Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Những vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hướng tới nền giáo dục thực chất ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.42 KB, 10 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC
HƯỚNG TỚI NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TS. Vũ Thị Liên*

1

Tóm tắt: Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm phát triển giáo dục đào tạo, coi giáo dục - đào tạo cùng với khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hướng tới nền giáo dục
thực chất học thật, thi thật, nhân tài thật được xem là nhiệm vụ và giải pháp hữu hiệu nhằm chấn hưng giáo dục, góp phần nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở khái quát chủ trương của Đảng về giáo dục đào tạo, bài viết chỉ ra
các nhân tố tác động đến việc đổi mới giáo dục, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần đổi mới căn bản và tồn diện giáo dục hướng
tới nền giáo dục thực chất ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Đổi mới căn bản và tồn diện, đổi mới giáo dục, giáo dục thực chất.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Giáo dục là một hoạt động hết sức quan trọng của con người, được coi là yếu
tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững, là nguồn “của cải nội sinh” của mỗi
quốc gia. Giáo dục có tác động rất to lớn đến sự hưng thịnh hay suy yếu của một quốc
gia, đồng thời cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ phát triển hiện tại
và triển vọng tương lai của quốc gia đó. Trong xu thế tồn cầu hóa, sự phát triển của
nền kinh tế trí thức với cơng nghệ hiện đại địi hỏi các quốc gia phải có nguồn nhân
lực thực sự chất lượng, có khả năng chiếm lĩnh khoa học và cơng nghệ cao bảo đảm
cho sự phát triển bền vững. Giáo dục và đào tạo là yếu tố tác động trực tiếp đến chất
lượng nguồn nhân lực quốc gia. Chất lượng giáo dục tốt sẽ đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao cho đất nước. Một nền giáo dục học thật, thi thật, nhân tài thật sẽ có
thể đào tạo ra những “sản phẩm” giáo dục thực chất. Đổi mới, nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo chính là hướng tới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu xã hội.
Việt Nam đang trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế, nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm, giáo


dục đào tạo được xác định là quốc sách hàng đầu. Việc đổi mới căn bản và toàn diện
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam.

*


92

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

giáo dục Việt Nam, hướng tới nền giáo dục thực chất nhằm nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đang là yêu cầu bức thiết cần phải thực hiện trước
những đòi hỏi của đất nước và thời đại.
1. ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỚI VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC HƯỚNG TỚI NỀN GIÁO DỤC
THỰC CHẤT

Trong quá trình lãnh đạo đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế
xã hội và hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng đến vai trò của
giáo dục và yêu cầu đổi mới giáo dục đối với sự phát triển đất nước. Đảng coi trọng
giáo dục đào tạo, coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát
triển đất nước. Nhiều nghị quyết quan trọng về giáo dục đào tạo đã được ban hành.
Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Đảng đã ban hành
Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14-01-1993 “về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo
dục và đào tạo”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996) nhấn
mạnh: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”1. Trong nhiệm kỳ khóa
VIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ hai đã tập trung bàn và ra
Nghị quyết số 02-NQ/HNTW ngày 24-12-1996 “về định hướng chiến lược phát triển
giáo dục - đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm
2000”. Chủ trương coi trọng vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục đào tạo tiếp tục

được Đảng khẳng định tại các nhiệm kỳ Đại hội IX (tháng 4-2001), Đại hội X (tháng
4-2006), Đại hội XI (tháng 1-2011), Đại hội XII (tháng 1-2016), Đại hội XIII (tháng
1-2021). Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành
Kết luận số 14-KL/TW ngày 26-7-2002 “về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ từ nay
đến năm 2005 và đến năm 2010”. Từ Đại hội XI (2011) đến nay, vấn đề đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục, đào tạo luôn được Đảng hết sức quan tâm. Hội nghị lần thứ
tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã tập trung sâu hơn về vấn đề này với
việc ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 “về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) nêu rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát
triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã
Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đảng tồn tập, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, tập 55, tr.388-389.

1


Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI”

93

hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ
hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.
Đây chính là đường lối, là mục tiêu, yêu cầu, đồng thời là sự cụ thể hóa đặc trưng nền
giáo dục thực chất mà Việt Nam đang xây dựng.
Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách đầu tư cho

giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho giáo dục đào tạo; thu hút nhân
tài và tạo môi trường làm việc thuận lợi cho đội ngũ nhà giáo và người học. Các đồn
thể chính trị - xã hội ln ln chăm lo đến đời sống của những người làm công tác
giáo dục và người được giáo dục. Đây là một yếu tố góp phần vào việc thực hiện đổi
mới giáo dục tồn diện ở Việt Nam hiện nay.
Như vậy có thể nói, Đảng, Nhà nước, các tổ chức đồn thể và toàn xã hội đặc biệt
quan tâm, chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo, mong muốn đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục, tận dụng cơ hội phát triển đất nước trong giai đoạn “cơ cấu dân số
vàng” và hội nhập quốc tế mạnh mẽ như hiện nay.
2. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC HƯỚNG TỚI
XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Quá trình đổi mới giáo dục, hướng tới xây dựng nền giáo dục thực chất có tầm
quan trọng đặc biệt, liên quan trực tiếp đến tương lai của đất nước. Sức mạnh của
một dân tộc, năng lực cạnh tranh của một quốc gia đang chuyển từ dựa vào nguồn tài
nguyên, vốn, lao động phổ thông là chủ yếu sang dựa vào nguồn lực tri thức, trí tuệ,
nguồn nhân lực chất lượng cao, đang đặt lên vai ngành giáo dục. Nhưng đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục hướng tới nền giáo dục thực chất chưa bao giờ là một công
việc dễ dàng, đơn giản. Nó chịu sự tác động của nhiều yếu tố.
2.1. Thuận lợi

Trải qua 35 năm công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô
ổn định, vững chắc hơn; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ
tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng
tăng trưởng được cải thiện. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp tục được
đổi mới và có bước phát triển. Phát triển văn hóa, xã hội, con người đạt nhiều kết quả
quan trọng. Quản lý tài ngun, bảo vệ mơi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.77.

1


94

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

được chú trọng, bước đầu đạt được kết quả tích cực. Chính trị - xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy. Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được
hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị được đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt. “Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”1. Đây là niềm
tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, tồn dân và tồn
qn vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới
toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặc biệt là yêu cầu
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng theo chiều sâu và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng
chất lượng, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao là nhân tố khách quan đòi hỏi giáo dục
phải đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân, nhanh chóng góp phần tạo ra
đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Nếu không đổi mới căn bản và tồn diện giáo dục
và đào tạo thì nhân lực sẽ là yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước. Vì vậy, việc đổi
mới giáo dục tồn diện phải đáp ứng được những u cầu, địi hỏi của đất nước trong
tình hình mới.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền
thông phát triển mạnh làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những
thành tựu mới được phát minh như vi mạch, kỹ thuật số hóa, cơng nghệ từ xa và thơng
tin số… đã thâm nhập sâu rộng và làm biến đổi nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ những biến đổi về khí hậu, những thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáng báo
động của tình trạng cạn kiệt tài ngun, ơ nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái
đến những biến động chính trị, qn sự khó lường đã và đang đặt ra yêu cầu phải trang
bị cho các thế hệ tương lai năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của thời cuộc
cả về tự nhiên và xã hội. Đây là những nhân tố tác động trực tiếp đòi hỏi đổi mới giáo
dục toàn diện tạo ra thế hệ tương lai thích ứng và làm chủ được sự biến đổi nhanh
chóng của thời đại.
Về chủ quan, dân tộc Việt Nam được biết đến với truyền thống thông minh, hiếu
học lâu đời, luôn coi trọng và đề cao việc học tập để lập thân, lập nghiệp. Nhờ có học
mà con người có được nghề nghiệp, có thu nhập cao và ổn định; tài năng của mỗi cá
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr.104.

1


Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI”

95

nhân có cơ hội để được tỏa sáng. Vì vậy, các thế hệ nối tiếp nhau chăm lo cho giáo
dục, dành sự quan tâm và đầu tư cao cho giáo dục và đào tạo. Có thể nói, đây cũng là
một yếu tố thuận lợi tác động không nhỏ đến công cuộc đổi mới, phát triển giáo dục
tồn diện hiện nay.
2.2. Khó khăn


Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, nền giáo dục Việt Nam đang đối mặt với nhiều
khó khăn, bất cập, tác động đến việc đổi mới giáo dục hướng tới nền giáo dục thực chất.
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về giáo dục, tỷ lệ
chi cho giáo dục chiếm đến 20% tổng ngân sách quốc gia (năm 2013), song trên thực
tế, đổi mới giáo dục và đào tạo “chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội”1.
Trong vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo hướng tới xây dựng
nền giáo dục thực chất, vấn đề đổi mới tư duy, hoạt động giáo dục và đào tạo còn
chậm, chưa quyết liệt, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; một số nhiệm vụ, giải pháp đổi
mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định.
Trên thực tế, giáo dục bao giờ cũng là một quá trình hai mặt, một mặt là sự tác
động từ bên ngoài vào đối tượng được giáo dục, mặt khác là thông qua các tác động
này, đối tượng tự biến đổi bản thân, tự hồn thiện mình. Đào tạo và tự đào tạo là quá
trình lĩnh hội những giá trị trong nội dung giáo dục, biến nó thành nguyên tắc, định
hướng chi phối suy nghĩ và hành động của người học phù hợp với yêu cầu của cuộc
sống. Song, ở Việt Nam hiện nay, hệ thống giáo dục và đào tạo chưa bảo đảm tính
đồng bộ và liên thơng giữa các trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo, chưa
phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Chất lượng, hiệu quả
giáo dục và đào tạo chưa cao. Nội dung, chương trình giáo dục và đào tạo còn nặng
lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất
kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động. Chưa chú trọng đúng mức đến phát
triển phẩm chất và kỹ năng người học. Giáo dục “làm người”, đạo đức, lối sống còn
bị xem nhẹ. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn
còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu và chính sách đãi ngộ. Quản lý nhà nước
và quản lý - quản trị nhà trường còn nhiều hạn chế. Nguy cơ tái mù chữ có xu hướng
tăng ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số2.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr.82.
2

Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr.82-83.
1


96

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, sự phát triển không đồng đều
giữa các địa phương vẫn là nguyên nhân dẫn đến thiếu bình đẳng về cơ hội tiếp cận
giáo dục và khoảng cách chất lượng giáo dục giữa các đối tượng người học và các
vùng miền. Tư duy bao cấp, sức ỳ trong nhận thức, tác phong quan liêu trong ứng xử
với giáo dục của nhiều cấp, nhiều ngành, của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục,
không theo kịp sự phát triển nhanh của kinh tế - xã hội và khoa học cơng nghệ; bệnh
thành tích, hư danh, chạy theo bằng cấp trong cán bộ và người dân chậm được khắc
phục. Đâu đó vẫn cịn tình trạng “hư học” nhiều hơn “thực học”, mua bằng, chạy
điểm. Thậm chí, ý kiến của các nhà khoa học cho rằng giáo dục Việt Nam hiện nay
đang bị “khủng hoảng”, thậm chí dùng ba từ “lạc” (lạc đường, lạc điệu và lạc hậu) để
chỉ tình trạng của nền giáo dục.
Hệ thống cơ chế, chính sách cho đổi mới căn bản và tồn diện giáo dục cũng tác
động khơng nhỏ đến việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện nay. Nghị quyết
Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định:
“Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của tồn xã
hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo… Khuyến khích các
doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ trợ hoạt động đào tạo. Xây dựng
cơ chế, chính sách tài chính phù hợp đối với các loại hình trường. Có cơ chế ưu đãi
tín dụng cho các cơ sở giáo dục, đào tạo”1. Tuy nhiên, nhiều chính sách và cơ chế tài
chính lạc hậu, phân bổ tài chính mang tính bình qn, dàn trải. Cơ sở vật chất kỹ thuật
của nhiều cơ sở giáo dục còn thiếu đồng bộ, chưa đạt chuẩn quy định để đổi mới và

phát triển giáo dục.
Do đó, muốn xây dựng nền giáo dục thực chất, yêu cầu bức thiết của thực tiễn đất
nước hiện nay là phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà, để giáo dục
được trả về đúng tầm quan trọng của nó, thực hiện “học thật, thi thật, nhân tài thật” nhằm
nâng cao chất lượng nguồn lực con người - nguồn tài nguyên quý giá nhất trong các
nguồn tài nguyên, phục vụ thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Một số giải pháp góp phần đổi mới giáo dục hướng tới nền giáo dục thực chất ở Việt Nam hiện nay

Một là, nâng cao năng lực và vị thế người thầy
Từ ngàn xưa ở Việt Nam, với truyền thống hiếu học, tơn sư trọng đạo, hình ảnh,
trí tuệ, đạo đức người thầy luôn là tấm gương cho học trị noi theo. Những câu châm
ngơn bất hủ lưu truyền đến ngày nay vẫn là “Không thầy đố mày làm nên”, “Khơng
có thầy giáo thì khơng có trường học”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, “Thầy nào,
trò nấy” đã khẳng định vai trị vị trí người thầy trong bất kỳ xã hội nào. Chất lượng
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, ngày 7/11/2013.

1


Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI”

97

người thầy là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng quyết định chất lượng giáo
dục và đào tạo. Đổi mới giáo dục đào tạo khơng thể khơng đổi mới từ chính người
thầy. Thực tế đã đúc kết “Thầy tốt sẽ có sách tốt”, “Thầy giỏi sẽ giúp cho trò trở
thành trò giỏi”.
Với vai trị là chủ thể trực tiếp trong q trình thực hiện việc giáo dục căn bản và
tồn diện thì đội ngũ nhà giáo là yếu tố cơ bản quyết định đến thành cơng hay thất bại

của q trình đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục hiện nay. Thơng qua hoạt động giảng
dạy của đội ngũ nhà giáo tác động đến chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện giáo
dục tồn diện. Đội ngũ nhà giáo có trình độ chun mơn, có tư cách đạo đức, lối sống
trong sáng sẽ có ảnh hưởng tích cực tới người học. Họ là hình mẫu để người học vươn
tới, truyền thụ lý tưởng xây dựng niềm tin và hành động cho một xã hội tốt đẹp, càng
phải luôn phấn đấu xứng đáng là một mẫu mực về phẩm chất, nhân cách và trí tuệ.
Ngược lại, nếu đội ngũ nhà giáo khơng đủ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm
kém đứng lớp, đặc biệt là đối với những nhà giáo có biểu hiện suy thối về đạo đức
lối sống, có những hành vi sai trái, nếu không được ngăn chặn sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến việc hình thành nhân cách của người học, làm suy giảm niềm tin của họ đối với sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và làm hạn chế cơng cuộc đổi mới căn bản,
tồn diện nền giáo dục hiện nay.
Người thầy phải là người có lòng yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục; có
trình độ cao, có phẩm chất đạo đức tốt, nếp sống giản dị, khiêm tốn ln biết tơn trọng
lợi ích tập thể và quốc gia, thường xuyên học tập nâng cao trình độ chun mơn và coi
đó là nhu cầu, trách nhiệm bản thân mình.
Để có được những người thầy tốt, ngoài nhận thức và nỗ lực cá nhân, cần phải
có được sự nhận thức và quan tâm đúng mức của toàn xã hội, của các cấp lãnh đạo và
đặc biệt là lãnh đạo ngành, tạo điều kiện thuận lợi như:
Có điều kiện làm việc thuận lợi (phương tiện làm việc tại trường và ở nhà)
Được tham gia các lớp bồi dưỡng, thường xuyên nâng cao chuyên môn nghiệp
vụ, ngoại ngữ ở trong và ngồi nước hoặc đi tìm hiểu học tập kinh nghiệm ở các nước
có nền giáo dục phát triển trong khu vực và thế giới.
Có nguồn thu nhập (lương và các chế độ phụ cấp ưu đãi…) đủ để có thể tái tạo
sức lao động và các chi phí hỗ trợ gia đình.
Hai là, đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục theo hướng
“học thật, thi thật, nhân tài thật”
Với sự phát triển nhanh chóng của tri thức trong mọi lĩnh vực, nhất là khoa học
cơng nghệ thì giáo dục phải cải tiến đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp



98

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

giảng dạy. Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội
dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện
đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của
phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và cơng nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư”1.
Cần xúc tiến nhanh việc xây dựng chương trình cho phù hợp với yêu cầu của thời
kỳ Đổi mới, cập nhật nội dung, tri thức mới vào bài giảng, chú trọng nội dung khoa
học cơ bản, gắn chặt cơ bản với thực tiễn, giới thiệu cho người học những thông tin
mới gắn với đời sống xã hội đang diễn ra. Đội ngũ cán bộ giảng dạy, giáo viên các cấp
phải là người trực tiếp tham gia vào các hoạt động đổi mới trên.
Chương trình và nội dung mới phải sát thực tế, đáp ứng nhu cầu của xã hội, sát
với thực tiễn sử dụng lao động của các doanh nghiệp.
Thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học trên diện rộng theo hướng lấy học
sinh làm trung tâm, theo tinh thần phát huy tính chủ động, độc lập, sáng tạo của người
học, đồng thời sử dụng các phương pháp đánh giá kết quả học tập hợp lý, đúng năng
lực. Qua đó, giúp người học tự tin, rèn luyện cho người học tính chủ động, sáng tạo,
có khả năng tư duy độc lập, biết làm chủ quá trình học tập ở lớp cũng như ở nhà, biết
sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại, mạnh dạn, chủ động ứng dụng kiến thức
khoa học vào thực tiễn đời sống.
Ba là, chú trọng giáo dục đạo đức và hướng nghiệp cho người học
Trong quá trình giáo dục, ngoài việc trang bị cho người học những kiến thức khoa
học có hệ thống cịn phải chú ý giáo dục về đạo đức, nhân cách, hướng nghiệp, khởi
nghiệp, tính trung thực, có hồi bão, có chí tiến thủ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Đảng nhấn mạnh: chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và
các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc…; khơi

dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”2.
Việc hướng nghiệp cho người học cũng là vấn đề rất quan trọng và cần thiết nhằm
giúp các em lựa chọn ngành nghề, việc làm, loại hình học tập phù hợp với năng khiếu,
sở trường, năng lực thực của mình. Như vậy, mới phát triển được nhân tài thật và nâng
cao hiệu quả đào tạo thực chất của nền giáo dục.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr.136.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr.136-137.
1


Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI”

99

Bốn là, đa dạng hóa hình thức kiểm tra, đánh giá với nhiều loại hình đào tạo,
lấy chất lượng làm thước đo hiệu quả giáo dục
Việc mở rộng, đa dạng hóa các loại hình đào tạo cần phải được coi là nhiệm vụ
lớn trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Mỗi loại hình đào tạo sẽ giải quyết những
nhiệm vụ khác nhau theo yêu cầu của đất nước về đào tạo nghề, kỹ thuật viên cao cấp,
trung cấp, cao đẳng, đại học… và các ngành kinh tế, thương mại, ngoại giao, xuất
nhập khẩu, pháp luật, quản lý nhà nước, công nghệ thông tin. Song hành với đó là các
hình thức kiểm tra, đánh giá phù hợp, phản ánh đúng chất lượng đào tạo, không tơ
hồng, khơng bơi đen, khơng chạy theo bệnh thành tích.
Năm là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục và đào tạo
Đầu tư cho giáo dục đào tạo được coi là đầu tư có lợi ích lâu dài nhất cho xã hội.
Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho các hoạt động giáo dục là một trong những nội dung

quan trọng của tiến trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, nâng cao chất lượng
đào tạo ở Việt Nam hiện nay. Ngoài việc đầu tư các phương tiện dạy học hiện đại, cần
đặc biệt chú ý quan tâm đến thu nhập và đời sống người dạy, phương tiện làm việc của
thầy cô giáo, cán bộ nghiên cứu, chuyên viên, phục vụ… để họ an tâm với nhiệm vụ
của mình, và chịu trách nhiệm trước nhân dân, với xã hội.
Sáu là, kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục đào tạo
Giáo dục gia đình là nhằm làm cho con cái trở thành những con ngoan, biết vâng
lời và nghe theo dạy bảo của ông bà, cha mẹ, biết yêu thương, quan tâm chăm sóc ơng
bà cha mẹ, anh chị em trong gia đình, họ hàng, làng xóm. Ngồi ra, cịn tạo cho các
em biết cách xử sự các mối quan hệ trong cuộc sống hàng ngày có như vậy mới trở
thành người tốt trong xã hội, có thể làm được có ích cho xã hội.
Giáo dục trong nhà trường các cấp từ phổ thông đến đại học là một chuỗi liên
tục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Từ đời xưa, cha ơng ta đã có đúc kết trong
giáo dục là: “Tiên học lễ, Hậu học văn”, điều đó đã trở thành chân lý trong giáo dục
rèn luyện con người đến ngày nay và mãi về sau. Trong nhà trường, học sinh trước
khi học chữ phải học lễ nghĩa, rèn luyện nhân cách, phải biết kính trong, lễ phép
vâng lời thầy, cô giáo, người lớn tuổi, phải khiêm tốn thật thà, trung thực, sẵn lịng
giúp đỡ bạn bè, có tinh thần độc lập, có chí tiến thủ tự chủ sáng tạo trong học tập.
Trên nền tảng trang bị những lễ nghĩa, đạo đức đó mới dạy trí thức, và sự tiếp nhận
tri thức mới có hiệu quả. Con người có tri thức và có đạo đức thì mới là người có
thể phục vụ tốt cho xã hội.
Xã hội là mơi trường sống của mọi người, các mối quan hệ xã hội tạo cho con
người phát triển tồn diện hơn. Thơng qua các hoạt động xã hội, con người hiểu nhau
hơn, học tập ở nhau những điều tốt, giúp nhau gạt bỏ những điều không tốt, thấy được
đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm cơng dân của mình hơn.


100

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP


Việc kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội là hết sức cần thiết, phải
được thiết lập trên nền tảng mối quan hệ hữu cơ, đồng bộ, liên tục ở tất cả các cấp sẽ
giúp giáo dục và đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực học thật, thi thật, nhân
tài thật, đáp ứng nhu cầu trong tiến trình đổi mới và hội nhập.
KẾT LUẬN

Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo vì mục tiêu xây dựng nền giáo
dục thực chất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực học thật, thi thật, nhân tài thật đã
và đang được nhiều quốc gia thực hiện trong quá trình xây dựng một xã hội phồn vinh.
Việt Nam đang đứng trước nhu cầu hội nhập và phát triển kinh tế, với chủ trương “đi
tắt, đón đầu”, thực hiện cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Việc đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo đang là chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước, là yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục trước những đòi hỏi cấp bách của
sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Từ việc nhận
thức những thuận lợi và khó khăn trong q trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục đào tạo, chúng ta cần phải thực hiện những chính sách, giải pháp đúng đắn, phù
hợp, hướng vào việc xây dựng nền giáo dục thực chất học thật, thi thật, nhân tài thật
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ nhu cầu xã hội trong tiến trình
phát triển tồn diện đất nước./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị
Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, ngày 7/11/2013.

2

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội,
Tọa đàm khoa học đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo, Hà Nội.


3

Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đảng tồn tập, tập 55, NXB Chính trị Quốc gia
- Sự thật, Hà Nội.

4

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

5

Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I,
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.



×