Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

(TIỂU LUẬN) lý LUẬN của KINH tế – CHÍNH TRỊ mác – LÊNIN về các HÌNH THỨC BIỂU HIỆN của GIÁ TRỊ THẶNG dư TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG LIÊN hệ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.75 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

MƠN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN

TIỂU LUẬN
LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ – CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
VỀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN

MÃ MƠN HỌC: LLCT120205_04
THỰC HIỆN: Nhóm 11. Thứ 5, tiết 4-5
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Thị Quyết

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2020


DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2020-2021
Nhóm số 11 (Lớp thứ 5, tiết 4-5)
STT

Họ và tên

1

Ngô Hữu Đạt

2


Nguyễn Ngọc Hậu

3

Nguyễn Thị Huế

4

Phạm Tâm Thanh

5

Trần Thảo Diệu Trinh

6

Đỗ Minh Đức

7

Nguyễn Văn Quốc Trọng

-

Tỷ lệ % = 100%

-

Trưởng nhóm: Nguyễn Ngọc Hậu


Nhận xét của giáo viên:
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
Ngày tháng 12 năm 2020
Giáo viên chấm điểm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu.......................................................................................................... 1
3. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................. 2
CHƯƠNG 1: PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ........................................................ 3
1.1. Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản.................................................................. 3
1.2. Hàng hoá - sức lao động............................................................................................ 4
CHƯƠNG 2: CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG........................................................................... 5
2.1. Lợi nhuận.............................................................................................................................. 5
2.2. Lợi tức..................................................................................................................................... 7
2.3. Địa tô......................................................................................................................................... 8
2.3.1. Sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp .. .8

2.3.2. Bản chất của địa tơ tư bản chủ nghĩa........................................................... 8
2.3.3. Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa........................................................ 9
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG THỰC TIỄN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG............................................................................................ 11

3.1. Lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam........................................................... 11

3.2. Lợi tức trong nền kinh tế Việt Nam.................................................................. 12
3.1 Địa tô trong nền kinh tế Việt Nam....................................................................... 14
3.3.1. Vận dụng trong luật đất đai............................................................................... 14
3.3.2. Vận dụng trong thuế đất nông nghiệp....................................................... 15
3.3.3. Vận dụng trong việc cho thuê đất................................................................. 16
KẾT LUẬN.................................................................................................................................... 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................... 20


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Theo đánh giá của VI LêNin thì “Lý luận giá trị thặng dư là hòn đá tảng của học
thuyết kinh tế của C. Mac”. Các nhà tư bản để đạt được mục đích tối đa của mình họ đã
mua sức lao động của người công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản
phẩm và thu về giá trị thặng dư. Các nhà kinh tế học thường cho rằng mọi công cụ lao
động, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất khơng phải là
tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ
trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bót lột lao
động làm thuê. Ta có thể định nghĩa chính xác tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư
bằng cách bóc lột cơng nhân làm thuê. Giá trị thặng dư, phần giá trị do lao động của
công nhân làm thuê sáng tạo ra ngồi sức lao động và tư bản chiếm khơng. Chính vì vậy
mà sản xuất giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung chính của quy luật thặng
dư. Nó quyết định đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng một xã
hội khác cao hơn là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc
nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư có vai trị rất quan trọng, nó có ý nghĩa rất quan
trọng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy mà tôi đã chọn đề tài “Lý
luận của kinh tế – chính trị mác – lênin về các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
trong nền kinh tế thị trường. liên hệ thực tiễn” cho bài tiểu luận của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu và làm sáng tỏ nội dung về Lý luận của kinh tế – chính trị Mác
– Lênin về các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị
trường và liên hệ thực tiễn với nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay.
Trang bị cho sinh viên hệ thống tri thức lý luận cốt lõi kinh tế chính trị
Mác – Lenin về giá trị thặng dư trong trong bối cảnh phát triển mới của Việt
Nam và thế giới ngày nay. Đảm bảo tính hệ thống, cập nhật tri thức mới, gắn
với thực tiễn, tính sáng tạo, kỹ năng, tư duy, phẩm chất người học, tính liên
thơng. Trên cơ sở đó hình thành tư duy lý luận, kỹ năng phân tích, đánh giá
mối quan hệ giá trị thặng dư trong phát triển kinh tế - xã hôi của đât nuớc.

1


3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với tra cứu tài liệu, tổng hợp và
phân tích thông tin, nghiên cứu và đưa ra những nhận xét, đánh giá. Vận dụng quan
điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái qt và mơ tả, phân tích, tổng hợp.

2


CHƯƠNG 1: PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1.1. Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất
định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản, mà tiền chỉ biến thành tư
bản khi được sử dụng để bóc lột lao động của người khác.
Nếu tiền được dùng để mua bán hàng hố thì chúng là phương tiện giản đơn của
lưu thơng hàng hố và vận động theo cơng thức: Hàng- Tiền- Hàng(H-T-H), nghĩa là sự
chuyển hố của hàng hoá thành tiền tệ, rồi tiền tệ lại chuyển hố thành hàng. Cịn tiền

với tư cách là tư bản thì vận động theo cơng thức: Tiền - Hàng - Tiền (T-H-T), tức là sự
chuyển hoá tiền thành hàng và sự chuyển hoá ngược lại của hàng thành tiền. Bất cứ tiền
nào vận động theo công thức T-H-T đều được chuyển hố thành tư bản.
Do mục đích của lưu thơng hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng nên vịng lưu
thơng chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những người trao đổi đã có được giá trị sử dụng mà
người đó cần đến. Cịn mục đích lưu thơng của tiền tệ với tư cách là tư bản không phải
là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền thu bằng
số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vơ nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn
tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là: T-H-T’, trong đó T’= T + ∆T. ∆T
là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng ra ban
đầu chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích
của lưu thơng T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động T-H-T’
là khơng có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là khơng có giới hạn.

Sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thơng theo cơng
thức T-H-T’, do đó cơng thức này được gọi là công thức chung của tư bản.
Tiền ứng trước, tức là tiền đưa vào lưu thông, khi trở về tay người chủ
của nó thì thêm một lượng nhất định (∆T). Vậy có phải do bản chất của lưu
thông đã làm cho tiền tăng thêm, và do đó mà hình thành giá trị thặng dư hay
khơng? Các nhà kinh tế học tư sản thường quả quyết rằng sự tăng thêm đó
là do lưu thơng hàng hố sinh ra. Sự quả quyết như thế là khơng có căn cứ.
C.Mác cho rằng trong xã hội tư bản khơng có bất kì một nhà tư bản nào chỉ đóng
vai trị là người bán sản phẩm mà lại không phải là người mua các yếu tố sản xuất. Vì
vậy khi anh ta bán hàng hố cao hơn giá trị vốn có của nó, thì khi mua các yếu tố sản

3


xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị và như vậy cái được lợi khi
bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối cùng vẫn khơng tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T.

Nếu hàng hố được bán thấp hơn giá trị, thì số tiền mà người đó sẽ được lợi khi là
người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là người bán. Như vậy việc
sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua hàng thấp hơn giá trị của nó.

Đối với hàng hố ngồi lưu thông: Tức là đem sản phẩm tiêu dùng
hay sử dụng và sau một thời gian tiêu dùng nhất định thì thấy cả giá trị sử
dụng và giá trị của sản phẩm đều biến mất theo thời gian.
Đối với yếu tố tiền tệ: Tiền tệ ở ngồi lưu thơng là tiền tệ nằm im một chỗ.
Vì vậy khơng có khả năng lớn lên để sinh ra ∆T. Vậy ngoài lưu thơng khi xem xét
cả hai yếu tố hàng hố và tiền tệ đều khơng tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T.

“Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thơng và cũng khơng thể
xuất hiện ở bên ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thơng và
đồng thời không phải trong lưu thông” (C. Mác: Tư bản. NXB Sự thật, HN,
1987, Q1, tập 1, tr 216). Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.

1.2. Hàng hoá - sức lao động
Số tiền chuyển hoá thành tư bản không thể tự làm tăng giá trị mà phải
thông qua hàng hố được mua vào (T-H). Hàng hố đó phải là một thứ hàng hoá
đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ
hàng hố đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con
người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình sản xuất
ra một giá trị sử dụng. Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà
sức lao động chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định.

4


CHƯƠNG 2: CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ

TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
2.1. Lợi nhuận
Số tiền chuyển hố thành tư bản khơng thể tự làm tăng giá trị mà phải thơng qua
hàng hố được mua vào (T-H). Hàng hố đó phải là một thứ hàng hố đặc biệt mà giá trị
sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hố đó là sức lao động
mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường. Như vậy, sức lao động là tồn bộ thể lực và trí
lực tồn tại trong cơ thể con người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong
q trình sản xuất ra một giá trị sử dụng. Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng
hoá, mà sức lao động chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi
sống người công nhân, vợ con anh ta; những yếu tố tinh thần, dân tộc, tôn giáo của
người cơng nhân, những chi phí đào tạo người cơng nhân.

Để làm rõ bản chất của lợi nhuận, C – Mác bắt đầu phân tích làm rõ chi phí
sản xuất. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị của hàng hóa, bù lại giá cả
của những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá cả của sức lao động đã được sử
dụng để sản xuất ra hàng hóa đấy. Đó là chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất
ra hàng hóa. Chi phí sản xuất được tính theo cơng thức: k = c + v. Như vậy, về bản
chất của lợi nhuận, trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi
phí sản xuất có một khoảng chênh lệch. Cho nên sau khi bán hàng hóa (bán ngang
giá), nhà tư bản không những bù đắp đủ số chi phí đã ứng ra mà cịn thu được số
chênh lệch bằng giá trị thặng dư. Số chênh lệch này Các Mác gọi là lợi nhuận.
Nhưng trong thực tiễn, trước khi các nhà tư bản quyết định ứng vốn cho quá
trình sản xuất kinh doanh thì cái mà các nhà tư bản quan tâm trước hết chưa phải là lợi
nhuận mà là tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo % giữa giá trị thặng dư
mà nhà tư bản bóc lột được, so với tư bản hay vốn đầu tư của nhà tư bản (ký hiệu là p’).
Tỷ suất lợi nhuận phản ánh đầy đủ hiệu quả kinh doanh và được tính theo cơng thức:

p’ =


5

. 100%


Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết đầu tư vào đâu thì có lợi
hơn. Do đó, việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực
thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản. Mức
tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
các nhà tư bản, mà phụ thuộc vào những nhân tố khách quan sau đây:
-

Tỷ suất giá trị thặng dư (m’): Lợi nhuận là hình thức biểu hiện của

giá trị thặng dư nên tỷ suất lợi nhuận cũng là sự biểu hiện của tỷ suất giá
trị thặng dư. Vì vậy, chúng có mối quan hệ với nhau
-

Sự gia tăng của tỷ suất giá trị thặng dư sẽ có tác động trực tiếp làm

tăng tỷ suất lợi nhuận: Trong kinh doanh giá trị thặng dư cũng là lợi nhuận nên tỉ
suất giá trị thặng dư càng cao thì ta sẽ thu được lợi nhuận càng lớn. Tức là trình
độ bóc lột của nhà tư bản đối với cơng nhân làm th càng nhiều thì chi phí sản
xuất tư bản càng nhỏ, nhà tư bản sẽ thu được mức lợi nhuận càng lớn do lao
động không công của công nhân tạo ra. Ngược lại nếu trình độ bóc lột của tư
bản càng ít thì người cơng nhân sẽ được trả lương với mức gần tương xứng với
sức lao động bỏ ra, thì nhà tư bản sẽ thu được ít lợi nhuận hơn.
-

Cấu tạo hữu cơ của tư bản: Cấu tạo hữu cơ c/v tác động tới chi phí sản xuất,


do đó tác động tới lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản
càng lớn thì tỷ lệ giá trị thặng dư hàng năm tăng lên, do đó tỷ suất lợi nhuận tăng.

-

Tiết kiệm tư bản bất biến: Trong điều kiện tư bản khả biến không đổi, nếu

giá trị thặng dư giữ nguyên, tiết kiệm tư bản bất biến làm tăng tỷ suất lợi nhuận.
Trong chủ nghĩa tư bản, do những đặc điểm, điều kiện khác nhau, nên cùng một
lượng tư bản như nhau đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau, thì tỷ suất lợi nhuận
đạt được lại khác nhau. Vì vậy, các nhà tư bản ra sức cạnh tranh kịch liệt với nhau và
dẫn tới việc hình thành lợi nhuận bình quân. Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận thu được
theo tỷ suất lợi nhuận bình quân (ký hiệu là P). Tỷ suất lợi nhuận bình qn được tính
bằng số bình quân gia quyền của các tỷ suất lợi nhuận như nhau: P =

()

. 100%

Nếu kí hiệu giá trị tư bản ứng trước là k thì lợi nhuận bình quân được tính như sau:

P=P.k
6


Khi lợi nhuận bình quân trở thành quy luật phổ biến chi phối các hoạt động kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường thì giá trị hàng hóa trở thành giá cả sản xuất. Giá cả
sản xuất là giá cả mang lại lợi nhuận bình qn và được tính như sau: GCSX = k +
Những điều kiện hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân, giá

cả sản xuất bao gồm: tư bản tự do di chuyển và sức lao động tự do di chuyển. Trong nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận bình quân đã trở thành căn cứ cho các
doanh nghiệp lựa chọn ngành nghề, phương án kinh doanh sao cho hiệu quả nhất.

Lợi nhuận thương nghiệp là sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua
hàng hóa. Nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp là một phần của giá trị
thặng dư mà nhà tư bản sản xuất trả cho nhà tư bản thương nghiệp do
nhà tư bản thương nghiệp đã giúp cho việc tiêu thụ hàng hóa.

2.2. Lợi tức
Trong kinh doanh, lợi tức có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, nó chính là minh
chứng thể hiện cho kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đó trong cả năm, trong
đó lợi tức của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận thu đạt được được sau các hoạt
động kinh doanh trên, hàng hoá, dịch vụ trừ đi giá thành tồn bộ sản phẩm hàng
hố, dịch vụ đã tiêu thụ và thuế theo quy định của pháp luật (trừ thuế lợi tức).

Các biểu hiện của lợi tức ở Việt Nam hiện nay:
Cơ sở chiết khấu ngân hàng: Trong lĩnh vực ngân hàng, trái phiếu đơn thuần sẽ
được niêm yết dựa trên cơ sở chiết khấu, hiểu theo một cách đơn giản thì nó có nghĩa là
lợi tức sẽ được ngân hàng báo cáo rõ trên tổng số tiền mà khách hàng sẽ được ngân
hàng chi trả khi hợp đồng đáo hạn và tìm được nhà đầu tư trả giá thấp hơn để mua nó. Ở
trường hợp này thì lợi nhuận của nhà đầu tư ở đây chính là giá trị chiết khấu. Tuy nhiên
để có thể tính được khoản lợi tức được nhận thì nó cong phải căn cứ vào khoản chênh
lệch đã được chuyển đổi hóa sang tỷ lệ phần trăm hàng năm.
Lợi tức theo thời gian nắm giữ: Theo một định nghĩa cụ thể thì giá trị lợi tức trong
khoảng thời gian mà nhà đầu tư nắm giữ chỉ được tính trên cơ sở thời gian nắm giữ.
Lợi tức hiệu dụng năm: So với những phương thức thơng thường khác thì lợi tức
hiệu dụng năm được xem là cách có thể giúp các doanh nghiệp xác định lợi tức một cách

7



chính xác hơn, đặc biệt là trong trường hợp khi doanh nghiệp đã có sẵn các
cơ hội đầu tư thay thế cho việc phải áp dụng việc tính lãi kép. Trong đó lãi
kép chính là khoản lãi mà doanh nghiệp thu được từ nguồn lãi trước đó.
Lợi tức thị trường tiền tệ (lợi tức tương đương chứng chỉ tiền gửi): Lợi tức
thị trường tiền tệ là chỉ số có thể giúp doanh nghiệp so sánh được các khoản lãi
thông qua một công cụ thị trường tiền tệ với lợi tức được viết trên trái phiếu kho
bạc với lãi từ một công cụ thị trường tiền tệ. Đây thường sẽ là những khoản đầu tư
có thời hạn ngắn hạn và được phân loại như các khoản tương đương tiền.

2.3. Địa tô
2.3.1. Sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
nông nghiệp
So với lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp, quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa trong nông nghiệp xuất hiện muộn hơn. Trong lịch sử, quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa hình thành trong nơng nghiệp theo hai con đường điển hình:

Thứ nhất, dần dần chuyên nền nông nghiệp địa chủ phong kiến
sang kinh doanh theo phương thức sản xub tư bản chủ nghĩa sử dụng lao
động làm thuê. Ví dụ như ở Đức, Italia, Nga Sa hồng, …
Thứ hai, thơng qua cuộc cách mạng dn chủ tư sản, xóa bổ chế độ
canh tác ruộng đất theo kiểu phong kiến, phát triển chủ nghĩa tư bản
trong nống nghiệp. Ví dụ như ở Pháp, Anh, …
Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông
nghiệp là sự tồn tại của ba giai cấp chủ yếu: địa chủ (sở hữu ruộng đất),
nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp (các nhà tư bản thuê ruộng của địa
chủ để kinh doanh) và công nhân nông nghiệp làm thuê.

2.3.2. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa

Giống như tư bản kinh doanh trong công nghiệp, tư bản kinh doanh trong nông
nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng vì phải thuê ruộng của địa chủ
nên ngồi lợi nhuận bình qn, tư bản kinh doanh nơng nghiệp cịn phải thu thêm được
một phần giá trị thặng dư dôi ra nửa, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch

8


này tương đối ổn định, lâu dài và tư bản kinh doanh nơng nghiệp phải trả cho địa chủ
dưới hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa. Vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là phẩn giá trị thặng
dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phẩn lợi nhuận bình qn mà tư bản kinh doanh nơng
nghiệp phải nộp cho địa chủ. Thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là một hình thức
chuyển hóa của giá trị thặng dư siêu ngạch hay lợi nhuận siêu ngạch.

Phân biệt địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến.
-

Điểm giống nhau: đều là sự thực hiện về mặt kinh tế của quyền sở hữu về ruộng

đất. cả hai loại địa tơ đều là kết quả của sự bóc lột đối với người lao động nông nghiệp.
-

Điểm khác nhau: về mặt chất, địa tô phong kiến chỉ phản ánh quan hệ sản xuất

giữa hai giai cấp: địa chủ và nơng dân, trong đó địa chủ trực tiếp bóc lột nơng dn; cịn
địa tơ tư bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ sản xuất giữa ba giai cấp: địa chủ, tư bản kinh
doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp làm th, trong đó địa chủ gián tiếp bóc
lột cơng nhân nông nghiệp làm thuê thông qua tư bản kinh doanh nông nghiệp, về mặt
lượng địa tô phong kiến bao gồm tồn bộ phần sản phẩm thặng dư do nơng dân tạo ra,
có khi cịn lấn sang cả phần sản phẩm cần thiết; cịn địa tơ tư bản chủ nghĩa chỉ là một

phần của sản phẩm thặng dư, đó là phần sản phẩm tương ứng với phần giá trị thặng dư
dơi ra ngồi lợi nhuận bình qn của nhà tư bản kinh doanh nơng nghiệp.

2.3.3. Các hình thức địa tơ tư bản chủ nghĩa
-

Địa tô chênh lệch: Địa tô chênh lệch là phần địa tô thu được ở trên

những ruộng đất có lợi thế về điều kiện sản xuất (độ màu mỡ của đất đai tốt
hơn, vị trí gần thị trường, gần đường hơn, hoặc ruộng đất được đầu tư để thm
canh). Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung (được quy định bởi điều
kiện sản xuất trên ruộng đất xu nht) và giá cả sản xuất cá biệt. Hay có thể định
lượng: Địa tơ chênh lệch = Giá cả sản xuất chung - Giá cả sản xuất cá biệt
Chúng ta biết trong công nghiệp, giá cả sản xuất được quy định bởi điều kiện sản
xuất trung bình, cịn trong nơng nghiệp nếu giá cả sản xuất cũng được quy định trên
ruộng đất có điều kiện sản xuất trung bình thì trên ruộng đất xu sẽ khơng có người canh
tác và như vậy sẽ khơng đủ nơng phẩm để thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Vì vậy, trong
nông nghiệp giá cả sản xuất sẽ do điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất quy định.
Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch. Tuy nhiên, nếu như trong công

9


nghiệp sự tồn tại của lợi nhuận siêu ngạch chỉ là hiện tượng tạm thời đối với từng
tư bản cá biệt, thì trái lại, trong nơng nghiệp sự tồn tại của lợi nhuận siêu ngạch lại
có tính ổn định và lu dài. Nguyên nhân là do trong nông nghiệp ruộng đất là tư liệu
sản xuất cơ bản, ruộng đất tốt, xấu khác nhau, đại bộ phận là xấu. Do người ta
không tạo thêm được ruộng đất, mà những ruộng đất tốt lại bị độc quyền kinh doanh
kiểu tư bản chủ nghĩa cho thuê hết nên buộc phải thuê cả ruộng đất xấu. Điều đó làm
cho những nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn

luôn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và
lâu dài vì nó dựa trên tính cố định của ruộng đất và độ màu mỡ tự nhiên của đất đai.
Lợi nhuận siêu ngạch này sẽ chun hóa thành địa tơ chênh lệch.
Chúng ta đều biết, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, do có sự độc quyền tư hữu
ruộng đất, nên đã cản trở sự phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lĩnh
vực nơng nghiệp. Điều đó được thể hiện ở chỗ: nông nghiệp thường lạc hậu hơn so với
công nghiệp cả về kinh tế lẫn kỹ thuật, vì thế cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông
nghiệp thường thấp hơn trong công nghiệp. Điều này phản ánh một điều: nếu trình độ
bóc lột ngang nhau, thì một tư bản ngang nhau sẽ sinh ra trong nông nghiệp nhiều giá trị
thặng dư hơn trong công nghiệp. Sự hình thành địa tơ tuyệt đối là do cấu tạo hữu cơ của
tư bản trong nông nghiệp thấp hơn cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệp. Vậy,
địa tô tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dơi ra ngồi lợi nhuận bình qn,
được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nơng nghiệp thấp hơn trong cơng
nghiệp, nó là chênh lệch giữa giá trị nông sản với giá cả sản xuất chung của nông phẩm.

Giữa địa tô chênh lệch và địa tơ tuyệt đối có sự giống nhau và khác nhau:

Giống nhau: về thực chất, địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối đều là
lợi nhuận siêu ngạch, nguồn gốc của chúng đều là một bộ phận giá trị thặng
dư do lao động của công nhân làm thuê trong lĩnh vực nông nghiệp tạo ra.
Khác nhau: độc quyền kinh doanh ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô
chênh lệch, còn độc quyền tư hữu ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tơ tuyệt đối.
Vì vậy nếu khơng cịn chế độ tư hữu ruộng đất, khơng cịn giai cấp địa chủ, thì địa tơ
này sẽ bị xố bỏ, giá cả nơng sản phẩm sẽ hạ xuống có lợi cho người tiêu dùng.

10


CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG THỰC TIỄN CỦA GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

3.1. Lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam
Là 1 nước tiên tiến lên Chủ nghĩa xã hội chưa và “không đi qua giai đoạn phát
triển Tư bản chủ nghĩa” (cụ thể hơn là không qua đoạn thống trị của giai cấp tư sản)
chúng ta không được kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự phát như những
sáng tạo cho dù chúng ta là “những nhân tố vô cơ”. Điểm xuất phát để nhận thức tầm
quan trọng của lợi nhuận chính là điểm: sản phẩm của lao động thừa vượt qua những
chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích luỹ quỹ sản xuất xã hội và dự trữ “tất cả
những cái đó đã và mãi mãi vẫn là cơ sở cho mọi sự tiến bộ về xã hội, về chính trị và tinh
thần”. “Nó sẽ là điều kiện và động cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa” Chúng ta lựa chon
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là nước tiểu nông cũng có nghĩa là
từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hố mặc dù có sản xuất hàng hố. Các thiếu của
đất nước ta theo cách nói của Mác- khơng phải chủ yếu là cái đó, mà chính là chưa trải
qua sự ngự trị của cách thức tổ chức kinh tế của kinh tế xã hội theo kiểu chủ nghĩa tư
bản. Nói đến chủ nghĩa tư bản là nói đến một nền kinh tế thị trường cực thịnh mà biểu
hiện tập trung là trình độ chun mơn hố và hiệp tác hoá hết sức sâu sắc 31 và chặt chẽ
khơng chỉ trong mỗi quốc gia riêng biệt. Đó chính là nên sản xuất đa xã hội hố
ở trình độ cao trong thực tế, là “Cơ sở thực tế làm cho tất cả những cái gì tồn tại độc lập
với các cá nhân đều khơng thể có được” Theo tinh thần đó có thể nói: Nền kinh tế thị
trường cực thịnh là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa cơ sở những tiền đề
do chủ nghĩa tư bản sáng tạo ra nhờ sự phát triển mạnh mẽ lưu lượng sản xuất trên cơ
sở đó tạo ra một khối tiến bộ vượt bậc, cho sự phát triển phân công lao động sản xuất
trong thực tế trở thành hiện thực. Con đường đi tới xã hội hoá sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong thực tế của nước ta cũng phải như vậy. Những năm về trước chúng ta đã phạm sai
lầm là bỏ qua tính tuần tự của quá trình tất yếu khách quan là phải phát triển kinh tế hàng
hoá. Từ sai lầm ấy chúng ta phải trở về với Lênin để tìm con đường ra cho nền kinh tế
kém hiệu quả, một nền kinh tế mang lại q ít, thậm chí khơng mang lại lợi nhuận. Thực
chất của sự đổi mới về kinh tế của nước ta chính là: một mặt phát triển nền kinh tế hàng
hố nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác, phát

11



triển kinh tế hàng hoá tư nhân chủ nghĩa tư bản và “du nhập” chủ nghĩa tư bản từ bên
ngoài vào dưới nhiều hình thức kinh tế khác nhau. Tuy nhiên nền kinh tế của nước ta là
nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội (chứ không phải đi lên chủ nghĩa tư bản), do vậy
“cách thức tổ chức kinh tế xã hội” theo kiểu sản xuất hàng hố cũng mang tính chất q
độ. Nhưng dù nền kinh tế hàng hố nào thì sản phẩm sản xuất ra đều nhằm mục tiêu là
lợi nhuận. Có thế lợi nhuận với tư cách là phạm trù phản ánh mối quan hệ bình đẳng
giữa những người đã làm chủ tư liệu sản xuất nằm trong các hình thức kinh tế thuộc sở
hữu tồn dân có thế lợi nhuận phản ánh mối quan hệ bóc lột và bị bóc lột nhưng được
coi là nhân tố “ trợ thủ của chủ nghĩa xã hội”, “xúc tiến chủ nghĩa xã hội” là các “ có ích”
và “đáng mong đơi” Dù chúng phản ánh các quan hệ xã hội như thế nào đi nữa thì cốt lõi
của vấn đề là phải tạo điều kiện, tạo môi 32 trường cho sự gia tăng suất ngày càng cao.
Duy có điều đối với lợi nhuận tư nhân chủ nghĩa tư bản thì nhà nước cần có chính sách
hợp lý để không ngăn chặn sự phát triển của chung nhưng lại điều tiết được chúng đi
vào “khuân phép”. Trong bất cứ hình thức quan hệ xã hơkị nào thì lợi nhuận ln đóng
một vai trị cực kỳ quan trọng. Nếu khơng có lợi nhuận thì cả bên này lẫn bên kia đều
khơng có nguồn tích luỹ, mà khơng tích luỹ thì cho dù dó là q trình để lai sản xuất mở
rộng thì khơng có gì để tạo ra khối lượng gí trị ngày càng lớn, điều kiện tất yếu để mở
rộng sự phân công lao động xã hội. Ngồi ra khi nhà nước thuộc về nhân dân thì lợi
nhuận chính là phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta đang đứng trước
nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực tiến tuyệt đối cần thiết đó là sự phát triển của
sức sx, phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều lợi nhuận. Đó đạt được mục tiêu này
địi hỏi phải được diễn ra một cách tuần tự, đó cũng chính là những giai đoạn của một
quá trịnh lịch sử tự nhiên mà chúng ta chỉ có thể rút ngắn chứ khơng thể bỏ qua. Và đây
cũng là ý nghĩa thực tiễn được rút ra từ học thuyết lợi nhuận của Mac.

3.2. Lợi tức trong nền kinh tế Việt Nam
Sau cuộc cải cách kinh tế (12/1986). Đảng và nhà nước ta đã thay đổi quan điểm
về vấn đề lợi tức. Đảng và nhà nước đã chuyển đổi cơ chế kinh tế thị trường có sự quản

lý của nhà nước, quy định lại quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp để đảm bảo cho
mục tiêu theo đối với lợi nhuận và lợi tức của các doanh nghiệp. Với những thay đổi đó
thì chúng ta đã gặt hái được rất nhiều thành công. Với việc mở cửa nền kinh tế, hàng

12


hố từ nước ngồi tràn vào rất nhiều với mẫu mã và chủng loại rất đa dạng với giá cả thấp
nhưng vẫn đảm bảo về chất lượng. Đứng trước tình hình đó, để đảm bảo cho việc tồn tại và
phát triển của mình thì các doanh nghiệp, các đơn vị tổ chức sản xuất trong nước đã mạnh
dạn đầu tư cơng nghệ, máy móc hiện đại các sản xuất cùng 27 với nó là q trình đào tạo đội
ngũ cán bộ cộng nhân viên chức. Nhiều trường đại học và cao đẳng được hình thành hàng
năm đào tạo rất nhiều cán bộ được gửi ra nước ta rất nhiều cơ sở, đơn vị sản xuất kinh
doanh được trang bị máy móc hiện đại được nhập từ nước ngồi. Việc chú trọng đến lợi tức
là thúc đẩy đội ngũ cán bộ khoa học trong nước khơng ngừng tìm tịi sáng tạo và đã có rất
nhiều phát minh sáng chế ra đời đã mang lại nhiều tỷ đồng cho nhà nước và các doanh
nghiệp. Với mục tiêu lợi tức đặt lên hàng đầu thì từ sau cải cách đến nay hệ thống các doanh
nghiệp Việt Nam đã phát triển rất mạnh mẽ. Trước đây với cơ chế bao cấp, nhà nước chỉ chấp
nhận loại hình doanh nghiệp duy nhất đó là doanh nghiệp này trong thời kỳ đó hoạt động lại
rất kém hiệu quả. Nhưng từ sau cải cách với những sự thay đổi về quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp này có những bước chuyển mnh rõ rệt. Để đạt được lợi tức thì các doanh
nghiệp nhà nước dần dần chuyển đổi cách thức sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đầu tư kỹ
thuật công nghệ mới vào sản xuất. Cho đến nay cả nước có 91 tổng Cơng ty nhà nước gồm
1400 đơn vị sản xuất ra 67% tổng sản phẩm xã hội đây là một sự tiến bộ rõ rệt điều đó thể
hiện hướng đi đúng đắn của nhà nước. Cùng với doanh nghiệp nhà nước thì hệ thống doanh
nghiệp tư nhân cũng phát triển hết sức mạnh mẽ, nhiều hình thức doanh nghiệp tư nhân ra
đời góp phần đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân. Việc xoá bỏ mơ hình hợp tác xã tập trung
thực hiện giai đất, giao ruộng cho nơng dân đã khuyến khích bà con nơng dân, vì lợi ích của
mình mà hăng hái lao động. Chính điều này đã đưa nước ta từ một nước thiếu lương thực,
đói ăn trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 3 trên thế giới. Cùng với việc mở

cửa nền kinh tế, chúng ta cũng đồng thời mở rộgn quan hệ với các nước nhằm thu hút vốn
đầu tư của nứơc ngoài. Trong những 28 năm qua hàng chục tỷ đô la đã được đầu tư vào Việt
Nam, nhiều khu công nghiệp ra đời và đang hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, ngồi việc
hỗ trợ vốn cho phát triển kinh tế chúng ta còn ký kết được các nước phát triển giúp đỡ đào
tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chun mơn giỏi. Việc mở rộng quan hệ các nước phát triển đã
giúp chúng ta phát triển niều ngành mới như điện tủ, công nghệ thông tin, ô tô… tạo ra một
tiền để cho nên công nghiệp phát triển. Những thay

13


đổi trên đã làm cho đời sống của toàn xã hội được tăng lên rõ rệt, mức thu nhập
bình quân đầu người không ngừng tăng lên. Chúng ta không chỉ có nhu cầu “ăn
no, mặc ấm” mà bây giờ là chu cầu “ăn ngon, mặc đẹp”. Nhiều nhà cao tầng mọc
lên, phương tiện đi lại đã đưa cơ giới hoá mặt hàng dân trí đã được nâng lên.

3.1 Địa tơ trong nền kinh tế Việt Nam
3.3.1. Vận dụng trong luật đất đai
Đất đai là một tài nguyên quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các
cơ sở kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phịng. Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở
hữu của tồn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất, rừng cho các tổ
chức kinh tế hay đơn vị vũ trang để sử dụng. Để bổ sung cho nguồn ngân sách và thông
qua ngân sách thực hiện một số chính sách phát triển nơng nghiệp, những người th
đất phải đóng thuế cho nhà nước. Thuế này khác xa với địa tô tư bản chủ nghĩa và địa tô
phong kiến vì nó tập trung vào ngân sách đem lại lợi ích cho tồn dân, nó khơng mang
bản chất bóc lột của địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa.




mỗi chế độ, đất đai lại thuộc về thuộc về mỗi giai cấp khác nhau

như: sở hữu của thực dân Pháp, của địa chủ và quan lại quý tộc phong
kiến… Và cuối cùng Mác cũng đã kết luận: “mỗi bước tiến của nông nghiệp
tư bản chủ nghĩa là một bước tiến khơng những trong nghệ thuật bóc lột
người lao động mà còn là bước tiến về mặt làm cho đất đai bị kiệt quệ mà sự
bóc lột đó được thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó có địa tô.
Nhà nước đã ban hành luật đất đai để quy định một cách rõ ràng quyền và nghĩa vụ
của người dân theo những điều khoản như: điều 1, điều 4, điều 5, điều 12, điều 22, điều 79
luật đất đai. Ngoài ra, trong pháp luật về đất đai của nhà nước ta hiện nay cũng ban hành
những quy định để người dân phải trả tiền thuê đất (một hình thức của địa tô) khi sử dụng
đất một cách tự nguyện. Hiện nay, đất được cấp cho dân, dân có quyền sử dụng đất vào mục
đích của mình. Nếu đối với đất ở thì người dân chỉ phải nộp một khoản tiền thuê đất rất nhỏ
so với thu nhập của họ. Cịn đối với đất để làm nơng nghiệp thì người dân phải nộp thuế
nhưng họ có thể tự do kinh doanh trên đất của mình sao cho

14


thu được lợi nhuận cao nhất. Chẳng hạn như có vùng trồng lúa, có vùng
lại trồng đay và có vùng lại trồng cà phê, điều, bông….

3.3.2. Vận dụng trong thuế đất nông nghiệp
Thuế nông nghiệp ở đây không phải thể hiện sự bóc lột đối với nơng
dân mà đó là quyền và nghĩa vụ của mỗi cơng.
Để khuyến khích sử dụng đất nơng nghiệp có hiệu quả; thực hiện cơng
bằng, hợp lý sự đóng góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp vào
ngân sách Nhà nước; căn cứ vào điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Luật này quy định thuế sử dụng đất nông
nghiệp, cụ thể ở các điều 1 đến điều 10, điều 19, điều 21, điều 22, điều 23…

Việc miễn giảm thuế cho những người dân có hồn cảnh đặc biệt là một việc
khác xa so với việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự sáng tạo của đảng ta
trong việc vận dụng lý luận về địa tơ khi đề ra chính sách thuế nông nghiệp, động
viên thúc đẩy người dân sản xuất. Hiện nay, tổng cục thuế đã ban hành quy trình
miễn giảm thuế sử dụng đất nơng nghiệp số 137 TCT/ QD/ NV7 ngày 21/8/2001 cho
các đối tượng chính sách xã hội như: hộ gia đình có cơng với cách mạng, hộ gia
đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, hộ gia đình có nhiều khó khăn.

Sự khác biệt lớn nhất của việc quản lý đất đai và thu thuế bây giờ so với giai
đoạn tư bản chủ nghĩa là đất đai là của dân. Nhà nước trực tiếp quản lý và
điều hành, nhà nước giao đất cho dân làm nông nghiệp, thu thuế nhưng tạo
mọi điều kiện cho người dân sản xuất. Mặt khác nhà nước còn đưa ra một số
quy định cho thấy thuế trong nông nghiệp bây giờ giảm đi rất nhiều mà chủ
yếu là tăng thuế trong việc thuê đất để hoạt động phi nông nghiệp
-

Nếu chuyển quyền sử dụng đất đai mà được phép chuyển mục đích

từ đất nơng nghiệp sang phi nơng nghiệp thì thuế từ 20% - 40%, nếu đất nông
nghiệp chuyển sang xây dựng các cơng trình cơng nghiệp từ 40% sang 60%
-

Đối với các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng đất vào mục đích nơng

nghiệp thì khơng phải trả tiền sử dụng đất cho nông nghiệp, nếu sử dụng vào mục đích

15


khác thì phải trả tiền, thậm chí phải chuyển sang hình thức thuê đất nếu là

tổ chức sử dụng đất ở trong nước.

3.3.3. Vận dụng trong việc cho thuê đất
Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một cơng ty thì họ phải
th đất của nhà nước, họ phải trả cho nhà nước số tiền tương đương với diện tích
cũng như vị trí của nơi được thuê. Nhà nước đã quy định rất rõ việc thuê đất để kinh
doanh, trên cơ sở ấy, ta thấy rõ sự khác biệt và sự vận dụng lý luận địa tơ của Mác trong
thời đại ngày nay. Đó chính là việc nhà nước sử dụng những văn bản pháp lý quy định
quyền và nghĩa vụ của người thuê đất để người dân khi nộp tiền thuê đất đều tự nguyện
đóng góp. Trong việc th đất để kinh doanh thì người đã thuê đất của nhà nước sẽ phát
triển kinh doanh trên mảnh đất đó rồi lấy lợi nhuận mà mình làm ra để trả cho nhà nước
và số tiền đó sẽ vào ngân sách nhà nước. Hiện nay khơng chỉ có việc th đất trong
nơng nghiệp trong việc kinh doanh mà nhà nước cịn cho nước ngồi th đất để thu hút
đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam và tăng nguồn thu cho ngân sách.
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về luật đất đai, thuế nơng nghiệp cũng như trong
một số lĩnh vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tơ vẫn cịn tồn tại nhưng
về bản chất thì hồn tồn khác so với địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa. Tuy
nhiên trong việc sử dụng lý luận địa tô của C. Mác trong việc quản lý đất đai vẫn còn tồn
tại một số hạn chế. Chẳng hạn như nhà nước thu đất của nông dân với giá rất rẻ sau đó
quy hoạch xây dựng nhà ở và cho thuê với giá rất cao. Đây là vấn đề cần được kiến nghị
lên cấp có thẩm quyền nhằm có sự đền bù thoả đáng cho dân. Nếu như trong xã hội
phong kiến và tư bản chủ nghĩa, người sử dụng đất phải nộp tơ cho địa chủ thì ngày nay
tơ hay cịn nói các khác là thuế đất, thuế nhà, tiền thuê đất đều được nộp vào ngân sách
nhà nước. Nguồn ngân sách đó lại được dung vào những cơng việc nhằm xây dựng đấy
nước. Địa tô gắn liền với sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Địa tô đã
từng tồn tại trong các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cả trong
thời kì đầu của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, lý luận địa tô tư bản chất Mác không chỉ vạch
rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà cịn là cơ sở khoa
học để xây dựng các chính sách thuế đối với nông nghiệp và các ngành khác có liên
quan đến đất đai có hiệu quả hơn. Như vậy ta một lần nữa ta khẳng định rằng lý luận về


16


địa tô của C. Mác đã được đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo
và hợp lý. Tuy nhiên trong q trình thực hiện vẫn cịn tồn tại nhiều hạn chế
và nhà nước đang dần cải thiện để xây dựng một Việt Nam giàu mạnh
Như vậy, lợi nhuận, lợi tức, địa tô là một phạm trù không chỉ của riêng chủ nghĩa
tư bản. Nhưng vấn đề là tạo ra và sử dụng nó như thế nào để vừa phục vụ tốt cho mục
tiêu phát triển nên kinh tế thị trường của chúng ta, vừa đảm bảo quyền lợi của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, đảm bảo cơng bằng xã hội. Vai trị tích cực của giá trị
thặng dư đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước là rất to lớn, tuy vậy tác hại
của việc theo đuổi lợi nhuận, lợi tức, địa tô cũng rất nguy hiểm, nhất là đối với một nước
định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng còn kém phát triển như nước ta. Do đó vấn đề học
tập, nghiên cứu, vận dụng vấn đề lợi nhuận, lợi tức, địa tô cũng như các phạm trù khác
của chủ nghĩa Mac nhằm góp phần xây dựng thành cơng nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, thành công của công cuộc đổi mới là nhiệm vụ của mỗi người
sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.

17


KẾT LUẬN
Trong xu hướng phát triển kinh tế tri thức hiện nay, học thuyết giá trị
thặng dư của C. Mác vẫn giữ nguyên giá trị, chúng ta cần khai thác học thuyết
giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh
tế thị trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội trong nền kinh tế tri thức. Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác luôn là cơ
sở lý luận cho sự vận dụng vào quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Ngày nay, từ quan điểm đổi mới về

chủ nghĩa xã hội, học thuyết giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc
nghiên cứu, vận dụng học thuyết này ở nước ta trở thành một việc làm cần thiết.
Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nền
kinh tế hàng hóa ở nước ta có những đặc trưng riêng của nó, song đã là sản xuất hàng
hóa thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến gái trị và giá trị
thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị và giá
trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Do vậy, việc nghiên cứu tính phổ biến và
tính đặc thù của nền sản xuất hàng hóa tư bản, nghiên cứu những phạm trù, quy luật và
việc sử dụng chúng trong nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa từ di sản lý luận của
Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực tiễn ở Việt Nam hiện nay... Mục đích của sản xuất
tư bản chủ nghĩa khơng phải là sản xuất ra giá trị sử dụng, mà là sản xuất ra giá trị thặng
dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục đích,
động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư sản.
Sản xuất ra giá trị thặng dư quả thực là động lực vận động của athức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. C.Mác viết: “Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu, là nhân giá
trị lên, làm tăng giá trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thặng dư”.
Để sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản tăng cường bóc lột cơng
nhân làm thuê không phải bằng cưỡng bức siêu kinh tế (roi vọt), mà bằng cưỡng bức
kinh tế (kỷ luật đói rét) dựa trên cơ sở mở rộng sản xuất, phát triển kỹ thuật để tăng năng
suất lao động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động. Vậy sản xuất ra giá trị

18


thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. C.Mác viết: “Việc tạo ra
giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó”. Nội dung
chủ yếu của quy luật này là để thu được giá trị thặng dư một cách tối đa, nhà tư
bản đã tăng số lượng lao động làm th và tìm mọi thủ đoạn để bóc lột họ. Trong

giai đoạn hiện nay, các nhà tư bản thực hiện cải tiến kỹ thuật hoàn thiện tổ chức
sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị hàng
hoá. Đồng thời thu hút một đội ngũ các kỹ sư, quản lý, mà chức năng của họ suy
cho cùng là bảo đảm sử dụng có hiệu quả nhất tất cả các nhân tố của sản xuất
mà trước hết là sức lao động, nhờ đó mà tăng giá trị thặng dư.
Từ đó ta có thể kết luận rằng: Hàng hóa- sức lao động là nguồn gốc tạo ra
giá trị hơn thế nữa là giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Bởi vì, sức lao động xcàng
đem tiêu dùng hay sử dụng thì cơng nhân hay người lao động càng tích lũy
được nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp, càng nâng cao năng suất lao động. Vì vậy
sẽ làm giảm giá trị hay mức tiền lương mà nhà tư bản đã trả cho họ. Vì vậy, dưới
chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư bản rất ưa thích loại hàng hóa đặc biệt này.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ

nghĩa Mác - Lênin, Nhà xuất bản chính trị quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

2.

Ngọc Anh, Lợi nhuận là gì? Cách phân phối và sử dụng lợi

nhuận doanh nghiệp, “ Học viện kế toán
Đức Minh, [Đã truy cập ngày 20/12/2020].
3.


Phạm Điệp, Các vấn đề về lợi tức (2020),

“ Tạp chí Tủ sách khoa học, [Đã truy cập
ngày 21/12/2020].

4.

Bùi Thị Huyền, Vận dụng lý luận giá trị thặng dư của các mác

đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam (2017), nhà xuất bản Tri thức TP. Hồ Chí Minh.
5.
Hội Luật gia Việt Nam, Luật đất đai (2013), Nhà xuất bản Hồng
Đức.
6.

Phong Lê, Lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường,

“ Tạp chí cộng sản, [Đã truy cập ngày 19/12/2020]

7.

Hà Phương Thúy, Nền kinh tế thị trường (29/8/2001), Báo

pháp luật số 159. [Đã truy cập ngày 20/12/2020] .
8.

Hồ Thanh Thủy, Học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn nguyên

giá trị trong bối cảnh mới, “ Tạp chí

cộng sản, [Đã truy cập ngày 21/12/2020].


20



×