và người lính đang phải nỗ
lực hết sức mình để vượt qua những chặng đường đầy gian khó.
+ Khơng chỉ miêu tả trực tiếp, tác giả còn gián tiếp tả độ cao của núi qua nghệ thuật nhân hóa kết hợp với từ từ láy trong câu: “Heo hút cồn mây, súng ngửi
trời”. Dốc dựng đứng giữa trời, khi chinh phục được, người lính tưởng chừng như đang bồng bềnh đứng giữa biển mây, độ cao của bầu trời chỉ còn trong
tầm mũi súng.
+ Vẫn tiếp tục khắc họa cung đường hành quân, câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” mang lại cho người đọc ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên
nhiên. Điệp ngữ “ngàn thước” kết hợp với nghệ thuật tương phản hai chiều lên xuống “lên cao - xuống” càng nhấn mạnh độ cao chót vót của đỉnh núi và
độ sâu thăm thẳm của dốc.
+ Cách ngắt nhịp 4/3 trong câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” khiến cho câu thơ như bị bẻ đơi để tạo hình độ cao dựng đứng giữa hai triền
dốc núi của vô vàn con dốc trên chặng đường hành qn Tây Tiến.
+ Bên cạnh đó, trong ba dịng thơ liên tiếp tác giả đã sử dụng nhiều thanh trắc góp phần thể hiện sự vất vả nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên
con đường hành quân. Lời thơ làm nổi bật được tính chất hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. Nhưng dẫu thiên nhiên có hùng vĩ, trùng điệp, khúc khuỷu
đến mấy thì bước chân của binh đoàn Tây Tiến cũng đã chinh phục được những cung đường đầy hiểm trở này.
+ Liên hệ: Những câu thơ ở đây gợi người đọc nhớ tới bài “Đèo Cả” viết năm 1946 của Hữu Loan: “Đèo Cả!/ Đèo Cả!/ Núi cao ngút!/ Mây trời Ai Lao/ Sầu
đại dương/ Dặm về heo hút/ Đá Bia mù sương”.
=> Điểm chung của những câu thơ trên đều xuất phát từ cảm hứng cực tả cái dữ dội thử thách trên trên con đường hành quân mà bao người lính đã trải
qua trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Thiên nhiên Tây Bắc còn được khám phá ở phương diện thời gian với nhiều vẻ bí ẩn, hoang dại, khắc nghiệt . Thử thách với con người đâu phải chỉ ở
núi cao dốc sâu, mà còn ở sự hoang vu, khắc nghiệt của rừng thẳm:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người ”
+ Cái dữ dội của thiên nhiên được đẩy cao cực độ hiện ra trong âm thanh “ gầm thét” mạnh mẽ của thác dữ. Quang Dũng thật tài tình khi đưa địa danh

Mường Hịch vào trong thơ. Đây không chỉ là một địa điểm cụ thể nơi đặt sở chỉ huy của mặt trận Tây Tiến mà còn là một nơi nhiều cọp dữ đầy ám ảnh với
người lính. Tiếng gầm của rừng núi và tiếng gầm của chúa sơn lâm cùng lúc chứng tỏ oai linh tuyệt đối của thiên nhiên hoang dại. Tất cả bề cao, bề sâu, bề
rộng, sự kì bí, hoang sơ của địa hình Tây Tiến đã được chạm khắc bởi những nét vẽ gân guốc, mạnh mẽ, khoẻ khoắn.
+ Liên hệ: Sau này, cái cảm giác trong Tây Tiến vẫn hiện về khi ta đọc trường ca “Từ đêm mười chín” của Khương Hữu Dụng viết trong kháng chiến chống
Mĩ:
“Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh
Đây ầm ầm đổ thác không tên


Có suối chân hùm vừa để dấu
Có luồng cây vút tuyệt đường chim”
⇒ Qua những câu thơ trên, người đọc có thể cảm nhận cảnh núi rừng miền Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa
rừng, sương núi, thác gầm và cọp dữ.
- Nếu như những câu thơ trên tái hiện không gian Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội thì đến đến câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” mở ra một không
gian thơ mộng và êm ả của mưa giăng đầy thung lũng.
+ Đang từ những thanh trắc liên tiếp trong ba câu nói về thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Thì đột ngột xuất hiện một câu thơ tồn thanh bằng “Nhà ai Pha Lng mưa xa khơi” tạo cảm giác nhẹ nhàng, bay bổng, thư thái như chưa từng có cuộc
vượt dốc đèo nào thực sự đã trải qua.
+ Người lính Tây Tiến dường như quên hết những mệt mỏi gian khổ, phóng tầm mắt ra xa. Trong màn mưa phủ kín đất trời một vài ngơi nhà nhỏ ẩn hiện
thấp thống bồng bềnh. Người lính từ trên đỉnh núi cao thấy những cảnh vật mơ hồ không sắc nét trong làn “mưa xa khơi” trắng xóa.
=> Đó là nét đẹp lãng mạn của núi rừng Tây Bắc, đồng thời cũng mang đến trong tâm hồn người lính những cảm giác n bình, về một chốn dừng chân, để
tiếp thêm động lực cho những chặng đường trước mắt.
- Hình ảnh người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân:
+ Trong cuộc hành quân gian nan người lính khơng thể tránh được sự mệt mỏi, nhưng thấp thống trong đoạn thơ cịn có thấy vẻ đẹp tâm hồn của họ nữa.
Dốc cứ dốc, đèo cứ đèo, dốc hun hút, thăm thẳm thử thách ý chí nghị lực con người. Nhưng chinh phục được đỉnh núi rồi người lính lại có một phát hiện
rất đặc biệt về độ cao “súng ngửi trời”. Từ “ngửi” là cách nói nhân hóa đầy dí dỏm tinh nghịch của lính tráng. Nó khơng chỉ cho thấy sự hồn nhiên, u đời
của lính Tây Tiến mà cịn gợi ra tư thế khỏe khoắn của con người trước thiên nhiên.

+ Và trên chặng đường hành quân ấy dù với cái nhìn lãng mạn, tinh nghịch thì người lính Tây Tiến khơng thể tránh được sự thật đã có những người đồng
đội đã khơng thể trở về:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Khi nói về cuộc chiến tranh khốc liệt ấy, tác giả đã không né tránh hiện thực về những mất mát đau thương trong cuộc chiến. Hai chữ “dãi dầu” đã gói ghém
trong đó biết bao những khó khăn gian khổ mà người lính Tây Tiến đã trải qua. Trong cuộc hành quân gian khổ đã có những người ngã xuống vì kiệt sức.
Viết về cái chết, Quang Dũng đã dùng cách nói giảm, nói tránh"bỏ quên đời". Đó là những cái chết vừa xót xa "không bước nữa", “gục lên súng mũ” lại vừa
ngang tàng, kiêu hãnh "bỏ qn đời". Người lính thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, chết trong sự hiên ngang, bất khuất. Vì vậy,
nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng những câu thơ của Quang Dũng không không gợi cảm giác bi luỵ.
- Nhớ kỉ niệm về tình qn dân thắm thiết:
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi”.
+ "Nhớ ơi" là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lịng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ đậm đà tình quân dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy
chung giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc. Họ dừng chân nơi bản làng sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp,
niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm mùi gạo mới.
+ Nhớ mùi thơm "nếp xôi" là nhớ hương vị của núi rừng Tây Bắc, của tình người thân yêu da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những
con người miền Tây Bắc của Tổ quốc với bộ đội kháng chiến.
+ Liên hệ: Cũng nói về hương nếp, hương xơi, về tình quân dân, sau này Chế Lan Viên cũng đã viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:
Đất Tây Bắc tháng ngày khơng có lịch
Bữa xơi đầu cịn tỏa nhớ mùi hương.
Có thể nói, “Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” trong thơ Quang Dũng hay thơ Chế Lan Viên cũng đều là nhớ tình nghĩa, nhớ tấm
lịng cao cả của đồng bào. Tình cảm ấy mãi mãi khơng thể phai mờ trong lịng những người lính thời kì kháng chiến chống Pháp.
=> Như vậy, ấn tượng đọng lại cuối cùng trong kí ức của người lính Tây Tiến sau những chặng đường hành quân không phải là sự dữ dội, hiểm nguy mà là
hương vị và tình người nồng ấm của mảnh đất miền Tây Bắc.
- Về nghệ thuật: Bài thơ Tây Tiến nói chung và đoạn thơ nói riêng là kết tinh tài năng sáng tạo của cây bút Quang Dũng trên nhiều phương diện nghệ thuật:
từ bút pháp, hình ảnh, đến ngơn ngữ, giọng điệu. Ngoài ra, QD sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp thuật: đối lập, nhân hóa, điệp từ, điệp ngữ, liệt kê. Ngôn
ngữ trong đoạn thơ giàu giá trị tạo hình. Hình ảnh thơ đa dạng, xuyên suốt khổ thơ, nhà thơ ln hướng tới những hình ảnh kỳ vĩ “đèo cao”, “vực sâu” “ dốc
thăm thẳm” hay “súng ngửi trời”,…cùng những hình ảnh thơ mộng “nhà ai”, “mưa xa khơi”, hoặc hình ảnh chân thật gần gũi đầy tình người “cơm lên khói”,
“thơm nếp xơi”. Câu thơ giàu nhạc điệu qua việc phối thanh bằng – trắc, cách hiệp vần, giọng thơ linh hoạt.
- Nội dung: Tât cả những hình thức nghệ thuật trên góp phần thể hiện thành công vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc xa xôi, hùng vĩ, dữ dội, khắc nghiệt nhưng

cũng thơ mộng, trữ tình; Đồng thời tác giả cũng làm nổi bật hình ảnh người lính trên chặng đường hành qn tuy có gian khổ, hi sinh, mất mát nhưng tâm
hồn các anh lính vẫn trẻ trung lãng mạn. Qua đó, người đọc cảm nhận được tình cảm gắn bó, tấm lịng u thương của Quang Dũng dành cho thiên nhiên Tây
Bắc và đồng đội của mình.



×