ĐẦU TƯ THEO CHU KỲ KINH TẾ
Một chu kỳ là một chuỗi các sự kiện lặp lại theo thời gian. Kết quả có thể khơng giống nhau mỗi lần nhưng có các
đặc điểm khá giống nhau. Lấy ví dụ thời tiết bốn mùa. Mỗi năm chúng ta có mùa xuân, mùa hè, mùa thu và mùa
đông. Sau mùa đông, chúng ta lại có mùa xuân và chu kỳ của thời tiết sẽ lại bắt đầu. Tuy nhiên, mùa hè năm nay sẽ
khơng giống như mùa hè năm ngối vì nhiệt độ có sự thay đổi hàng năm.
Các sự kiện trong vịng đời của chu kỳ thị trường khơng đơn thuần là các sự kiện nối tiếp nhau, mà quan trọng hơn
thế nhiều, sự kiện này là nguyên nhân của sự kiện tiếp theo.
Hiểu về chu kỳ dài hạn trên thị trường chứng khoán giúp bạn xác định xu hướng thị trường chung và các chu kỳ
ngắn hạn, nhờ đó giúp bạn xác định thời điểm để nhảy vào và thoát ra khỏi thị trường chứng khốn.
Nhà đầu tư có thể được đạt được hiệu suất đầu tư tốt hơn nhờ nắm bắt được họ đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ thị
trường, chiến lược đầu tư kiểu này gọi là đầu tư theo chu kỳ.
1
Hình 1. Thời điểm tốt để đầu tư theo từng lĩnh vực
Biểu đồ TRONG HÌNH SỐ 2 thể hiện đỉnh thị trường và sau đó suy giảm trong giai đoạn năm 2007 đến 2008 khi thị
trường tài chính sụt giảm mạnh và suy thoái kinh tế xảy ra (ND-biểu đồ cho thấy thị trường tạo đáy khi nền kinh tế
tiếp tục suy thoái, và thị trường đạt đỉnh khi nền kinh tế còn đang đi lên).
Dưới đây thảo luận về cách sử dụng biểu đồ chu kỳ kinh tế và chu kỳ thị trường, và cách vận dụng để đầu tư vào 11
lĩnh vực trong nền kinh tế. Hãy nhớ cuộc thảo luận về chu kỳ này dựa trên lý thuyết, có thể sẽ khơng lặp lại chính
xác 100%, nhưng sẽ có nhiều điểm tương đồng có thể tham khảo cho các chu kỳ mới.
Xin lưu ý: Phân tích này chủ yếu dựa vào vĩ mơ. Nghĩa là phân tích này phù hợp hơn để đầu tư với các mục tiêu
trung hạn (trên 2 tháng) và dài hạn (trên 365 ngày). Mặc dù phân tích này có thể khơng phù hợp với các nhà giao
dịch theo ngày, nhưng tôi nghĩ nắm bắt được một viễn cảnh vĩ mơ có thể hữu ích cho các chiến lược giao dịch swing
theo ngày.
Ngồi ra, ngày nay các ngân hàng trung ương và các chính phủ có xu hướng phản ứng ngày càng nhanh hơn trong
hỗ trợ nền kinh tế bằng các chính sách tiền tệ, tài khoá khi nền kinh tế suy thoái, điều này có thể làm cho giai đoạn
giảm chậm kéo dài hơn và giai đoạn suy thoái diễn ra nhanh hơn trước đây.
2
8 GIAI ĐOẠN TRONG MỘT CHU KỲ THỊ TRƯỜNG
Thị trường chứng khốn đi theo mơ hình chung gồm thị trường bị tót và thị trường gấu. Thị trường bị tót nghĩa là
đa số cổ phiếu trong thị trường thường tăng giá. Thị trường con gấu nghĩa là đa số cổ phiếu thường giảm giá. Khi
nhìn vào một chỉ số thị trường chung, chẳng hạn như DJIA, NASDAQ, VNINDEX… có thể thấy được tổng thể các
giai đoạn thị trường tương ứng.
Chu kỳ thị trường chứng khốn có thể chia nhỏ thành 8 giai đoạn với hiệu suất của các ngành là khác nhau ở mỗi
giai đoạn:
1. Đầu thị trường bị tót– Early Bull
2. Giữa thị trường bị tót – Mid Bull
3. Cuối thị trường bị tót – Late Bull
4. Đỉnh thị trường – Top
5. Đầu thị trường gấu – Early Bear
6. Giữa thị trường gấu – Mid Bear
7. Cuối thị trường gấu – Late Bear
8. Đáy thị trường – Bottom.
6 GIAI ĐOẠN TRONG MỘT CHU KỲ KINH TẾ
Chu kỳ kinh tế chỉ đơn giản là những vòng lặp lại của chu kỳ phục hồi và suy thoái kinh tế. Trong giai đoạn phục
hồi người tiêu dùng tăng chi tiêu và các doanh nghiệp tăng cường nỗ lực đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Trong giai đoạn suy thoái, người tiêu dùng chi tiêu ít hơn và các doanh nghiệp giảm cơng suất đang dư thừa. Chu kỳ
kinh tế có 6 giai đoạn, bao gồm:
1. Đầu giai đoạn phục hồi/đáy chu kỳ kinh tế – Early recovery/trough.
2. Giữa giai đoạn phục hồi – Mid recovery,
3. Giai đoạn cuối hồi phục – Late recovery,
4. Đầu giai đoạn suy thoái/Đỉnh chu kỳ kinh tế – Early recession / peak,
5. Giữa suy thoái – Mid recession,
6. Cuối suy thoái – Late recession.
3
ĐỒNG HỒ ĐẦU TƯ TÀI SẢN TÀI CHÍNH THEO CHU KỲ KINH TẾ
Hầu hết các biểu đồ chu kỳ kinh tế và chu kỳ thị trường đều cho thấy chu kỳ thị trường đi trước chu kỳ kinh tế.
Nguyên nhân là bởi là các chuyên gia tài chính và các nhà đầu tư nhìn thấy các dấu hiệu của chu kỳ kinh tế trước khi
báo cáo thực tế về một giai đoạn kinh tế được đưa ra, do đó thị trường chứng khốn ln đi trước như một chỉ báo
của nền kinh tế.
Đồng hồ thị trường ở hình trên cho thấy thời điểm tốt nhất để mua cổ phiếu là khi cuộc suy thoái kết thúc và sự phục
hồi bắt đầu. Các tín hiệu kinh tế khác xuất hiện quanh đồng hồ là những chỉ báo để hỗ trợ cho việc xác định chu kỳ
kinh tế. Dưới đây trình bày về Các lĩnh vực chiếm ưu thế – là các lĩnh vực mà cổ phiếu có thể tăng giá tốt hơn phần
còn lại – trong mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh tế. Trong trang thống kê nhanh các loại tài sản tài chính, giai đoạn thị
trường được thể hiện đầu tiên, giai đoạn kinh tế thể hiện thứ hai, và các dấu hiệu của giai đoạn kinh tế thứ ba.
1. Hàng tiêu dùng không theo chu kỳ: đầu thị trường gấu, tương ứng Cuối giai đoạn nền kinh tế phục hồi;
Các dấu hiệu: dự trữ ngoại hối tăng, các cổ phiếu vốn hóa lớn tăng, và giá các loại hàng hóa tăng.
2. Hàng tiêu dùng theo chu kỳ (lâu bền và không lâu bền): cuối thị trường gấu, tương ứng giai đoạn đỉnh
của chu kỳ kinh tế (đầu suy thoái kinh tế); Các dấu hiệu: lãi suất tăng và trái phiếu chính phủ ngắn hạn
tăng.
3. Chăm sóc sức khỏe (y tế, dược phẩm): tăng giá ở đầu thị trường gấu tương ứng giai đoạn cuối phục hồi
kinh tế; Các dấu hiệu: dự trữ ngoại hối tăng, Các cổ phiếu vốn hóa lớn tăng, các loại hàng hóa tăng.
4. Các cổ phiếu tài chính: tăng giá ở hai thời điểm là (1) cuối thị trường gấu, tương ứng đỉnh chu kỳ kinh tế
(cũng là giai đoạn đầu suy thoái kinh tế); Các dấu hiệu: thất nghiệp vượt lên và trái phiếu doanh nghiệp
vượt lên (2) đầu thị trường bị tót, tương ứng là giai đoạn cuối suy thoái kinh tế; Các dấu hiệu: lãi suất
ngân hàng vượt lên và trái phiếu chính phủ kỳ hạn ngắn vượt lên.
4
5. Cổ phiếu công nghệ: tăng giữa của đoạn đầu thị trường bị tót và giữa thị trường bị tót, tương ứng giai
đoạn đầu phục hồi kinh tế; các dấu hiệu: bất động sản rớt, trái phiếu lãi suất cao (trái phiếu rác, uy tín
thấp) vượt lên, và cổ phiếu vốn hóa nhỏ vượt lên.
6. Cơng nghiệp cơ bản (hay cơng nghiệp nặng): Cuối thị trường bị tót, tương ứng trước khi tới giai đoạn
giữ kinh tế hồi phục; Các dấu hiệu: lãi suất giảm mạnh (falling) và cổ phiếu vượt lên.
7. Các cổ phiếu tư liệu sản xuất (Capital goods): Từ giữa thị trường bị tót đến cuối thị trường bị tót, tương
ứng từ đầu giai đoạn kinh tế hồi phục đến giai đoạn giữa kinh tế hồi phục; các dấu hiệu: lãi suất rớt và cổ
phiếu vượt lên.
8. Cổ phiếu vận tải: đầu thị trường bị tót, tương ứng là cuối giai đoạn suy thối; Tín hiệu: tăng (rising) thất
nghiệp và trái phiếu doanh nghiệp tăng (rising corporate bonds).
9. Năng lượng: đỉnh của thị trường bị tót, tương ứng giữa giai đoạn kinh tế hồi phục; Tín hiêu: tài nguyên
lên giá (rising resources), các cổ phiếu giá trị lên giá (rising value stocks), và các trái phiếu liên kết lạm
phát lên giá (rising inflation linked bonds).
10. Tiện ích: ở giữa khoảng từ đầu đến giữa thị trường gấu (between early and mid bear), tương ứng cuối
giai đoạn kinh tế hồi phục; Tín hiệu: bất động sản lên giá.
11. Các kim loại q: đỉnh của thị trường bị tót, tương ứng giữa giai đoạn kinh tế phục hồi; tín hiệu: các tài
nguyên lên giá, các cổ phiếu giá trị lên giá, và các trái phiếu liên kết lạm phát lên giá.
Ngành hàng tiêu dùng không theo chu kỳ (Consumer non-Cyclicals) (1): Hay còn gọi là cổ phiếu phòng thủ, hoạt
động tốt trong suy thoái kinh tế do nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ trong nhóm này vẫn tiếp diễn bất kể nền kinh tế
thế nào. Cổ phiếu không theo chu kỳ đại diện cho những mặt hàng và dịch vụ mà người tiêu dùng và doanh nghiệp
không thể khơng có. Nếu nền kinh tế đột ngột lao dốc, mọi người vẫn cần những vật dụng thiết yếu. Khi nền kinh tế
đang tăng trưởng, các cổ phiếu này có xu hướng bị tụt lại phía sau. Tuy nhiên, trong thời kỳ suy thoái kinh tế, mức
tăng ổn định của chúng là cần thiết cho các nhà đầu tư. Đây là những hàng hóa thiết yếu và được coi là một chiến
thuật phịng thủ bởi vì các nhà đầu tư vẫn sẽ tạo ra lợi nhuận ngay cả trong một thời kỳ kinh tế ở đáy suy thoái.
Ngành hàng tiêu dùng theo chu kì (Consumer cyclicals) (2): Bao gồm những ngành như sản xuất ơ tơ, nhà đất, giải
trí, và bán lẻ. Những ngành này cũng có thể được chia ra thành hai nhóm là hàng tiêu dùng lâu bền và hàng tiêu
dùng không lâu bền. Hàng tiêu dùng theo chu kì lâu bền bao gồm những tài sản vật chất như dụng cụ hay xe cộ, còn
hàng tiêu dùng theo chu kì khơng lâu bền là những sản phẩm mà con người tiêu thụ nhanh như quần áo hay thức ăn.
Hiệu quả hoạt động của ngành hàng tiêu dùng theo chu kì liên quan mật thiết đến tình trạng của nền kinh tế. Nó đại
diện cho những hàng hóa và dịch vụ khơng cần thiết và được mua tùy theo sở thích. Trong giai đoạn kinh tế thu hẹp
hay suy thối, người dân thường khơng có thu nhập dư dả để mua sắm những hàng tiêu dùng theo chu kì này. Cịn
khi nền kinh tế đang mở rộng hay bùng nổ, thì doanh thu của những sản phẩm này sẽ tăng do chi tiêu dành cho
những nhu cầu này tăng.
Các công ty sản xuất hàng tiêu dùng theo chu kì sẽ phải chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những biến động trong chi tiêu
và tiêu dùng. Chi tiêu tiêu dùng bị tác động bởi các yếu tố trong nền kinh tế như lãi suất, lạm phát, tỉ lệ thất nghiệp
và mức tăng trưởng thu nhập. Khi tình hình nền kinh tế chuẩn bị xấu đi thì người tiêu dùng ít sẵn sàng để chi tiền
cho những sản phẩm khơng thiết yếu như ti vi màn hình phẳng, du lịch hay quần áo mới, xe hơi mới.
Công nghiệp cơ bản (hay công nghiệp nặng) – Basic industry (6): Lĩnh vực công nghiệp cơ bản hay vật liệu cơ bản
là loại cổ phiếu của các công ty tham gia vào việc phát hiện, phát triển và xử lý nguyên liệu thô. Lĩnh vực này bao
gồm khai thác và tinh chế kim loại, các sản phẩm hóa học và lâm sản. Lĩnh vực vật liệu cơ bản rất nhạy cảm với
những thay đổi trong chu kỳ kinh doanh. Bởi vì các công ty trong lĩnh vực này cung cấp vật liệu cho xây dựng,
chúng phụ thuộc vào một nền kinh tế mạnh.
5
Tư liệu sản xuất (capital goods) (7): Tư liệu sản xuất là tài sản hữu hình mà một doanh nghiệp sản xuất và sau đó
được một doanh nghiệp thứ hai sử dụng để sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ tiêu dùng. Tư liệu sản xuất bao gồm các
tài sản hữu hình, như các tịa nhà, máy móc, thiết bị, phương tiện và công cụ mà một tổ chức sử dụng để sản xuất
hàng hóa hoặc dịch vụ. Cổ phiếu tư liệu sản xuất là nhóm cổ phiếu sản xuất kinh doanh các tư liệu sản xuất. Các lĩnh
vực của nhóm này đa dạng, bao gồm các cơng ty sản xuất máy móc dùng để tạo ra tư liệu sản xuất, thiết bị điện,
hàng khơng vũ trụ và quốc phịng, kỹ thuật và dự án xây dựng. Hiệu suất của lĩnh vực Tư liệu sản xuất rất nhạy cảm
với những biến động trong chu kỳ kinh tế. Bởi vì nó phụ thuộc rất nhiều vào sản xuất, lĩnh vực này hoạt động tốt khi
nền kinh tế đang bùng nổ hoặc mở rộng. Khi điều kiện kinh tế trở nên tệ hơn, nhu cầu về tư liệu sản xuất giảm
xuống, thường làm giảm giá cổ phiếu trong ngành.
Ngành năng lượng (energy sector) (9): Là nhóm các cổ phiếu có liên quan đến hoạt động sản xuất và cung cấp năng
lượng. Ngành năng lượng gồm những công ty tham gia vào việc khảo sát và phát triển trữ lượng dầu khí, khoan lắp
dầu khí và lọc dầu. Ngành năng lượng cũng bao gồm các cơng ty điện năng tích hợp như năng lượng tái tạo và than
đá.
Năng lượng là một khái niệm lớn và bao trùm, dùng để diễn tả mạng lưới phức tạp và tương quan giữa các công ty
trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất và phân phối năng lượng cần thiết cho nền kinh tế, cũng
như tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất và vận chuyển. Các công ty trong ngành năng lượng có liên quan đến
nhiều loại năng lượng khác nhau. Phần lớn thì những cơng ty năng lượng thường được phân loại dựa trên nguồn của
dạng năng lượng mà họ sản xuất; và thường rơi vào một trong hai nhóm sau:
– Năng lượng không tái tạo: – Dầu mỏ – Khí tự nhiên – Xăng – Dầu diesel – Dầu đốt – Hạt nhân
– Năng lượng tái tạo: – Thủy điện – Nhiên liệu sinh học (vd ethanol) – Năng lượng gió – Năng lượng mặt trời.
Cơng ty sản xuất dầu khí thường hoạt động tốt trong các giai đoạn giá cả dầu khí leo thang. Tuy nhiên, các cơng ty
năng lượng thường bị giảm thu nhập khi giá hàng hóa năng lượng giảm. Ngược lại, những cơng ty lọc dầu hưởng lợi
từ việc giảm thiểu chi phí nguyên liệu để sản xuất thành phẩm dầu (như xăng, diezen) khi giá dầu thơ giảm. Ngồi
ra, ngành năng lượng cũng nhạy cảm với các sự kiện chính trị mà trong quá khứ đã nhiều lần dẫn đến biến động lớn
trên giá dầu.
Mỗi loại cơng ty trong ngành năng lượng đều có vai trò riêng trong việc mang năng lượng đến các doanh nghiệp và
người tiêu dùng. Một số loại công ty trong ngành năng lượng bao gồm: Khoan lắp và sản xuất dầu khí, bọc ống và
lọc dầu, dịch vụ cơng cộng điện và khí tự nhiên, cơng ty khai thác, năng lượng tái tạo, hóa chất.
Ngành tiện ích (Utilities sector) (10): Là một tập hợp các công ty cung cấp những tiện nghi cơ bản như điện, nước,
khí tự nhiên, dịch vụ chất thải và đập ngăn nước. Nhà đầu tư thường xem ngành tiện ích là khoản nắm giữ dài hạn và
sử dụng chúng để vun đắp thêm dòng thu nhập cố định cho danh mục đầu tư của họ. Ngành tiện tích thường cho nhà
đầu tư những khoản cổ tức đều và ổn định, cùng với mức dao động giá tương đối thấp hơn thị trường cổ phiếu
chung. Vì các lí do này, ngành tiện ích thường hoạt động tốt trong những giai đoạn suy thoái.
Trái lại, các cổ phiếu tiện ích thường khơng được thị trường ưa chuộng trong những thời kì kinh tế tăng trưởng. Có
nhiều loại hình cơng ty tiện ích như điện, khí tự nhiên, cấp nước.
Một số doanh nghiệp tiện ích khác hoạt động dựa trên nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo như tua bin gió
và pin mặt trời để sản xuất điện.
Nhìn chung nhóm ngành này được phân thành bốn mảng cung ứng là:
– Công ty phát điện: Hoạt động là tạo ra năng lượng điện.
– Công ty vận hành mạng năng lượng: Là các công ty vận hành đường dây, mạng lưới địa phương và mạng lưới
phân phối, bán quyền truy cập vào mạng lưới của họ cho các công ty bán lẻ dịch vụ.
6
– Công ty tiếp thị và giao dịch năng lượng: Bằng cách mua và bán các hợp đồng tương lai năng lượng, công cụ phái
sinh và tạo ra những “sản phẩm được cơ cấu” phức tạp; những công ty này hỗ trợ bảo đảm cho các doanh nghiệp
tiện ích và sử dụng nhiều năng lượng một nguồn cung điện ổn định và có mức giá được báo trước.
– Cơng ty cung cấp và bán lẻ năng lượng.
7
TÌM HIỂU THÊM VỀ 6 GIAI ĐOẠN TRONG MỘT CHU KỲ KINH
TẾ
Giai đoạn suy thoái là giai đoạn xảy ra sự sụt giảm GDP thực tế xảy ra trong ít nhất hai hoặc nhiều q. Suy thối tự
nó ni sống bản thân. Nhận biết giai đoạn suy thoái giúp bạn lên sẵn kế hoạch cho một trận đánh lớn vì khi kinh tế
chưa chạm tới đáy thì thị trường chứng khoán đã bắt đầu đảo chiều tăng trở lại chứ không phải khi kinh tế đã chạm
đáy. Một số đặc điểm thường gặp của suy thối là:
•
Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng lên
ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị,
nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
•
Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo là hiện
tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
•
Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút
kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thối.
•
Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo khi các nhà đầu tư
cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm
xuống trong thời kỳ suy thoái.
Điểm đáy của chu kỳ kinh tế (Low Point), hay khủng hoảng kinh tế (Depression) là trạng thái nền kinh tế có tỷ lệ
thất nghiệp lớn, thu nhập hàng năm tuột giảm và sản xuất dư thừa. Đây là thời điểm mà GDP thực tế dừng tuột giảm
và bắt đầu mở rộng; là điểm thấp nhất trong chu kỳ kinh tế. Sớm hay muộn, suy thoái kinh tế sẽ chạm đáy của chu
kỳ kinh tế. Chu kỳ sẽ duy trì ở điểm thấp nhất này có thể là từ vài tuần đến nhiều tháng. Trong một số lần suy thoái,
chẳng hạn như trong những năm 1930, điểm thấp nhất của chu kỳ đã kéo dài trong nhiều năm. Đáy chu kỳ kéo dài
bao lâu tuỳ thuộc vào các yếu tố như sự hỗ trợ từ chính sách tiền tệ và tài khố của các chính phủ, chu kỳ nhân khẩu
học, chu kỳ thay đổi công nghệ…
Mở rộng và phục hồi kinh tế.
•
Đây là thời kỳ trong đó GDP thực tế tăng trưởng; sự phục hồi sau suy thoái. Khi doanh nghiệp bắt đầu
cải thiện một chút, các cơng ty sẽ th thêm một số ít công nhân và tăng đơn đặt hàng nguyên liệu từ
các nhà cung cấp. Đơn đặt hàng tăng dẫn đến các công ty khác cũng tăng sản xuất và phục hồi số
lượng công nhân. Việc làm nhiều hơn dẫn đến chi tiêu tiêu dùng nhiều hơn, hoạt động kinh doanh phát
triển hơn nữa và kéo theo việc làm tiếp tục tăng thêm. Các nhà kinh tế mô tả sự đi lên này trong chu kỳ
kinh doanh là một giai đoạn mở rộng và phục hồi.
Đỉnh chu kỳ kinh tế.
•
Là điểm mà GDP thực tế ngừng tăng và bắt đầu giảm; là điểm cao nhất của chu kỳ kinh tế. Ở đỉnh, hay
đỉnh cao nhất của chu kỳ kinh tế, việc leo thang trong mở rộng kinh doanh kết thúc. Việc làm, chi tiêu
tiêu dùng và sản xuất đạt mức cao nhất. Một đỉnh chu kỳ kinh tế, cũng giống như đáy suy thối, có thể
kéo dài trong một khoảng thời gian ngắn hoặc dài. Khi đỉnh chu kỳ kinh tế kéo dài trong một thời gian
dài, chúng ta đang trong thời kỳ thịnh vượng.
•
Thơng thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi nền kinh tế đã sang
pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế đổi chiều giữa mức âm và mức
dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu hiệu của suy thối vì nó tác động
tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội.
•
Trước đây, một chu kỳ kinh tế thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng hoảng, phục
hồi và hưng thịnh. Ở Việt Nam, trong một số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về chu
8
kỳ kinh tế thường gọi tên bốn pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên,
trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa nền kinh tế trở nên tiêu điều, thất nghiệp tràn lan,
các nhà máy đóng cửa hàng loạt, v.v… hiếm khi xảy ra do những biện pháp can thiệp của chính phủ để
giảm nhẹ hậu quả. Vì thế, một số lý thuyết mới chỉ nói về 3 pha là suy thối-phục hồi-hưng thịnh. Toàn
bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái.
KHÚC NGỌC TUYÊN
/>
9
10