Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Vận dụng quy luật phủ định của phủ định trong triết học mác lênin vào sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở viện nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 85 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

ĐỖ THỊ THU TRANG

VẬN DỤNG QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH
CỦA PHỦ ĐỊNH TRONG TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. TRẦN THỊ HỒNG LOAN

HÀ NỘI 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trƣờng Đại học sƣ
phạm Hà Nội 2, các thầy cô giáo trong Khoa Giáo dục Chính trị đã tận tình
dạy dỗ, chỉ bảo và truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập và
rèn luyện tại trƣờng.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo, TS. Trần Thị
Hồng Loan đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu, thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, do thời gian có hạn và bƣớc đầu
làm quen với phƣơng pháp nghiên cứu khoa học nên không thể tránh khỏi
những thiếu xót, rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và


các bạn sinh viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 13 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Đỗ Thị Thu Trang


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của
TS. Trần Thị Hồng Loan. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không trùng với bất kì công
trình nghiên cứu của tác giả khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 13 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Đỗ Thị Thu Trang


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN................................... 6
1.1. Quy luật phủ định của phủ định ................................................................. 6
1.2. Một số lý luận cơ bản về giáo dục và đào tạo .......................................... 11
1.3. Sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Việt Nam hiện nay .......................................................................................... 17
1.4. Nội dung sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay ......................... 24
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CĂN BẢN,

TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM ............................ 31
2.1. Một số thành tựu chủ yếu của giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................... 31
2.2. Một số hạn chế chủ yếu của giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................... 41
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ BIỆN PHÁP NHẰM
GÓP PHẦN THÚC ĐẨY SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN
DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TRÊN
CƠ SỞ VẬN DỤNG QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH ................ 52
3.1. Một số phƣơng hƣớng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo ở Việt Nam hiện nay ................................................................................. 52
3.2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay trên
cơ sở vận dụng quy luật phủ định của phủ định .......................................... 55
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 79



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật. Nó nói lên khuynh hƣớng vận động và phát triển
của sự vật, hiện tƣợng. Đó là khuynh hƣớng phát triển theo chiều hƣớng tiến
lên trên cơ sở kế thừa những nhân tố tích cực, loại bỏ những nhân tố lạc hậu,
lỗi thời của cái cũ. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà nƣớc ta đã vận dụng quy luật
này để đƣa ra các chủ trƣơng, chính sách cho công cuộc đổi mới đất nƣớc trên
tất cả các lĩnh vực. Và một trong những lĩnh vực đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta
quan tâm vận dụng không thể không nói tới là lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Hiện nay, cuộc cánh mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển với

những bƣớc tiến nhảy vọt, đƣa thế giới từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ
nguyên công nghệ thông tin và kinh tế tri thức. Khoa học công nghệ trở thành
động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế xã hội, mà nền tảng của sự phát
triển này là giáo dục và đào tạo. Vì vậy, ở tất cả các quốc gia trong đó có Việt
Nam đều nhận thức đƣợc vai trò và vị trí quan trọng của giáo dục và đào tạo.
Cụ thể ở Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 7/1996) đã xác định:
Giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Thật
vậy, một dân tộc mà dân trí thấp kém thì khó có thể có điều kiện để tiếp thu và
phát huy tinh hoa văn hóa, khoa học và công nghệ mới của nhân loại. Ở nước
ta hiện nay, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,… là các
nhiệm vụ quan trọng nhằm phát triển nhân tố con người với tư cách vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước” [13, tr.8]. Trong Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) Đảng ta tiếp tục khẳng định:
Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc

1


đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện phát huy nguồn lực
con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững [8, tr.127].
Sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam trong những năm vừa qua đã đạt đƣợc
những thành tựu đáng tự hào, góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc, giáo dục ở
nƣớc ta còn một số hạn chế và thiếu sót về mặt lý luận và mặt thực tiễn nhƣ:
chất lƣợng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo
dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên
thông giữa các trình độ và giữa các phƣơng thức giáo dục, đào tạo; còn nặng
lý thuyết, nhẹ thực hành; đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản

xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trƣờng lao động; chƣa chú trọng đúng
mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc; phƣơng pháp giáo
dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất; việc
đầu tƣ cho giáo dục và đào tạo chƣa hiệu quả; chính sách, cơ chế tài chính cho
giáo dục và đào tạo chƣa phù hợp; cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc
hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Vì vậy, Đảng và Nhà nƣớc ta đã đƣa ra Nghị quyết Hội nghị TW8
(khóa XI): về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, nhằm đƣa giáo dục Việt Nam đi
đúng hƣớng và trở thành một hệ thống giáo dục mang tính toàn dân, toàn
diện, tổng hợp để giáo dục và đào tạo trở thành động lực chính trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc góp phần xây dựng đất nƣớc
phồn vinh thịnh vƣợng. Với lý do trên, tôi chọn đề tài “Vận dụng quy luật
phủ định của phủ định trong triết học Mác – Lênin vào sự nghiệp đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay” làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục và đào tạo có mối liên hệ mật thiết đến tất cả các mặt của đời
sống kinh tế xã hội, chính trị, văn hóa; đến mọi gia đình, mọi ngành nghề.
Trong những năm gần đây nhiều nhà khoa học khi nghiên cứu đã giành một
phần để nói về chất lƣợng và hiệu quả giáo dục và đào tạo nhƣ:
Tổng bí thƣ Đỗ Mƣời đã nêu lên những biện pháp để phát triển giáo
dục và đào tạo trong bài: “Phát triển giáo duc và đào tạo phục vụ đắc lực cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (tạp chí Nghiên cứu giáo
dục số 2 - 1996). Bài viết đã đƣa ra những biện pháp nhằm khắc phục những

nguyên nhân dẫn đến nền giáo dục Việt Nam yếu kém. Đó là một trong những
điểm quan trọng để Đảng và Nhà nƣớc ta cần quan tâm để nâng cao chất
lƣợng hiệu quả giáo dục.
Bài viết: “Một số ý kiến về tình hình giáo dục hiện nay” của Hoàng Tụy
(Phát triển giáo dục tháng 1/1997). Thông qua bài viết đã giúp cho ngƣời đọc
thấy rõ hơn về thực trạng giáo dục Việt Nam.
Các văn kiện Hội nghị lần thứ tƣ BCHTW khóa VII; Văn kiện Hội nghị
lần thứ hai BCHTW khóa VIII; Hay bài viết Giáo dục Việt Nam trước
ngưỡng cửa thế kỷ XXI của Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1999; 50 năm phát triển giáo dục và đào tạo (1945 – 1995) của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995; Vấn đề giáo dục và đào tạo của
Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; Trƣơng Sĩ Ánh, Lê
Hƣơng và Trần Thị Thanh Thủy biên soạn cuốn Giáo dục tại Việt Nam: xu
hướng phát triển và những khác biệt, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1996.
Đặc biệt là bài viết: Tìm hiểu vấn đề chất lượng giáo dục của Thái Duy
Tuyên, Viện chiến lƣợc và chƣơng trình giáo dục (Phát triển giáo dục số 3; 4;
5; 7 năm 2003). Bài viết đã cung cấp cho ngƣời đọc thấy đƣợc chất lƣợng
giáo dục Việt Nam ở các cấp học, từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất

3


lƣợng giáo dục Việt Nam. Hay bài viết: Những quy định về đổi mới, nâng cao
chất lượng hiệu quả giáo dục, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2006, Luật Gia
Thy Anh – Tuấn Đức biên soạn. Bài viết nêu ra những quy định về đổi mới
trong giáo dục nhƣ: đổi mới nội dung, phƣơng pháp dạy học, về quản lý giáo
dục,..., nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả giáo dục.
Những công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nền giáo dục và đào
tạo ở nƣớc ta trên nhiều phƣơng diện khác nhau. Song, chƣa có bài viết nào
đề cập đến việc “Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào sự nghiệp đổi

mới căn bản, toàn diện giáo dục ở Việt Nam hiện nay”. Vì vậy, tôi mạnh dạn
nghiên cứu vấn đề này để làm rõ hơn thực trạng giáo dục và đào tạo, bƣớc
đầu đƣa ra phƣơng hƣớng, mục tiêu và một số giải pháp cơ bản nhằm góp
phần thúc đẩy công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nhằm nghiên cứu vai trò của quy luật phủ định
của phủ định vào sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở
Việt Nam và đề ra phƣơng hƣớng, biện pháp cơ bản để góp phần thúc đẩy sự
nghiệp giáo dục nƣớc ta ngày càng phát triển.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nhằm giải quyết những nhiệm vụ sau:
 Hệ thống một cách khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về sự vận
dụng quy luật phủ định của phủ định vào sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo.
 Chỉ ra thực trạng, và những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thực trạng
giáo dục và đào tạo ở nƣớc ta hiện nay.
 Bƣớc đầu đƣa ra một số biện pháp chủ yếu để đổi mới giáo dục và đào
tạo ở nƣớc ta hiện nay trên cơ sở vận dụng quy luật phủ định của phủ định.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: quy luật phủ định của phủ định
trong triết học Mác – Lênin và sự vận dụng quy luật đó vào sự nghiệp đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2011 – 2015.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phƣơng pháp nghiên cứu của khóa luận: chủ yếu là phƣơng pháp duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử; phƣơng pháp lôgic – lịch sử, phƣơng pháp
phân tích tài liệu, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp phân tích tổng hợp,
phƣơng pháp so sánh đối chiếu.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài cho thấy tầm quan trọng của việc vận dụng quy luật phủ định của
phủ định - một trong ba quy luật cơ bản của Triết học Mác - Lênin vào đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đối với hệ thống giáo dục quốc
dân đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của đất nƣớc ta hiện
nay. Đồng thời, làm rõ đƣợc các quan điểm, chủ trƣơng, chính sách của Đảng
và Nhà nƣớc ta về định hƣớng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Chỉ ra đƣợc thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận đƣợc chia làm 3 chƣơng, 8 tiết.

5


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1. Quy luật phủ định của phủ định
1.1.1. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận
động và phát triển.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự
thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự
vật cũ.

Mọi quá trình vận động và phát triển các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay
tƣ duy đều diễn ra thông qua những sự phủ định - thay thế, trong đó có sự
thay thế chấm dứt sự phát triển, nhƣng cũng có sự thay thế tạo ra điều kiện,
tiền đề cho quá trình phát triẻn của sự vật. Những sự thay thế tạo ra điều
kiện,tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật thì gọi là phủ định biện chứng.
Sự phủ định này đã đƣợc các nhà triết học Hy Lạp cổ đại phát hiện và trình
bày dƣới dạng sơ khai, mộc mạc. Tiêu biểu nhƣ luận điểm bất hủ của Hêraclit:
“Không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông” [19, tr.157- 158]. Mọi
cái chỉ xảy ra có một lần, không lặp lại mặc dù giữa các sự vật có thể có sự
kế thừa nhất định. Hay nhƣ Talet cho rằng: mọi sự vật không ngừng biến đổi,
sinh ra và chết đi [19, tr.153]. Toàn bộ thế giới tồn tại nhƣ một vòng tuần
hoàn biến đổi không ngừng. Tuy nhiên quan niệm của các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại mới chỉ đƣợc thể hiện dƣới hình thức ngây thơ và mang tính duy
vật tự phát.
Ngƣời đầu tiên trong lịch sử triết học đã đƣa ra những tƣ tƣởng rõ ràng
về phủ định biện chứng là Heghen. Cùng với quan niệm mâu thuẫn, ông đã
đƣa ra quan niệm về phủ định. Heghen phân biệt phủ định trừu tƣợng với phủ

6


định cụ thể. Phủ định trừu tƣợng là phủ định sạch trơn không chỉ xóa bỏ cái
cũ, mà còn xóa bỏ cả những yếu tố có khả năng tạo sự sống cho nó. Trong khi
phủ định cụ thể không chỉ đơn giản xóa bỏ cái cũ, mà còn giữ lại những yếu
tố mầm mống, tạo khả năng sống cho nó, tức sự phủ định mang tính kế thừa,
phủ định có chọn lọc. Heghen goi sự phủ định nhƣ thế là sự vƣợt bỏ và cho
rằng: sự phát triển tất yếu đƣa đến sự phủ định. Sự phủ định không phải là sự
gán ghép từ bên ngoài, mà là kết quả tất yếu từ chính quá trình phát triển của
sự vật, hiện tƣợng. Chính sự phủ định là một nấc thang xác định trong quá
trình phát triển cho nên sự phủ định ấy cũng phải chịu một sự phủ định bản

thân nó trong tiến trình phát triển tiếp theo của sự vật, hiện tƣợng. Đó chính là
sự phủ định của phủ định, mà kết quả dƣờng nhƣ là quay trở lại cái cũ, khôi
phục lại cái cũ, nhƣng trên cơ sở cái mới.
Đặc trƣng cơ bản của phủ định biện chứng là tính khách quan và tính
kế thừa:
Tính khách quan: nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính bản
thân sự vật, hiện tƣợng; nó là kết quả của quá trình đấu tranh, giải quyết mâu
thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời cái mới thay thế
cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hƣớng phát triển của chính bản thân sự vật.
Tính kế thừa: đó là sự phủ định mà trong đó cái mới hình thành và phát
triển tự thân thông qua quá trình chọn lọc, loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi
thời, giữ lại những nội dung tích cực, hợp quy luật.
V.I.Lênin khẳng định: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải
sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự
do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong
phép biện chứng,… mà là sự phủ định coi như vòng khâu của liên hệ, vòng
khâu của sự phát triển…” [16, tr.245]. Bởi vậy, phủ định biện chứng là
khuynh hƣớng tất yếu của mối liên hệ bên trong giữa cái cũ và cái mới, là sự
tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.

7


1.1.2. Nội dung quy luật phủ định của phủ định
Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy
luật này tạo nên khuynh hƣớng phát triển của sự vật từ trình độ thấp đến trình
độ cao hơn, diễn ra có tính chất chu kỳ theo hình thức “xoáy ốc”. Sự phát
triển theo đƣờng “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trƣng của
quá trình phát triển biện chứng của sự vật, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và
tính tiến lên.

Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, phạm trù phủ định là sản phẩm của quá
trình tƣ duy, là kết quả nhận thức thế giới khách quan của con ngƣời. Nội
dung của phạm trù phủ định là sự phản ánh, là hình ảnh của sự phủ định diễn
ra trong tự nhiên và trong lịch sử. Nội dung sự phủ định trong tƣ duy không
quy định nội dung sự phủ định trong tự nhiên và trong lịch sử. Ngƣợc lại, nội
dung phủ định trong tự nhiên và trong lịch sử sẽ quy định nội dung sự phủ
định trong tƣ duy.
Ăngghen đã định nghĩa phủ định “trong phép biện chứng” bằng cách
đƣa ra nội dung của một loại phủ định khác phủ định “trong phép biện
chứng”. Xét theo nội dung, đó chính là phủ định hoàn toàn, tuyệt đối một
cách siêu hình. Đó là loại phủ định không căn cứ vào quá trình pháy triển của
sự vật, hiện tƣợng mà chỉ là một ý kiến từ bên ngoài áp đặt vào quá trình đó,
nên sự phủ định này không có khả năng dẫn đến bất kỳ sự phủ định tiếp theo
nào. Từ đó, Ăngghen chỉ rõ những đặc điểm của phủ định “trong phép biện
chứng”. Đó là phủ định căn cứ vào quá trình phát triển hiện thực của sự vật,
hiện tƣợng. Về phƣơng thức phủ định Ăngghen nói: “Không những tôi phải
phủ định, mà còn phải xóa bỏ sự phủ định ấy một lần nữa. Cho nên phải thiết
lập sự phủ định thứ nhất như thế nào cho sự phủ định lần thứ hai vẫn sẽ còn
hay có thể có được” [3, tr.239 - 240].

8


Theo Ăngghen phƣơng thức phủ định gồm hai bƣớc là phủ định và phủ
định của phủ định. Trong đó, bƣớc phủ định tứ hai (phủ định của phủ định)
diễn ra trên cơ sở kết quả của bƣớc phủ định thứ nhất. Để cho bƣớc phủ định
thứ hai có thể diễn ra và để cho sự vật, hiện tƣợng có thể tiếp tục cho quá
trình vận động của nó thì bƣớc phủ định thứ nhất không thể là phủ định sạch
trơn (phủ định hoàn toàn) mà phải là phủ định biện chứng, tức là phủ định có
sự kế thừa. Chính sự kế thừa này sẽ khiến cho sự phủ định không dẫn đến diệt

vong mà làm cho sự vật, hiện tƣợng phát triển. Ph.Ăngghen chia sự phủ định
làm hai loại “sự phủ định chân chính” và “sự phủ định xấu, không có kết
quả”. “Sự phủ định xấu, không có kết quả” chính là sự phủ định thuần túy,
chủ quan, cá nhân, là sự áp đặt từ bên ngoài vào quá trình phát triển của sự
vật, hiện tƣợng. Còn “sự phủ định chân chính” là sự phủ định có tính tất yếu
khách quan. Ăngghen nói: “sự phủ định chân chính – phủ định tự nhiên, phủ
định lịch sử và phủ định biện chứng đúng là động lực (xét về mặt hình thức)
cảu mọi sự phát triển: sự phân ra thành những mặt đối lập, đồng thời trên cơ
sở kinh nghiệm đã thu được, lại đi tới một luận điểm xuất phát ban đầu nhưng
ở một trình độ cao hơn” [3, tr.883].
Nhƣ vậy, quy luật phủ định của phủ định mang tính chất chu kỳ của các
quá trình phát triển và đƣợc diễn ra theo hình “xoáy ốc”. Theo tính chất này,
mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thƣờng trải qua hai lần phủ định cơ bản với
ba hình thái tồn tại chủ yếu, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại những
đặc trƣng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhƣng trên cơ sở cao hơn về
trình độ phát triển nhờ kế thừa đƣợc những nhân tố tích cực và loại bỏ đƣợc
những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định.
V.I.Lênin nói: “Từ khẳng định đến phủ định, - từ sự phủ định đến “sự
thống nhất” với cái bị khẳng định,- không có cái đó, phép biện chứng trở thành
một sự phủ định sạch trơn, một trò chơi hay là chủ nghĩa hoài nghi” [16, tr.246].

9


Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của
sự phát triển: đó không phải là sự phát triển theo hình thức một con đƣờng
thẳng, mà là phát triển theo hình thức con đƣờng “xoáy ốc”. Lênin khái quát:
“Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một
hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định); sự phát triển
có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng…” [15, tr.65].

Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong
phép biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định
và cái khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ định biện biện
chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa
những nội dung tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và
tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển. Ph.Ăngghen đã nhận xét: “…phủ định
cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có
một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự
nhiên, của lịch sử và của tư duy” [17, tr.200].
1.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức đúng
đắn về xu hƣớng vận động, phát triển của sự vật, hiện tƣợng. Quá trình đó
không diễn ra theo đƣờng thẳng mà là con đƣờng quanh co, phức tạp – đƣờng
trôn ốc, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình, nhiều chu kỳ khác nhau, chu kỳ
sau tiến bộ hơn chu kỳ trƣớc. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá
trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hƣớng chung, khuynh hƣớng
tiến lên theo quy luật. Cần phải nắm đƣợc đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ
của sự vật, hiện tƣợng để tác động tới sự phát triển, phù hợp với yêu cầu hoạt
động, nhận thức biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách
mạng trong mọi hoạt động của chúng ta và trong thực tiễn. Khẳng định niềm
tin vào xu hƣớng tất yếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ, đó là biểu hiện
của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng.

10


Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái
mới tất yếu phải ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự nhiên, cái mới ra đời và
phát triển theo quy luật khách quan. Trong đời sống xã hội, cái mới ra đời trên
cơ sở hoạt động có mục đích, có ý thức tự giác và sáng tạo của con ngƣời.Vì

vậy, cần nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có
niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái
mới thắng lợi. Do đó, cần khắc phục tƣ tƣởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm
hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định
cái cũ phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán; kế thừa những nhân tố hợp
quy luật và lọc bỏ, vƣợt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy
sự vật phát triển theo hƣớng tiến bộ.
1.2. Một số lý luận cơ bản về giáo dục và đào tạo
1.2.1. Khái niệm Giáo dục và Đào tạo
Giáo dục (tiếng Anh: education): về mặt động từ: là hoạt động nhằm
tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một
đối tƣợng nào đó, làm cho đối tƣợng ấy dần dần có đƣợc những phẩm chất và
năng lực nhƣ yêu cầu đề ra; về mặt danh từ: là hệ thống các biện pháp và cơ
quan giảng dạy giáo dục của một nƣớc [20; tr. 379].
Đào tạo: chỉ sự bồi dƣỡng, chuẩn nghề trong các trƣờng chuyên nghiệp
và trƣờng nghề. Đào tạo đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề
nghiệp hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để ngƣời học lĩnh hội
và nắm vững những tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để
chuẩn bị cho ngƣời đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận đƣợc
một công việc nhất định. Khái niệm đào tạo thƣờng có nghĩa hẹp hơn khái niệm
giáo dục, thƣờng đào tạo đề cập đến giai đoạn sau, khi một ngƣời đã đạt đến
một độ tuổi nhất định, có một trình độ nhất định. Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo

11


cơ bản và đào tạo chuyên sâu, đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề, đào tạo lại,
đào tạo từ xa, tự đào tạo,..., [21].
Giáo dục và đào tạo đều nhƣ nhau, đều là chỉ quá trình dạy và học, có

khác là giáo dục thì dùng chỉ việc dạy học ở cấp thấp, từ nhà trẻ đến hết phổ
thông, còn đào tạo chỉ việc dạy và học ở cấp cao hơn, từ chuyên nghiệp đến đại
học và sau đại học. Giáo dục và đào tạo là hoạt động có tổ chức, có mục đích
của xã hội, nhằm bồi dƣỡng và phát triển các phẩm chất và năng lực của con
ngƣời. “Giáo dục” và “Đào tạo” đều là hình thức học tập, trong đó kiến
thức, kỹ năng và thói quen của ngƣời thầy đƣợc chuyển giao sang ngƣời học
trò thông qua giảng dạy, nghiên cứu.
1.2.2. Các yếu tố chủ yếu của quá trình Giáo dục và Đào tạo
Một là, về đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên ngành giáo dục và đào tạo
Hồ Chí Minh đã nói:

“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”

Nên việc cần thiết phải xây dựng đƣợc đội ngũ cán bộ quản lý, giáo
viên có phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nâng
cao chất lƣợng giáo dục và đào tạo - chất lƣợng “trồng người”. Đội ngũ giáo
viên phải có đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, có ý chí vƣơn lên,
khả năng tiếp cận nhanh đƣợc các phƣơng pháp dạy học mới, hiện đại và có
tinh thần mạnh dạn áp dụng các phƣơng pháp hiệu quả; chuyển dạy học thụ
động sang dạy học tích cực, lấy ngƣời học làm trung tâm; đổi mới nội dung
và phƣơng pháp dạy học; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lí; có chính
sách đúng đắn trong việc phát hiện và sử dụng nhân tài;…
Cán bộ quản lý: Có trình độ, bản lĩnh, nhiệt tâm, thân thiện, có kinh
nghiệm điều hành và có ý chí vƣơn lên, sáng tạo trong tổ chức thực hiện
nhiệm vụ, làm đầu tàu cho đội ngũ sƣ phạm nhà trƣờng. Có tinh thần mạnh
dạn đổi mới, xây dựng đƣợc các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn

12



nhằm xây dựng nhà trƣờng theo hƣớng tiên tiến, hiện đại. Ứng dụng đƣợc
công nghệ thông tin trong công tác quản lý và dạy học; có khả năng báo cáo
chuyên đề và bồi dƣỡng chuyên môn cho giáo viên, phân công sắp xếp đội
ngũ hợp lý để phát huy khả năng của từng cá nhân. Rà soát, điều chỉnh quy
hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng và bố trí sắp xếp đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý cơ sở giáo dục theo quy định và phù hợp với tình hình thực tế.
Triển khai công tác đào tạo, bồi dƣỡng nhà giáo và cán bộ quản lý cơ
sở giáo dục đủ về số lƣợng, đồng bộ về cơ cấu và đảm bảo về chất lƣợng
theo hƣớng chuẩn hóa, theo quy hoạch, kế hoạch. Thực hiện đầy đủ, kịp thời
việc đánh giá theo chuẩn, các chế độ, chính sách đối với nhà giáo và cán bộ
quản lý cơ sở giáo dục, đặc biệt là các nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo
dục tại trƣờng giáo dục chuyên biệt cũng nhƣ các nhà giáo và cán bộ quản lý
có hoàn cảnh khó khăn. Tiếp tục quan tâm, chăm lo phát triển đội ngũ giáo
viên nói chung, giáo viên dạy học sinh khuyết tật, hòa nhập, giáo viên
chuyên biệt nói riêng.
Tăng cƣờng công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch; quản lí, đào tạo,
bồi dƣỡng nhằm xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý các cơ sở giáo
dục có phẩm chất đạo đức và tinh thần trách nhiệm cao, chuẩn hóa, đáp ứng
ngày càng cao hơn yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục. Tạo
bƣớc chuyển biến mạnh mẽ đối với giáo dục và đào tạo theo hƣớng “chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Xây dựng ngành giáo dục và đào tạo phát triển
cân đối về cơ cấu và quy mô, đa dạng về hình thức học tập, đáp ứng nhu cầu
học tập thƣờng xuyên, suốt đời của các tầng lớp nhân dân, hƣớng tới một xã
hội học tập.
Hai là, về người học
Nhƣ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “…Non sông Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở


13


công học tập của các cháu…” [9, tr.33]. Đảng và Nhà nƣớc ta xác định: Giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nƣớc phát triển giáo dục nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài coi “Hiền tài là nguyên
khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước thịnh, nguyên khí suy thì đất nước
suy”- theo Thân Nhân Trung. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi
dƣỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; Đào tạo những ngƣời
lao động có tay nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo
đức, có ý chí vƣơn lên góp phần làm cho dân giàu nƣớc mạnh, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đƣợc cụ thể hóa trong Luật
giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2014) và Chính sách giáo
dục và đào tạo của Đảng và Nhà nƣớc.
Thực hiện công bằng xã hội trong học tập bằng cách coi học tập là
quyền và nghĩa vụ của công dân, cần ban hành chính sách về học bổng và học
phí để khuyến khích và giúp đỡ ngƣời học gặp hoàn cảnh khó khăn, đảm bảo
cho tất cả mọi ngƣời đều đƣợc đi học, trong trƣờng học không có sự phân biệt
dân tộc, giàu – nghèo, tôn giáo, tín ngƣỡng, nam, nữ, nguồn gốc gia đình, địa
vị xã hội…, mọi công dân đều đƣợc bình đẳng về cơ hội học tập, để ngƣời
giỏi đƣợc phát huy tài năng.
Ba là, về cơ sở vật chất – kỹ thuật trong các cơ sở giáo dục
Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là coi phát triển giáo dục là sự nghiệp
của Nhà nƣớc và của toàn dân. Kêu gọi và huy động mọi nguồn lực trong xã
hội đầu tƣ vào giáo dục, đa dạng hóa các loại hình trƣờng học và các hình
thức giáo dục, xây dựng xã hội học tập đáp ứng nhu cầu học thƣờng xuyên,
học suốt đời của nhân dân nhƣ trong khẳng định của Lênin : “Học, học nữa,
học mãi”.
Văn kiện Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Huy động nguồn lực vật
chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt

chẽ giữa ngành giáo dục với các ban ngành đoàn thể các tổ chức chính trị -

14


xã hội để mở mang giáo dục, tạo điều kiện học tập cho mọi người trong xã
hội và Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát
triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người yếu tố của sự phát triển nhanh và bền vững” [9]. Nhà nƣớc ƣu tiên đầu tƣ vào
giáo dục và đào tạo nhƣ đầu tƣ về cơ sở vật chất cho trƣờng học, chuẩn hóa
và hiện đại hóa nhà trƣờng. Vì giáo dục và đào tạo đƣợc Nhà nƣớc xác định là
quốc sách hàng đầu, đầu tƣ cho giáo dục và đào tạo là đầu tƣ cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
Mở rộng quy mô giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội cần đảm
bảo chất lƣợng và nâng cao hiệu quả giáo dục, gắn với yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội, nhà nƣớc mở rộng quy mô giáo dục từ giáo dục mầm non đến giáo
dục đại học, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, phát triển giáo
dục bằng hình thức chính quy và không chính quy.
Tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo để tiếp cận chuẩn
mực giáo dục tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của nƣớc ta
theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tham gia đào tạo nhân lực trong
khu vực và thế giới để có đƣợc những đội ngũ chuyên gia giỏi phục vụ cho sự
nghiệp phát triển kinh tế nƣớc nhà.
Bốn là, vai trò giữa gia đình, nhà trường và xã hội
Nền giáo dục Việt Nam phát triển theo nguyên lý học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trƣờng gắn liền với xã hội và gia
đình. Sự nghiệp giáo dục thống nhất do Nhà nƣớc quản lý. Nhà nƣớc quản lý
hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chƣơng trình nội dung, kế hoạch
giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử, hệ thống văn bằng quốc gia.
Giáo dục là một hoạt động mang tính xã hội cao. Muốn thực hiện đƣợc
mục tiêu giáo dục toàn diện học sinh, cần phải coi trọng cả giáo dục nhà

trƣờng, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Chỉ riêng nhà trƣờng, chỉ riêng

15


ngành giáo dục thì không thể làm tốt công tác giáo dục toàn diện đƣợc. Quan
điểm chỉ đạo của Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo đã tiếp tục khẳng định: giáo dục nhà trường kết hợp với giáo
dục gia đình và xã hội.
Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục tháng 6/1957,
Bác Hồ căn dặn: phải nhất thiết liên hệ mật thiết với gia đình học sinh. Bởi vì
giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có giáo dục ngoài xã hội
và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn.
Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và
ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn.
Tăng cƣờng tham mƣu với các cấp ủy Đảng, chính quyền, phối hợp với
các ban, ngành, đoàn thể quan tâm chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào
tạo; thống nhất nhận thức về tầm quan trọng của công tác phối hợp 3 môi
trƣờng, nhà trƣờng, gia đình và xã hội trong giáo dục học sinh; coi sự phối
hợp là việc thực hiện thƣờng xuyên, liên tục ở mọi thời điểm và quá trình giáo
dục là quá trình lâu dài, không ngừng phát triển; xác định rõ trách nhiệm,
quyền hạn của từng môi trƣờng giáo dục; mỗi môi trƣờng giáo dục phải ý
thức luôn sẵn sàng phối hợp, chủ động phối hợp mà không có thái độ trông
chờ hay ỷ lại vào môi trƣờng giáo dục khác; việc giáo dục cho học sinh là
nhiệm vụ chung của nhà trƣờng, gia đình và xã hội; gia đình có trách nhiệm
phối hợp với nhà trƣờng và xã hội trong việc giáo dục cho con em mình, tránh
tƣ tƣởng ỷ lại, khoán trắng giáo dục học sinh cho nhà trƣờng; xây dựng cơ
chế phối hợp, qua đó tạo sự đồng thuận cao và huy động sự tham gia của toàn
xã hội cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.


16


1.3. Sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt
Nam hiện nay
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 2, giáo dục và đào tạo
nƣớc ta đã đạt đƣợc những thành tựu không nhỏ, góp phần quan trọng vào
thành công của sự nghiệp Đổi mới và đƣa nƣớc ta thoát khỏi tình trạng một
nƣớc nghèo.
Tuy nhiên, nhƣ nhận định trong

ết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban

chấp hành Trung ƣơng khóa XI thì đến nay, giáo dục và đào tạo nƣớc ta vẫn
chƣa thực sự là quốc sách hàng đầu để làm động lực quan trọng nhất cho phát
triển. Nhiều hạn chế, yếu kém của giáo dục và đào tạo đã đƣợc nêu từ Nghị
quyết Trung ƣơng 2 khóa VIII vẫn chƣa đƣợc khắc phục cơ bản, có mặt còn
nặng nề hơn. Chính vì vậy mà đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
đang trở thành một yêu cầu khách quan và cấp bách của sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nƣớc ta trong
giai đoạn hiện nay.
Trước hết, để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo thì Việt
Nam phải tìm đƣợc triết lý giáo dục cho mình. Mỗi nền giáo dục dựa trên một
hệ triết lý giáo dục có ảnh hƣởng mang tính quyết định đến nội dung, phƣơng
pháp dạy và học.
Giáo dục Mỹ có những triết lý giáo dục rõ ràng, thuyết phục, nhờ thế mà
có chất lƣợng tốt bậc nhất thế giới. Sự phát triển của xã hội Mỹ và vị thế cƣờng
quốc của Mỹ trên nhiều phƣơng diện là kết quả trực tiếp của nền giáo dục siêu
đẳng về tính khoa học và hiệu quả. Các triết lý giáo dục cốt lõi của Mỹ bao
gồm: Thuyết bản chất (Essentialism), thuyết trƣờng tồn (Perennialism), thuyết

tiến bộ (Progressivism), thuyết cải tạo xã hội (Social reconstructionism), thuyết
hiện sinh (Existentialism).

17


Theo tổ chức xuất bản sách giáo dục McGraw Hill Education (Mỹ),
thuyết bản chất đề cao việc dạy các nội dung mang tính bản chất thuộc các kiến
thức kinh điển và đạo đức, khuyến khích nhà trƣờng trở về với các vấn đề căn
bản, dựa trên chƣơng trình giáo dục cốt lõi mạnh và các tiêu chuẩn kinh điển
cao.
Thuyết trƣờng tồn chú trọng các chân lý phổ quát đƣợc kiểm nghiệm qua
thời gian, khuyến khích học sinh đọc “Những cuốn sách vĩ đại” (The Great
Books) để phát triển nhận thức các quan điểm triết học tạo nền tảng cho kiến
thức nhân loại (Mỹ rất chú trọng việc học sinh đọc những sách kinh điển trong
danh sách nhà trƣờng lựa chọn cho từng cấp học, dao động từ một vài trăm đến
một vài nghìn cuốn để giáo viên chọn cho học sinh của mình đọc, thảo luận
nhóm và viết thu hoạch).
Thuyết tiến bộ đòi hỏi nội dung các bài giảng ở trƣờng phải có sự liên
quan đến học sinh để các em mong muốn học. Chƣơng trình giảng dạy của nhà
trƣờng theo triết lý giáo dục này đƣợc xây dựng xoay quanh các trải nghiệm,
lợi ích, nhu cầu cá nhân của học sinh và tạo hứng thú, đam mê học tập.
Thuyết cải tạo xã hội nhƣ triết lý giáo dục đòi hỏi sự chú tâm trực tiếp và
kịp thời đến tệ nạn, thói hƣ tật xấu trong xã hội, đề cao sự kết hợp học với
hành, dựa trên niềm tin rằng giáo dục có thể và cần phải cải thiện, giải quyết
các vấn đề xã hội.
Thuyết hiện sinh xuất phát từ quan điểm về tự do ý thức của mỗi con
ngƣời và nhu cầu để mỗi ngƣời tự tạo dựng tƣơng lai cho bản thân. Trong một
nhà trƣờng, các học sinh đƣợc khuyến khích hiểu và đề cao tính độc nhất vô
nhị của bản thân và chịu trách nhiệm về các hành động của mình.

Theo Bộ trƣởng Phạm Vũ Luận: Việt Nam đã có triết lý giáo dục, ông
khẳng định: “tôi xin khẳng định triết lý trực tiếp của giáo dục chúng ta là
Nghị quyết 29 của Trung ương. Các quan điểm, đường lối của Đảng về phát

18


triển giáo dục, đào tạo thì nhiều nhưng gần đây nhất là Nghị quyết 29. Ở đây
thể hiện cả truyền thống tinh hoa, kinh nghiệm của cha ông ta trong quá trình
phát triển và làm giáo dục và cả những vấn đề cập nhật, hội nhập theo quan
điểm của chúng ta”. Phạm Vũ Luận cho rằng: việc đổi mới chƣơng trình,
sách giáo khoa là việc cần thiết. Vì sao cần thiết thì các bạn nghiên cứu Nghị
quyết 29 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo sẽ thấy
chúng ta phải chuyển nền giáo dục hiện nay đang chú trọng truyền thụ kiến
thức một chiều sang một nền giáo dục chú trọng hình thành, phát triển kỹ
năng, năng lực, phẩm chất của ngƣời học. Để làm đƣợc việc đó thì phải thay
đổi. Thầy thay đổi, trò thay đổi, cán bộ quản lý thay đổi, chƣơng trình thay
đổi, sách giáo khoa thay đổi, cách dạy, cách học và cách thi cử đều phải thay
đổi [27]. Để đáp ứng mục tiêu học tập: “Học để Biết. Học để Làm. Học để
Chung sống. Học để Tự lập” của UNESCO mà chúng ta cũng đã chọn theo.
Triết lý giáo dục với một nền giáo dục quan trọng y nhƣ Hiến pháp đối với
một quốc gia vậy.
Những hiện tƣợng liên quan đến hạn chế và yếu kém nặng nề đƣợc nêu
một cách khái quát trong kết luận ở Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung
ƣơng Khóa XI đƣợc phản ánh ngày càng nhiều trên các phƣơng tiện thông tin
đại chúng, tạo nên những bức xúc có chiều hƣớng ngày càng tăng trong công
luận. Chính vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo thành công
còn có ý nghĩa củng cố lòng tin vào Đảng và tƣơng lai của dân tộc.
Thứ hai, trong mấy thập niên gần đây đổi mới giáo dục và đào tạo là xu
thế toàn cầu. Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, khoa học và công

nghệ trên thế giới phát triển nhƣ vũ bão tạo ra những bƣớc tiến nhảy vọt, đặc
biệt trong các lĩnh vực điện tử - viễn thông, tin học và công nghệ thông tin.
Những thành tựu của sự phát triển này đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của
đời sống xã hội trong từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Để diễn đạt

19


bƣớc ngoặt trong tiến trình phát triển của nhân loại ngƣời ta đã nói đến một
thời đại tin học với sự bùng nổ thông tin và công nghệ đổi mới nhanh đến
mức chóng mặt. Đó chính là nền tảng khoa học – công nghệ của quá trình
toàn cầu hóa và sự phát triển của kinh tế tri thức. Những chuyển biến hết sức
mạnh mẽ này đã làm thay đổi, nếu không nói là đảo lộn nhiều triết lý, quan
niệm, phƣơng thức tổ chức và hoạt động của hầu hết các lĩnh vực mà trƣớc
hết và chủ yếu lại chính là giáo dục và đào tạo.
Tri thức mới đƣợc tạo ra với cấp số nhân, đƣợc phổ biến nhanh và rộng
đến mức không hình dung đƣợc lại có thể lƣu giữ những khối lƣợng khổng lồ
bằng những phƣơng tiện vô cùng gọn nhẹ và việc tìm kiếm, sử dụng dễ dàng
đến mức trẻ con cũng có thể làm đƣợc và thậm chí còn thao tác nhanh hơn
ngƣời lớn… Trong bối cảnh ấy kiến thức chuyên môn cụ thể rất nhanh lạc
hậu, cái mới luôn có cái mới hơn thay thế trong một thời gian ngắn. Đã xuất
hiện và trở nên rất phổ biến các lớp học điện tử, thƣ viện điện tử, các chƣơng
trình đào tạo từ xa, hội nghị trực tuyến… Cho đến hôm nay việc tìm kiếm
thông tin, kiến thức và giao lƣu qua mạng đã trở nên phổ biến hơn rất nhiều
so với việc đọc sách, báo giấy trƣớc đây. Đã trở thành câu nói cửa miệng của
rất nhiều ngƣời, rằng với đà phát triển của công nghệ thông tin nhƣ hiện nay,
không thể biết trƣớc điều gì sẽ xảy ra.
Các nƣớc, bắt đầu từ những nƣớc có nền khoa học phát triển, từ nhiều
thập niên gần đây đã tiến hành xem xét lại toàn bộ hệ thống giáo dục của
mình và một chuyển biến tƣơng đối rõ là họ chuyển dần từ dạy kiến thức

chuyên môn sang dạy cách tự học. Việc học tập không chỉ thực hiện ở nhà
trƣờng mà có thể ở nhà hoặc ở bất cứ đâu. Cơ hội học tập không chỉ dành cho
với lứa tuổi cắp sách đến trƣờng mà với bất cứ ai. Triết lý xã hội học tập, học
suốt đời dần hình thành.

20


×