Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

NỘI DUNG TRỌNG TÂM ÔN TẬP KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ II (20222023) Môn: NGỮ VĂN – Khối: 12 KHTN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.96 KB, 17 trang )

Họ và tên: …………………………………
Lớp: ………………………………………

- Lịch thi: 29/4/2022
- Thời gian làm bài: 90 phút

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ 2 – NH 2021-2022
MƠN: NGỮ VĂN 12
Vấn đề số 1:
Tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu.
I. Mở bài
- Nguyễn Minh Châu được mệnh danh là người mở đường tinh anh và tài hoa của nền văn
học Việt Nam giai đoạn đổi mới sau năm 1975.
- Sau năm 1975 ông chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức và triết lý
nhân sinh. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu có sức hấp dẫn riêng biệt, có sự kết hợp hài hịa
chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng nhân vật được soi thấu trong quan hệ
đa chiều, phức tạp và đề cao, tôn vinh những giá trị cuộc sống.
- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn
Minh Châu sau năm 1975. Đây là một tác phẩm hay đậm tính nhân văn, thể hiện một lối tư duy
mới mẻ của nhà văn về cái đẹp và số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn kiếm tìm
hạnh phúc và hồn thiện nhân cách.
- Nguyễn Minh Châu đã thành cơng khi xây dựng được tình huống truyện độc đáo, mang ý
nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống một cách sâu sắc, mới mẻ.
II. Phân tích tình huống truyện
1. Khái qt về tình huống truyện.
Tình huống truyện có thể hiểu là hoàn cảnh, bối cảnh của một câu chuyện mà trong đó có
một hoặc một vài sự kiện đặc biệt xảy ra khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý
tưởng của tác giả được bộc lộ sắc nét nhất.
Tình huống trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngồi xa” là tình huống nhận thức mang ý
nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, thông qua hai bức tranh và câu chuyện của người đàn bà


ở tòa án của huyện. Điểm chung là chúng đều chứa đựng những nghịch lý bất ngờ, từ đó để lại
cho nhiếp ảnh Phùng, cũng như độc giả những nhận thức mới mẻ về mối quan hệ giữa nghệ thuật
và cuộc sống.
2. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”.
2.1. Bối cảnh
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, vị trưởng phịng
khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi
sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển miền
trung từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu,
hiện là chánh án toàn án Huyện. Sau gần một tuần suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định sẽ thu
vào tờ lịch tháng bảy của bộ lịch năm sau cảnh thuyền thu lưới vào lúc bình minh.
2.2. Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng
* Phát hiện 1: Bức tranh nghệ thuật lãng mạn

1


- Cảnh tượng: Buổi sáng hơm ấy, giữa lúc cịn đang lúi húi tránh mưa giữa đống xe xích
hỏng, anh bỗng phát hiện ra một bức tranh tuyệt tác của thiên nhiên, đó hình ảnh một chiếc
thuyền ngồi xa thấp thoáng trong màn sương sớm, lúc ẩn lúc hiện. Cảnh vật hiện lên trước mặt
anh phóng viên Phùng là “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một
nét mơ hồ lòe nhòe ..” bầu sương mù trắng như sữa có pha đơi chút màu hồng hồng do ánh mặt
trời chiếu vào “Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp
đơn giản và tồn bích". Đó là một cảnh đắt như trời cho mà cả cuộc đời bấm máy Phùng chỉ gặp
một lần.
- Cảm xúc và nhận thức: Cảnh tượng ấy đã khiến Phùng bối rối và trong trái tim Phùng
“như có gì bóp thắt vào". Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đã mang lại “khoảnh khắc hạnh
phúc tràn ngập tâm hồn Phùng”.
Trong cái giây phút bối rối, hạnh phúc tuyệt đỉnh ấy Phùng chợt ngộ ra và tâm đắc với điều
mà một ai đó đã nói: “cái đẹp chính là đạo đức”. Bức tranh nghệ thuật lãng mạn ấy chính là cái

đẹp đã giúp gột rửa, thanh lọc tâm hồn, để Phùng "tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân
lí của sự tồn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". Đó là niềm hạnh
phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, anh nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Anh đã
bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào trong ống kính của mình.
* Phát hiện 2: Bức tranh hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã
- Cảnh tượng: Ngay sau đó, khi chiếc thuyền tiến vào tới bờ thì một sự thật trần trụi phơi
bày trước Phùng, một sự thực bi thương. Bước ra từ con thuyền cổ tích khơng phải những cơng
chúa, hồng tử xinh đẹp, lương thiện mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ơng độc ác
và kinh hồng hơn là một màn bạo lực gia đình liên hồn, chồng đánh vợ, con đánh bố rồi bố
đánh con.
+ Người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ “trạc ngồi 40, một thân hình quen
thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt
mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Khơng những
thế tác giả cịn tập trung miêu tả ánh mắt của người đàn bà“Chị đưa mắt nhìn xuống chân” đầy
cam chịu.
+ Người đàn ông với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, đơi mắt độc dữ cùng bước ra từ con
thuyền, từ ánh mắt đến lời nói hành động của lão đều toát lên vẻ độc dữ. Phùng nghe tiếng anh
hàng chài nói chõ lên thuyền như quát "Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tạo giết cả mày đi bây
giờ”. Tiếp theo đó là cảnh anh hàng chài “mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng
của lính ngụy ngày xưa... quật tới tấp vào lưng người đàn bà, hắn vừa đánh vừa thở hồng hộc,
hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ
đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!".
- Tâm trạng của Phùng: Tất cả những sự việc ấy diễn ra làm cho Phùng “kinh ngạc đến
mức, trong mấy phút đầu tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn...". Điều làm cho Phùng càng kinh ngạc
sững sờ hơn khi nhìn cảnh thằng Phác lao vun vút đến chỗ bố nó, giằng lấy cái thắt lưng trong tay
bố nó “liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy
nắng có những đám lơng đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên" của bố nó để bảo vệ
mẹ nó. Rồi lão đàn ơng tát cho thằng con ngã giúi xuống cát và đi về thuyền. Cảnh tượng ấy

2



nhanh chóng biến mất khiến Phùng cảm giác đó chỉ là một câu chuyện cổ quái đản. Và nếu phát
hiện thứ nhất làm Phùng hạnh phúc bao nhiêu thì phát hiện thứ hai làm anh đau đớn bấy nhiêu.
* Ý nghĩa của hai phát hiện
Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng đã giúp người đọc nhận ra:
- Cuộc sống vốn chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngồi, phải và trái, xa và gần…
nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng chứa đầy những mâu thuẫn,
đối lập. Bởi vậy con người không được nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đơn giản, một chiều mà cần
có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để khám phá ra bản chất thật của đời sống.
- Không chỉ vậy hai phát hiện ấy còn giúp ta nhận thức được mối quan hệ giữa hiện thực đời
sống và nghệ thuật. Con thuyền nghệ thuật thì lung linh huyền ảo nhưng ở rất xa, cịn cuộc đời
đơi khi rất nghiệt ngã lại ở rất gần. Người nghệ sĩ chân chính khơng chỉ phải có cái nhìn đa diện
nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật của đời sống mà cịn phải đừng vì nghệ thuật mà qn
cuộc đời. Bởi nghệ thuật chân chính là cuộc đời và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ biết rung động
trước cái đẹp trước hết phải là người biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời.
Cảnh tượng đời sống nghiệt ngã này giúp Nguyễn Minh Châu khẳng định quan niệm nghệ
thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống. Quan điểm này
của NMC rất gần với quan điểm của nhà văn Nam Cao “nghệ thuật không cần phải là ánh trăng
lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp lầm than... (Giăng sáng)".
2.3. Câu chuyện của người đàn bà ở tịa án huyện
Tình huống truyện chưa dừng lại ở đó mà cịn tiếp tục diễn biến ở câu chuyện của người
đàn bà ở tịa án huyện.
* Ngun nhân cuộc gặp gỡ ở tồn án: Những ngày sau đó, Phùng lại chứng kiến cảnh
người đàn bà bị đánh lần thứ hai, anh muốn ngăn cản nên đã lao vào đánh người đàn ông và bị
thương nhẹ. Toà án đã gọi người đàn bà đến. Chánh án Đẩu và Phùng có khuyên người phụ nữ ấy
nên ly hôn, tuy nhiên người phụ nữ ấy đã từ chối và xin Đẩu bắt bà bỏ tù cũng được nhưng đừng
bắt bà phải bỏ chồng. Rồi người đàn bà kể về cuộc đời mình, về những khó khăn vất vả trong
cuộc sống, mặc dù khó khăn đau đớn thế chị vẫn nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu kia. Vì

chị biết, chính cuộc sống nghèo khổ đã khiến chồng chị trở thành như vậy và chị cần người đàn
ông này để chèo chống những khi phong ba, để cùng nuôi đàn con thơ.
* Ý nghĩa của câu chuyện: Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án giúp ta hiểu ngun nhân
vì sao chị khơng li hơn. Người đàn ấy đã nhìn thấu suốt cả cuộc đời mình, những điều mà Đẩu và
cả Phùng chưa bao giờ nhìn thấy được: “lịng chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm
ăn...cho nên các chú đâu có thể hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”, “
là bởi các chú khơng phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của
người đàn bà trên một chiếc thuyền khơng có đàn ơng...", “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống
cho con chứ không phải sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự
lạc hậu. Các chú đừng bắt tơi bỏ nó!”. Theo chị, chị khơng li hơn vì thương con nên cần một
người đàn ông để cùng chèo chống sóng gió phong ba, để ni nấng đàn con trên dưới 10 đứa.

3


Hơn nữa cịn vì chị hiểu bản chất của lão đàn ông. Người đàn ông vốn không phải kẻ vũ phu, độc
ác mà chi là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Vả lại “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái
vui vẻ, hòa thuận”.
Câu chuyện ấy giúp ta hiểu về người đàn bà xấu xí, số phận bất hạnh mà có bao nhiêu phẩm
chất tốt đẹp, lão đàn ông độc ác vừa là tội nhân vừa là nạn nhân, những đứa trẻ dù cách ứng xử
khác nhau nhưng đều có tình u thương mẹ dạt dào. Và hơn cả giúp Phùng và Đẩu nhận ra sự
non nớt, chưa từng trải cuộc đời của mình. Những lời lẽ của người đàn bà khiến "Một cái gì mới
vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện miền biển". Đẩu chợt nhận ra rằng lịng tốt
của anh hóa ra phi thực tế. Anh bảo vệ luật pháp bằng sự thông hiểu sách vở nhưng trước thực tế
đa dạng, muôn nỗi, anh trở thành kẻ ngây thơ.
Câu chuyện của người đàn bà đã giúp Phùng và Đẩu một lần nữa nhận thức sâu hơn về cuộc
đời rằng cuộc sống mưu sinh có thể làm người hiền lành trở nên thơ bạo, đằng sau vẻ xấu xí kia
thì người đàn bà lại nhân hậu, vị tha, hiểu đời …Đẩu nhận ra những nghịch lí của việc người vợ
tốt bị hành hạ nhưng vẫn nhất quyết không bỏ chồng, nhận ra cuộc đời vốn là bức tranh nhiều
màu sắc, nhiều nghịch lý mà khi nhìn vẻ bề ngồi khó lịng mà đánh giá. Để từ đây, Đẩu có thể đã

bắt đầu hiểu ra rằng muốn con người thoát ra khỏi cảnh đau khổ, tăm tối, man rợ cần phải có
những giải pháp thiết thực chứ khơng phải chỉ là lịng tốt, thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ
nhưng xa rời thực tế.
III. Kết luận
Tóm lại, trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo nên
một tình huống truyện khá độc đáo. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc kết hợp với
cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật khắc họa nhân vật sắc sảo, điểm nhìn trần thuật linh hoạt, ... khiến
người đọc nhận ra nhiều điều về cuộc sống và mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật.
-Tình huống truyện giúp ta hiểu rõ hơn về các nhân vật, làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn
và chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:
+ Giá trị hiện thực: Sau khi đất nước hịa bình thống nhất, cuộc sống đã tốt đẹp hơn rất
nhiều nhưng đâu đó vẫn cịn những khoảng tối hoặc tranh sáng tranh tối. Cuộc sống đói nghèo lạc
hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của
cả dân tộc trải qua bao hy sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con
người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của các cấp chính quyền và cộng đồng.
+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục
của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác
vẫn cịn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao
động.
Vấn đề 2:
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài
xa” của Nguyễn Minh Châu.

I. Mở bài

4


Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Sự yêu thương dành cho
những người phụ nữ sâu sắc bao nhiêu thì trước nỗi đau thân phận của họ những trang viết lại

càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ chảy trong
tim những nghệ sĩ đến với những Thị Nở, những cô vợ nhặt…và trở nên đầy ám ảnh trong “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng thành cơng hình
tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và
sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại
cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quí của
người phụ nữ Việt Nam.
II. Thân bài
1. Giới thiệu truyện.
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời sau 1975, trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi
mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn.
Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng” trong nền văn học
nước nhà sau 1975. Là nhà văn luôn đi tìm tịi, khám phá con người ở chiều sâu nội tâm nên
những tác phẩm của ông như những văn bản tự sự cỡ nhỏ. Nhà văn có thể chỉ “Cắt lấy một lát”,
“cưa lấy một khúc” và “chớp lấy một khoảnh khắc” để phản ánh bi kịch của cả một đời người và
đưa ra triết lí nhân sinh.
Sau năm 1975, nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu là con người bình thường
trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn để tìm kiếm hạnh phúc. Vẻ đẹp của họ lẩn khuất giữa muôn vàn
cát bụi thô nhám của cuộc đời sóng gió. Nhân vật người đàn bà trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” tiêu biểu cho kiểu nhân vật của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

2. Tình huống nhân vật xuất hiện
Nhân vật người đàn bà xuất hiện trong tình huống truyện độc đáo. Truyện được kể lại qua
lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau
thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo
lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một khơng
hai, đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người
nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự tồn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc
thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng. Người đàn bà xuất hiện trong bức
tranh đời sống đầy nghiệt ngã. Qua cái nhìn của nghệ sĩ Phùng và câu chuyện của chị ở tòa án ta

hiểu rõ về nhân vật.
3. Những nét chính về người đàn bà hàng chài.
3.1. Cái tên của nhân vật

5


Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã
gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị
ta....như một sự xóa mờ nhằm tơ đậm thêm số phận của chị. Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa
án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh
Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ
đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở
vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ
như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một
thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng không phải quá phổ biến
nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời. Nhân vật người đàn bà hàng chài ít nhiều cũng
làm ta nhớ đến nhân vật người đàn bà trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, đều là những
người phụ nữ bất hạnh mà có đầy phẩm chất tốt đẹp.
3.2. Ngoại hình của người đàn bà
Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về ngoại hình người đàn bà hàng chài
có thân hình xấu xí tàn tạ “trạc ngồi 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển,
cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng
kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ
làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch. Không những thế tác giả còn tập trung miêu tả
ánh mắt của người đàn bà: “Chị đưa mắt nhìn xuống chân,…nhìn ra ngồi bờ phá”. Cách miêu
tả của nhà văn không chỉ cho thấy sự tủi cực, vất vả của người phụ nữ ấy mà còn hé mở những bi
kịch về tinh thần của chị.
3.3. Số phận và cuộc đời bất hạnh
Người đàn bà bất hạnh ấy khơng chỉ phải chịu thiệt thịi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại

mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải
thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con
phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh đã vậy chị lại cịn có khn
mặt rỗ là hậu quả của trận dịch đậu mùa nên không ai thèm để ý, suốt từ khi cịn nhỏ. Rồi chị có
mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới và thành vợ chồng.
Cứ ngỡ có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm. Nhưng cuộc sống mưu
sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại cịn đơng con, thuyền thì
chật,... Nghèo khổ đến mức có khi cả tháng trời chỉ ăn xương rồng chấm muối, cả gia đình trên
dưới 10 người ở trên thuyền chật chội, thức trắng kéo lưới. Chị bị chồng thường xuyên đánh đập,
hành hạ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là
lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc "Mày chết đi
cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một
cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số
phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được
tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.

6


Ngồi nỗi đau về thể xác, người đàn bà cịn phải chịu nỗi đau về tinh thần. Những giọt nước
mắt và hành động vái lạy thằng Phác ở bãi biển đã hé lộ nỗi đau tinh thần của chị. Thật đau đớn
biết bao khi người mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh
đó. Nhưng chính thằng Phác lại tận mắt chứng kiến cảnh bố nó đánh đập mẹ nó thậm tệ. Một tình
mẫu tử đã trỗi dậy, theo bản năng của một đứa trẻ con cịn suy nghĩ nơng cạn nó lao nhanh như
mũi tên bắn vào chống trả quyết liệt. Thậm chí nó cịn định lấy dao đâm bố. Bởi nó đã hứa với
lịng mình chừng nào nó cịn ở đây thì sẽ khơng để mẹ nó bị đánh. Ta vừa cảm thương và vừa tủi
giận trức hành động rất con trẻ của thằng Phác. Và thật bất ngờ khi người mẹ phản ứng trước
cách thằng Phác thương mình. Khi gã chồng tát cho thằng con một cái ngã dúi dụi xuống cát và
bỏ đi thì lúc này lịng thương con mới trỗi dậy. “Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy
đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Để rồi miệng bà mếu máo gọi, “người

đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ơm chầm lấy nó rồi lại bng ra, chắp tay vái lấy vái
để, rồi lại ôm chầm lấy”. Có một nghịch lí trong cách hành xử của người đàn bà. Tại sao khi bị
gã đàn ông đánh chửi vũ phu, tàn bạo bà không xấu hổ, tủi nhục mà khi chứng kiến cảnh con
đánh trả bố bà lại đau đớn đến vậy?. Có lẽ việc những đứa con vẫn phải chứng kiến cảnh mẹ bị
đánh khiến người đàn bà cảm thấy xấu hổ, nhục nhã và đau đớn. Liệu thằng Phác nhìn thấy cảnh
này tâm hồn của một đứa trẻ sẽ ra sao? Nó nghĩ gì về bố và mẹ nó? Sau này lớn lên liệu có giống
tính bố nó khơng? Bà đã cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui
và đặc biệt để tâm hồn chúng khơng bị lắng những cặn bẩn của cuộc sống để vẩn đục tâm hồn.
Nhưng giờ đây bà bất lực. Bởi vậy, khi nhìn thằng Phác chẳng hề hé răng thì bà như có cảm giác
“như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà làm
rỏ xuống những dòng nước mắt”.
3.4. Những phẩm chất đáng quý của người đàn bà
* Sự nhẫn nhục, chịu đựng
- Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu bao đắng cay tủi phận của cuộc đời nhưng chị lại
có một phẩm chất đáng quý. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hồn cảnh. Bị chồng thường
xuyên đánh đập một cách tàn độc nhưng khi bị đánh, chị không hề xin, không chống trả, không
chạy trốn, cam chịu đứng im cho chồng đánh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất
quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, và khơng hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ
người chồng vũ phu của mình. Ánh mắt nhìn xuống khi bị đánh càng tô đậm thêm sự nhẫn nhục,
cam chịu của người đàn bà. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thơng, chia sẻ thậm chí là
trân trọng. Bởi cách xử sự của người đàn bà là khơng thể khác được vì chị là một con người sống
đầy trách nhiệm.
* Tình mẫu tử bao la.
Mặc dù phải chịu khổ cực, nhưng người phụ nữ ấy quyết cam chịu tất cả, làm tất cả vì
những đứa con thân yêu của mình. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả
những gì có trên cuộc đời này của mình. Khi tịa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa
là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị
đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng

7



đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng
ni những đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy
sống kiếp cam chịu. Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để
người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình như ở trên đất liền được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để
đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc.
Chị muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, khơng để các con bị tổn thương. Cũng giống như bà
cụ Tứ quay mặt đi giấu những giọt nước mắt vào sâu trong lịng cho riêng mình để Tràng và thị
được hưởng chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc sống mưu sinh khi cái đói cái chết cận kề. Tình
u thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất
ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn
đầy xót xa. Nên ai đó có ví cơng lao của người mẹ như biển Thái Bình thì ta thiết nghĩ cũng thật
dễ hiểu.
* Lòng bao dung, độ lượng.
Sau tất cả những nỗi đau mà người chồng đã gây ra cho bà, bà vẫn có một tấm lịng bao
dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu,
thơ bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng
hiền lành lắm, khơng bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng khơng
ốn trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc.
Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều
khi khơng phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà cịn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân
khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói,
ít học vì cuộc sống mưu sinh. Thậm chí bà cịn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên
nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ bởi bà nghĩ: lũ đàn bà trên thuyền đẻ nhiều
quá, nhà nào cũng một đặng trên dưới chục đứa con. Ta cứ hình dung một người đàn bà khoảng
40 tuổi mà có 10 đứa con thì ắt hẳn người đàn bà ấy sẽ khơng thể làm việc nào nhiều ngồi ăn và
đẻ. Chính vì vậy công cuộc mưu sinh như dồn hết lên đôi vai của người dàn ơng. Chính vì thế bà
nghĩ mình là căn nguyên nỗi khổ và sự tha hóa của người chồng vốn hiền lành nhưng hơi cục tính

xưa kia. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.
Cũng có lẽ vì thế mà chị ln bảo vệ chồng trước những đứa con và khi nói chuyện với Phùng và
Đẩu.
* Sự trải đời, hiểu đời.
Nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới
khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất
thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Đó là phẩm chất phi thường khơng phải ai cũng có được. Sự trải đời
ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngồi thơ kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động
tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ
khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn
bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo khơng ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ
riêng của một con người từng trải. Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều. Bà

8


hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo.
Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một
chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi
cần phải có người đàn ơng để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người
đàn ơng để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên
chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi
khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã
tơn vinh người đàn bà với vẻ ngồi xấu xí, thơ kệch.
* Nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường.
Cuộc sống của người đàn bà ấy có đau khổ thì nhiều mà hạnh phúc thì quá hiếm hoi. Vì
vậy bà rất nâng niu những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hồ thuận. Vì cái
hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn những nỗi đau cả thể xác
lẫn tinh thần. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được ăn no”.
Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho

chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng
đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”Nụ cười được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với địn roi . Đó là triết
lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn
giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.
*Nghệ thuật miêu tả nhân vật.
Tác giả đã dùng biện pháp đối lập giữa hồn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn,
của người phụ nữa ấy để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca. Qua
cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống:
nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái,
nghịch lý của cuộc sống.
Trong tác phẩm tác giả còn xây dựng một nhân vật nữ như bóng ảnh của người đàn bà đó
chính là chị gái lớn của thằng Phác. Cô gái ấy không xuất hiện nhiều trong tác phẩm nhưng cũng
để lại những suy tư và ám ảnh. Nếu thằng Phác là bóng ảnh của gã đàn ơng thì cơ gái ấy là bóng
ảnh của người đàn bà. Trong khi thằng Phác nông nổi thương mẹ bằng cách chống trả bố mình
một cách quyết liệt. Thì cơ chị gái thể hiện sự trưởng thành và chín chắn của mình. Nó đã kịp
ngăn cản thằng em, khơng cho em làm việc dại dột và kịp lấy con dao ra khỏi tay thằng Phác. Đó
là suy nghĩ của một cơ gái đã trưởng thành và nhận thức. Đặc biệt cô chị còn là chỗ dựa tinh thần
vững chắc cho người đàn bà, bởi cô ấy gần gũi và bên mẹ một cách âm thầm, lặng lẽ không ồn ào
như thằng Phác. Đó là cách biểu hiện tình u thương của một cơ con gái. Hơm người mẹ đi lên
tịa án huyện cô con gái đã đi cùng. Cô lặng lẽ ngồi bên ngồi đợi mẹ với chiếc áo tím. Khi người
mẹ đưa ánh mắt mệt mỏi nhìn ra ngồi bờ phá cũng là lúc bà bấu víu vào hình ảnh cơ con gái
thân thương của mình với chiếc áo tím ngồi đợi bà trên chiếc thuyền thúng. Chỉ với hai chi tiết
nhỏ nhưng người đọc có thể tìm thấy những nét tương đồng ở cô thiếu nữ trẻ này với người đàn
bà hàng chài mà cô gọi là mẹ kia. Liệu sau này lớn lên cơ có trở thành người phụ nữ cam chịu,

9


nhẫn nhịn, bao dung, từng trải và am hiểu như mẹ mình hay khơng? Câu trả lời có lẽ đã tìm được
nhưng chúng ta vẫn hi vọng cuộc sống của những người đàn bà ven biển sẽ tốt lên, sẽ khơng cịn

những cơ gái áo tím theo chân những người đàn bà hàng chài kia nữa.
III. KẾT LUẬN
Nếu như nhân vật Phùng là nhân vật nhận thức thì nhân vật người đàn bà là nhân vật số
phận. Thông qua nhân vật người đàn bà, tác phẩm bộc lộ giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Đằng
sau vẻ đẹp của bức tranh cảnh vật là vẻ đẹp của con người giữa cuộc đời đầy sóng gió. Người đàn
bà tiêu biểu cho biết bao nhiêu phụ nữ sống nghèo khổ, bất hạnh và tiêu biểu cho những người
phụ nữ Việt Nam có nhiều phẩm chất cao quý. Viết tác phẩm này, nhà văn Nguyễn Minh Châu
vẫn tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam. Từ nhân
vật người đàn bà, chúng ta rút ra rằng: khơng thể nhìn đời, nhìn người bằng một cái nhìn đơn
giản, một chiều mà phải nhìn đời nhìn người bằng cái nhìn đa diện nhiều chiều để khám phá được
cái đẹp về bản chất nhiều khi nằm trong bề ngồi thơ nhám.
Mỗi khi xem lại bức tranh nghệ thuật trong chuyến đi năm ấy ấy, Phùng lại thấy hiện lên
trong bức tranh hình ảnh người đàn bà cao lớn, thô kệch bước từng bước chắc chắn trên cát, hịa
lẫn vào đám đơng. Điều đó giúp người đọc cảm nhận được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc
đời. Nghệ thuật thì đẹp đẽ lãng mạn thì ở rất xa, còn cuộc đời khi nghiệt ngã lại ở rất gần. Vì vậy,
người nghệ sĩ chân chính phải biết rằng nghệ thuật chính là cuộc đời và vì cuộc đời, đừng vì nghệ
thuật mà quên cuộc đời. Người nghệ sĩ trước khi biết rung cảm bởi cái đẹp, phải biết yêu, biết vui
buồn, yêu ghét trước cuộc đời.
Vấn đề 3:
Phân tích bi kịch của hồn Trương Ba trong đoạn trích “Hồn Trương ba, da hàng thịt”
(Trích trong vở kịch cùng tên) của Lưu Quang Vũ
I. Mở bài
Lưu Quang Vũ là một hiện tượng của sân khấu kịch trường Việt Nam những năm tám mươi
của thế kỉ XX. Ông được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông
là một trong những người đi trước trong phong trào đổi mới văn học, nghệ thuật, dùng ngịi bút
của mình để góp phần đem đến những điều tốt đẹp cho con người.
- Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết năm 1981, là vở kịch xuất sắc nhất của
Lưu Quang Vũ, cũng là vở kịch nói đầu tiên mang ra nước ngồi cơng diễn. Bằng ngòi bút giàu
chất triết lý, Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới. Kịch bản của ông không đơn
thuần là chuyện vay mượn xác – tái sinh. Đặt vấn đề về lẽ sống con người qua nỗi khổ “bên trong

một đằng, bên ngoài một nẻo”, qua mâu thuẫn giữa tâm hồn (thanh cao) và thể xác (phàm tục), vở
kịch mang chứa những triết lý nhân sinh. “Tơi muốn là tơi tồn vẹn”, bởi sống nhờ, sống giả,
sống khơng phải là mình, đó là bi kịch đau đớn nhất của con người.
II. Thân bài
1. Khái quát

10


1.1. Giải thích
- Bi là buồn, bi thương, là những mất mát, bế tắc khơng có lối thốt. Bi kịch thường nảy
sinh từ mâu thuẫn, xung đột giữa mơ ước, khát vọng, hồi bão, lí tưởng và mong muốn của con
người với hiện thực cuộc sống khiến con người rơi vào sự thất bại, trạng thái bi thương tuyệt
vọng, thậm chí dẫn đến cái chết. Bi kịch là cuộc đấu tranh dai dẳng, không khoan nhượng giữa
thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cao thượng và thấp hèn, giữa chính nghĩa và phi
nghĩa. Trong cuộc sống thường ngày, bi kịch không diễn ra giữa các lực lượng xã hội đấu tranh
với nhau mà nó là lực lượng tinh thần trong đời sống tâm hồn của một con người.
- Bi kịch còn là một thể loại kịch thể hiện mối xung đột khơng điều hồ được giữa thiện và
ác, cao cả và thấp hèn, lí tưởng và thực tại,.... Kết thúc các bi kịch nhân vật chính thường có kết
cục bi thảm, đau thương, các thành quả quan trọng thường bị phá hủy, gây cảm xúc đau thương
mãnh liệt cho người đọc, người xem.
- Bi kịch của hồn Trương Ba ở hồi 7 đã bị đẩy lên cao trào và buộc phải được giải quyết.
1.2. Giới thiệu về bi kịch của hồn Trương Ba
Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có tâm hồn
thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị bắt chết nhầm. Sự
sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương
Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vơ lí hơn. Con người vốn là một tổng thể thống nhất,
vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này,
xác nọ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương
Ba gặp rất nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn

bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương Ba cũng bị
lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn khơng phải của bản thân ơng… Những
điều đó làm Trương Ba vơ cùng đau khổ. Ơng đau đớn, chán chường trước cuộc sống khơng thật
là mình.
2. Bi kịch của Hồn Trương Ba
Lưu Quang Vũ đã dựng lên các cuộc đối thoại đặc giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt,
hồn Trương Ba với người thân và hồn Trương ba với Đế Thích để đẩy xung đột nội tâm của hồn
Trương Ba lên đến tận cùng buộc phải giải quyết. Từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh
được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía.
2.1. Bi kịch tha hóa (Đối thoại hồn Trương Ba và xác hàng thịt)
a. Tâm thế của hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại:
Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã để cho hồn Trương Ba
“ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” và tự giãi bày tâm sự, nỗi lòng của mình “Khơng!
Khơng! Tơi khơng muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm
rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái
hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”.

11


Những lời thoại này cho thấy hồn Trương Ba đang hết sức đau khổ, bức bối và bế tắc.
Những câu phủ định, cảm thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói
lên điều đó. Hồn Trương Ba đang đau khổ, bức bối là bởi ơng khơng cịn được là mình nữa. Ơng
phải sống trong thân xác của một kẻ khác và cái thân xác ấy làm ơng ghê tởm. Ơ ng ước muốn có
hình hài riêng và muốn được tách ra khỏi xác hàng thịt dù chỉ giây lát. Nắm bắt được nguyện
vọng của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo ra tình huống hồn và xác phân thân để đối đáp với
nhau . Tưởng rằng, khi tách ra khỏi xác hàng thịt, hồn sẽ phần nào giải tỏa được nỗi đau khổ bị
dồn nén bấy lâu khi có cơ hội cất lên tiếng nói của mình nhưng hóa ra khơng phải vậy.
b. Xác hàng thịt lấn lướt, sỉ nhục hồn Trương Ba
- Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt hồn Trương Ba gọi xác hàng

thịt là mày, sau đó gọi là anh. Xác hàng thịt gọi hồn Trương ba là ơng. Dựa trên cách xưng hơ này
thì vai trên vai dưới rất rõ ràng. Hồn Trương Ba ở vai trên và xác hàng thịt ở vai dưới. Tuy nhiên,
trong cuộc đối thoại xác hàng thịt không hề lép vế, yếu thế mà còn lấn lướt và sỉ nhục hồn
Trương Ba.
- Xác hàng thịt ngày càng ý thức được vai trị của nó. Nó nói “Xác thịt có tiếng nói đấy”. Nó
cịn khẳng định nó là “cái bình để giữ linh hồn”, nhờ nó mà hồn Trương Ba mới có thể làm lụng,
cuốc xới, ngắm nhìn trời đất, người thân. Xác âm u, đui mù nhưng có thể lấn át, sai khiến, thậm
chí đồng hóa linh hồn cao khiết. Hồn khơng thể cịn ngun vẹn, trong sạch, khi phải chung sống
và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục. Để chứng minh điều đó nó đã kể ra những việc
mà hồn Trương Ba đã làm dướu sự sai khiến của nó:
+ Cái đêm khi ơng đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”,
“cổ nghẹn lại” và “st nữa thì...”.
+ Hồn Trương B đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn mà ơng cho là dung tục như tiết
canh, cổ hũ, khấu đuôi,
+ Hồn Trương Ba đã sử dụng vũ lực một cách tàn bạo với con trai. Với sức mạnh của xác
hàng thịt, ông đã tát thằng con đến toé máu mồm, máu mũi…
Rõ ràng, Hồn Trương Ba đã nhiễm những thói hư tật xấu của xác hàng thịt. Xác anh hàng
thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ơng đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng,
nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Nó cịn sỉ nhục khi nói Trương Ba hãy chơi trị chơi tâm
hồn. Hãy thỏa mãn nó và mỗi khi làm việc xấu hãy đổ tội hết cho nó. Hãy cứ nghĩ mình cao khiết
nhưng chỉ vì hồn cảnh. Thậm chí nó cho rằng đấy chính là lí lẽ hồn Trương Ba tự nói với mình
và người khác. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài
với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn
Trương Ba thanh cao, trong sạch phải sống với xác hàng thịt thô lỗ, phàm tục, đầy thói hư tật xấu
đã là đau khổ lắm rồi. Vậy mà thật sỉ nhục khi xác hàng thịt nhắc đi nhắc lại cái điều “Hai ta tuy
hai mà một”.
- Ngồi ra, xác hàng thịt cịn bày tỏ những bất cơng mà mình phải gánh chịu khi sống với
linh hồn Trương Ba: bị xúc phạm, bị bỏ bê nhếch nhác, khổ sở…vì những lý do khơng chính
đáng.
c. Thái độ của Hồn Trương Ba trước sự lấn lướt sỉ nhục của xác hàng thịt


12


- Hồn có cơ hội bày tỏ tâm trạng uất ức, tức giận vì phải chung sống với cái xác thô lỗ, tầm
thường, dung tục. Hồn cũng không che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với Xác, “kẻ âm u đui
mù, khơng cảm xúc, khơng tư tưởng, khơng có tiếng nói”...; kẻ có nhu cầu vật chất thấp kém gần
với con thú (thèm ăn ngon, thèm rượu thịt), sức mạnh thể chất gắn với sự tàn bạo… Hồn cũng
phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng định linh hồn có đời sống riêng: “nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn”… Ơng mắng xác hàng thịt là “lí lẽ của anh thật là ti tiện” và “Ta…
ta…đã bảo mày im đi”…
- Nhưng trước lí lẽ của xác hàng thịt, Trương Ba cuối cùng cũng phải thừa nhận rằng mình
đuối lí, mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác và bị thể xác đó điều khiển, dẫn đến sự tha hố
khơng có cách gì chuyển biến được. Những đối thoại ngắn và dần dần là những lời thoại bỏ lửng
cho thấy sự đuối lí của hồn trong cuộc đối thoại cùng xác.
- Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở về
cuộc sống trái với chính mình. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt,
ngồi lặng lẽ bên chõng” diễn tả cơ đọng tính chất căng thẳng của xung đột kịch và sự bế tắc của
hồn Trương Ba.
d. Ý nghĩa của cuộc đối thoại (Trong đề phân tích bi kịch nên nói rút gọn ý này)
Cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác mang ý nghĩa sâu sắc:
- Dân gian tuyệt đối hóa vai trị của linh hồn, cho rằng hồn ln quyết định và điều khiển
thể xác. Còn ở đây Lưu Quang Vũ đã thể hiện quan niệm linh hồn và thể xác dù có mối quan hệ
hữu cơ với nhau nhưng chúng vẫn có sự tồn tại độc lập tương đối, chi phối lẫn nhau. Sự chi phối
của xác hàng thịt với hồn Trương Ba cho thấy rất rõ điều đó.
- Hồn và xác là những ẩn dụ nghệ thuật. Xác hàng thịt là ẩn dụ cho bản năng, nhu cầu ham
muốn, dục vọng còn hồn Trương Ba là thế giới tinh thần luôn hướng đến sự thanh cao, trong
sạch, lương thiện ở con người. Xung đột giữa Hồn và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tơ đậm
bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”, sự thiếu hài hịa, khơng thống nhất trên các
phương diện: linh hồn và thể xác, vật chất và tinh thần, nội dung và hình thức, bản năng và lý

tưởng, cao cả và tầm thường... là xung đột dai dẳng giữa các mặt tồn tại trong một con người.
Trong cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác thì linh hồn phải biết kiểm sốt, chế ngự thể xác
chứ khơng được để thể xác lấn át rồi đổ hết tội cho nó. Nếu để thể xác lấn át sẽ trở nên phàm phu,
thô tục, tha hóa, sẽ chạy theo những ham muốn tầm thường.
- Từ bi kịch của hồn Trương Ba không được sống là mình, Lưu Quang Vũ đặt ra vấn đề
khuyên người ta phải biết sống hài hòa giữa linh hồn và thể xác, sống đúng là mình. Ơng cũng
phê phán lối sống giả, khơng đúng là mình khiến con người dễ bị tha hóa.
- Từ mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, Lưu Quang Vũ còn hướng chúng ta đến mối
quan hệ giữa nội dung và hình thức. Nội dung và hình thức vốn là hai phạm trù khác nhau, không
thể từ cái nọ suy ra cái kia nhưng chúng phải thống nhất với nhau trong một chỉnh thể . Nếu đúng
thống nhất và phù hợp với nhau thì có thể tạo nên giá trị và sức mạnh. Cịn nếu chúng khơng phù
hợp với nhau sẽ làm giảm giá trị, thậm chí có nguy cơ đe dọa đến đến sự tồn tại của sự vật hiện
tượng.

13


- Mặt khác, tác giả cũng phê phán lối sống chỉ vì linh hồn, vì quá trọng linh hồn mà bỏ bê
thể xác khiến thể xác nhếch nhác, khổ sở. Đó cũng là lối sống duy tâm, cực đoan, lười biếng và
khơng tưởng.
- Cảnh báo: Sự tha hóa của hồn Trương Ba còn khiến chúng ta nhận ra rằng con người sống
trong môi trường dung tục rất dễ bị tha hóa, dung tục hóa. Điều này làm ta nhớ đến một câu nói
"Những thói xấu ban đầu là người khách lạ qua đường, sau đó là người bạn thân ở chung nhà và
kết cục trở thành ơng chủ khó tính" hoặc nhớ đến câu tục ngữ mà cha ông ta bằng trải nghiệm của
mình đã đúc rút thành “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
2.2. Bi kịch được giải quyết (Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với Đế Thích)
Cuộc trị chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích có vai trò quyết định trong việc giải
quyết mâu thuẫn kịch. Nó cũng trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về
lẽ sống và cái chết, về cả những triết lí nhân sinh.
a. Sự lựa chọn của Hồn Trương Ba

Khi gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái
cảnh phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” nữa và muốn được sống đúng là mình
một cách tồn vẹn nhất“Khơng thể bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo được. Tơi muốn được
là tơi tồn vẹn”. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức
rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày
càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân
vật trước khi đi đến quyết định. Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên hồn
Trương Ba nên chấp nhận vì “thế giới vốn khơng tồn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả”. Nhưng
Trương Ba khơng chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích và trách
móc: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên nay đến cái thân tôi
cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì
ơng chẳng cần biết”. Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống
nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vơ nghĩa.
Đế Thích có lịng tốt với Trương Ba, nhưng lịng tốt không phải lúc nào cũng đem lại điều
tốt lành cho người khác. Những người có lịng tốt mà vơ tâm thậm chí cịn đem đến những điều tệ
hại, nghịch cảnh, bi kịch hơn. Vì lịng tốt với người bạn cờ của mình mà Đế Thích đã một lần sai
khi giúp Nam Tào, Bắc Đẩu sửa lỗi, khiến hồn Trương Ba phải sống đầy bi kịch trong xác anh
hàng thịt. Bây giờ khi cu Tị chết, Đế Thích định tiếp tục sửa cái sai của mình và Tây Vương Mẫu
bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn(theo suy nghĩ của Đế Thích) là cho hồn Trương Ba nhập
vào xác cu Tị. Đây là một cơ hội những cũng là một thử thách mới với Trương Ba. Bởi vì sống
trong thân xác cu Tị Trương Ba sẽ ít bị phiền tối hơn và có cả một cuộc đời phía trước. Tình
huống này khiến Trương Ba phải suy nghĩ, phải tiếp tục đấu tranh giữa việc chết để được là chính
mình hay sẽ sống lâu với cuộc đời của kẻ khác. Tình tiết cu Tị chết, hồn bay lên nóc nhà lúc này
có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch khiến xung đột kịch được giải quyết, nhấn mạnh được sự
kiên quyết, dứt khốt của hồn Trương Ba, đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm. Trong
tình huống thử thách, hồn Trương Ba đã nhìn thấy bao nhiêu phiền toái khác nên kiên quyết từ

14



chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo ơng là chỉ có lợi cho đám chức sắc, tức lão
lí trưởng và đám trương tuần. Ơng khơng chấp nhận cái cuộc sống mà theo ơng là cịn khổ hơn là
cái chết. Ông hiểu rõ rằng“Đâu phải cái sai nào cũng sửa được” vì “Có những cái sai khơng sửa
được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm” nên Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy sửa sai
bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho cu Tị. Đế Thích tiếp tục thuyết phục hồn
Trương Ba với nhận xét: “Con người hạ giới các ông thật kì lạ”, thậm chí Đế Thích cịn nói cho
Trương Ba hiểu “Ngọc Hồng cịn khơng được sống là chính mình”, thì Trương Ba có gì phải
băn khoăn về cuộc sống hiện tại. Nhưng hồn Trương Ba đã dứt khoát với sự lựa chọn của mình
để cuối cùng Đế Thích vẫn đành thuận theo đề nghị của Trương Ba. Kết thúc vở kịch Trương Ba
chết thực sự cả hồn lẫn xác và cu Tị được sống lại, cùng cái Gái ăn na trong vườn. Cuộc sống lại
tiếp tục hành trình vơ tận của nó.
b. Đánh giá về sự lựa chọn của Trương Ba và ý nghĩa của đoạn thoại
* Đây là sự lựa chọn nhân văn
Quyết định dứt khoát xin tiên cờ Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết
hẳn chứ khơng nhập hồn vào thân thể ai nữa của Trương Ba là kết quả của một quá trình nhận
thức tỉnh táo, sáng suốt. Trong trang sách hay trên sân khấu, lời lẽ của Hồn Trương Ba đều làm
xúc động lịng người bởi nó rất nhân văn. Nhân văn ở chỗ:
+ Lựa chọn ấy xuất phát từ khát vọng sống cao đẹp, khát vọng được sống đúng là mình
mình tồn vẹn cả tâm hồn và thể xác.
+ Đặc biệt, tình thương với mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt
khoát. Sự lựa chọn của ơng khơng chỉ giải thốt được nghịch cảnh mà còn cho thấy Trương Ba là
người nhân hậu, ln biết nghĩ cho người khác. Từ đó, vở kịch thắp lên ngọn lửa ấm áp của tình
người.
+ Kết thúc tác phẩm hồn Trương Ba được giải thoát, cát bụi trở về với cát bụi nhưng ông
vẫn cao khiết và trở nên bất tử trong lịng người thân. Ơng chết để gieo mầm cho cái đẹp, cái
thiện mãi sinh sôi, nảy nở giữa cõi đời.

* Đoạn đối thoại thể hiện quan niệm, triết lí về đời sống và con người
- Qua màn đối thoại giữa Trương ba và Đế Thích, tác giả gửi gắm nhiều thơng điệp vừa trực
tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về cuộc sống và con người:

+ Qua lời thoại của hồn Trương Ba “Tôi muốn được là tơi tồn vẹn”, Lưu Quang Vũ muốn
gửi gắm vào đó thơng điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Cuộc sống
của con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống đúng là mình, hài hịa giữa linh hồn và thể
xác. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá thì cuộc sống ấy thật vơ nghĩa. Và khơng thể có một
tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi. Ngược lại, khi con người bị chi phối bởi

15


những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng
vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn vì thể xác chính là cái bình chứa đựng linh hồn. Tuy nhiên, sống
thực sự cho ra con người, được sống đúng với mình quả khơng hề dễ dàng, đơn giản vì đến cả
Ngọc Hồng cũng khó có thể được tuyệt đối là mình.
+ Cũng thơng qua sự lựa chọn của hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đề cao, ca ngợi vẻ đẹp
tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh với cái dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống
toàn vẹn, hợp tự nhiên và để hoàn thiện nhân cách vươn tới sự cao khiết về linh hồn và khỏe
mạnh về thể xác. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.
+ Tác giả Lưu Quang Vũ cịn muốn nói đến một chuẩn mực trong đánh giá về con người là
con người trong mối quan hệ với những người xung quanh. Con người sống khơng chỉ nghĩ đến
mình mà cịn phải biết sống vì người khác để tâm hồn mình thanh thản và để cho cuộc sống trở
nên tốt đẹp hơn.
+ Hơn nữa, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến
trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn kết nói riêng, LQV muốn góp phần
phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy
cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm
phu, thơ thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cảnh báo “muốn nuôi sống xác
thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà
chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, khơng phấn đấu vì hạnh phúc tồn vẹn. Thực
chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai
quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.

+ Ngồi ra, vở kịch cịn đề cập đến một vấn đề cũng khơng kém phần bức xúc, đó là tình
trạng con người phải sống giả, khơng dám và cũng khơng được sống là bản thân mình. Đấy là
nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
III. KẾT LUẬN
1. Nghệ thuật:
Tài năng kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện trên nhiều phương diện, tiêu biểu nhất là tài xây
dựng tình huống, xung đột kịch, nghệ thuật dựng cảnh và dựng đối thoại. Kịch tính căng ra trong
những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ hành động và
ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống động, lời thoại thấm đẫm triết lí nhân sinh. Nhà văn tạo được
cảnh xác và hồn phân thân đối đáp đầy sáng tạo. Hành động kịch góp phần quan trọng thể hiện
tính cách nhân vật. Cách giải quyết xung đột kịch bất ngờ và đậm chất nhân văn.
2. Nội dung:
Đoạn trích đã thể hiện một cách sâu sắc tấn bi kịch đầy đau đớn của hồn Trương Ba. Tài
năng xuất sắc của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ khiến vở kịch có sức lơi cuốn mạnh mẽ, gửi tới
người đọc những thông điệp sâu sắc về cuộc sống. Những triết lí về cuộc đời, về con người, về xã

16


hội... đặt ra trong vở kịch ln có ý nghĩa với mọi người, mọi thời. Những câu hỏi mà ông đặt ra
trong vở kịch như “Liệu ta đã được sống là chính mình hay chưa? Hay đang cố sống cho vừa lòng
người khác? Làm thế nào để dung hòa hai phần thể xác và linh hồn ấy?” vẫn mãi còn trăn trở
lòng người.
Lưu Quang Vũ đã mãi mãi ra đi trong một tai nạn giao thông đầy thương tâm. Khoảng trống
mà nhà viết kịch tài ba ấy để lại trong nền sân khấu kịch trường Việt Nam là không thể lấp đầy.
Vở kịch cuối cùng được Lưu Quang Vũ đặt tên là Chim sâm cầm không chết. Với tất cả những gì
để lại cho đời thì mãi mãi Lưu Quang Vũ thực sự khơng chết.

CHÚC CÁC BẠN HS ƠN TẬP TỐT, LÀM BÀI ĐẠT KẾT QUẢ CAO!!!


17



×