Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

LÝ LUẬN của KINH tế – CHÍNH TRỊ mác – LÊNIN về các HÌNH THỨC BIỂU HIỆN của GIÁ TRỊ THẶNG dư TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG LIÊN hệ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.88 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HCMUTE
MƠN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
TIỂU LUẬN
V'

v

xr

,

LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ - CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
VỀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN

MÃ MƠN HỌC: LLCT120205_04
THỰC HIỆN: Nhóm 11. Thứ 5, tiết 4-5
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Thị Quyết

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2020

„V


DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2020-2021
Nhóm số 11 (Lớp thứ 5, tiết 4-5)


Tỉ lệ %
STT

Họ và tên

MSSV

SĐT

hồn thành

1

Ngơ Hữu Đạt

19119164

100%

0345503189

2

Nguyễn Ngọc Hậu

19146329

100%

0977031416


3

Nguyễn Thị Huế

19146338

100%

0962009587

4

Phạm Tâm Thanh

19135039

100%

0865690052

5

Trần Thảo Diệu Trinh

19950022

100%

0886339486


6

Đỗ Minh Đức

19133021

100%

0923063576

7

Nguyễn Văn Quốc Trọng

19133060

100%

0335558753

Ghi chú:
-

Tỷ lệ % = 100%

-

Trưởng nhóm: Nguyễn Ngọc Hậu


Nhận xét của giáo viên:

Ngày tháng 12 năm 2020
Giáo viên chấm điểm


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Theo đánh giá của VI LêNin thì “Lý luận giá trị thặng dư là hòn đá tảng của học
thuyết kinh tế của C. Mac”. Các nhà tư bản để đạt được mục đích tối đa của mình họ đã
mua sức lao động của người công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản
phẩm và thu về giá trị thặng dư. Các nhà kinh tế học thường cho rằng mọi công cụ lao
động, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất khơng phải là
tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ
trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bót lột lao
động làm thuê. Ta có thể định nghĩa chính xác tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư
bằng cách bóc lột cơng nhân làm thuê. Giá trị thặng dư, phần giá trị do lao động của
công nhân làm thuê sáng tạo ra ngồi sức lao động và tư bản chiếm khơng. Chính vì vậy
mà sản xuất giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung chính của quy luật thặng
dư. Nó quyết định đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng một xã
hội khác cao hơn là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc
nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư có vai trị rất quan trọng, nó có ý nghĩa rất quan
trọng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy mà tôi đã chọn đề tài “Lý
luận của kinh tế - chính trị mác - lênin về các hình thức biêu hiện của giá trị thặng
dư trong nền kinh tế thị trường. liên hệ thực tiễn” cho bài tiểu luận của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu và làm sáng tỏ nội dung về Lý luận của kinh tế - chính trị Mác - Lênin
về các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường và liên hệ
thực tiễn với nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay.
Trang bị cho sinh viên hệ thống tri thức lý luận cốt lõi kinh tế chính trị Mác Lenin về giá trị thặng dư trong trong bối cảnh phát triển mới của Việt Nam và thế giới
ngày nay. Đảm bảo tính hệ thống, cập nhật tri thức mới, gắn với thực tiễn, tính sáng tạo,
kỹ năng, tư duy, phẩm chất người học, tính liên thơng. Trên cơ sở đó hình thành tư duy
lý luận, kỹ năng phân tích, đánh giá mối quan hệ giá trị thặng dư trong phát triển kinh
tế - xã hôi của đât nuớc.

4


3. Phương pháp nghiên cứu

Tiểu thơng
biện
luận
chứng
và nghiên
chủ
thực
nghĩa
hiện
dựa
vật
trên
lịch
cơvà
sở
sử,

phương
kết
hợp
pháp
vớitích,
tra
luận
cứu
của
tàihợp.
chủ
liệu,nghĩa
tổng quan
duy
hợp vật

tích
phân
tin,
cứuduy
và đưa
ra
những
nhận
xét,
đánh
giá.
Vận
dụng
diện

điểm

tồn
hệđược
thống,
kết
hợp
khái
qt

tả,
phân
tổng

5


CHƯƠNG 1: PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1.1.

Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng

bản thân tiền không phải là tư bản, mà tiền chỉ biến thành tư bản khi được sử dụng để
bóc lột lao động của người khác.
Nếu tiền được dùng để mua bán hàng hố thì chúng là phương tiện giản đơn của
lưu thơng hàng hố và vận động theo cơng thức: Hàng- Tiền- Hàng(H-T-H), nghĩa là sự
chuyển hoá của hàng hoá thành tiền tệ, rồi tiền tệ lại chuyển hoá thành hàng. Cịn tiền
với tư cách là tư bản thì vận động theo công thức: Tiền - Hàng - Tiền (T-H-T), tức là sự
chuyển hoá tiền thành hàng và sự chuyển hoá ngược lại của hàng thành tiền. Bất cứ tiền

nào vận động theo công thức T-H-T đều được chuyển hố thành tư bản.
Do mục đích của lưu thơng hàng hố giản đơn là giá trị sử dụng nên vịng lưu
thông chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những người trao đổi đã có được giá trị sử dụng mà
người đó cần đến. Cịn mục đích lưu thơng của tiền tệ với tư cách là tư bản không phải
là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền thu bằng
số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vơ nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn
tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là: T-H-T’, trong đó T’= T + AT.
AT là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng
ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục
đích của lưu thơng T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động
T-H-T’ là khơng có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là khơng có giới hạn.
Sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thơng theo cơng thức T-HT’, do đó cơng thức này được gọi là công thức chung của tư bản.
Tiền ứng trước, tức là tiền đưa vào lưu thông, khi trở về tay người chủ của nó thì
thêm một lượng nhất định (AT). Vậy có phải do bản chất của lưu thông đã làm cho tiền
tăng thêm, và do đó mà hình thành giá trị thặng dư hay khơng? Các nhà kinh tế học tư
sản thường quả quyết rằng sự tăng thêm đó là do lưu thơng hàng hố sinh ra. Sự quả
quyết như thế là khơng có căn cứ.


C.Mác cho rằng trong xã hội tư bản khơng có bất kì một nhà tư bản nào chỉ đóng
vai trị là người bán sản phẩm mà lại không phải là người mua các yếu tố sản xuất. Vì
vậy khi anh ta bán hàng hố cao hơn giá trị vốn có của nó, thì khi mua các yếu tố sảnxuất ở
đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị và như vậy cái được lợi khi
bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối cùng vẫn khơng tìm thấy nguồn gốc sinh ra
AT. Nếu hàng hố được bán thấp hơn giá trị, thì số tiền mà người đó sẽ được lợi khi là
người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là người bán. Như vậy việc
sinh ra AT không thể là kết quả của việc mua hàng thấp hơn giá trị của nó.
Đối với hàng hố ngồi lưu thơng: Tức là đem sản phẩm tiêu dùng hay sử dụng
và sau một thời gian tiêu dùng nhất định thì thấy cả giá trị sử dụng và giá trị của sản
phẩm đều biến mất theo thời gian.

Đối với yếu tố tiền tệ: Tiền tệ ở ngồi lưu thơng là tiền tệ nằm im một chỗ. Vì
vậy khơng có khả năng lớn lên để sinh ra AT. Vậy ngồi lưu thơng khi xem xét cả hai
yếu tố hàng hoá và tiền tệ đều khơng tìm thấy nguồn gốc sinh ra AT.
“Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng khơng thể xuất hiện ở
bên ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong
lưu thông” (C. Mác: Tư bản. NXB Sự thật, HN, 1987, Q1, tập 1, tr 216). Đó là mâu
thuẫn của cơng thức chung của tư bản.

1.2.

Hàng hố - sức lao động
Số tiền chuyển hố thành tư bản khơng thể tự làm tăng giá trị mà phải thơng qua

hàng hố được mua vào (T-H). Hàng hố đó phải là một thứ hàng hố đặc biệt mà giá
trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hố đó là sức lao
động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Như vậy, sức lao động là tồn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người,
thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong q trình sản xuất ra một giá trị sử
dụng. Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ biến
thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định.


CHƯƠNG 2: CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ
TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
2.1.

Lợi nhuận

Số tiền chuyển hố thành tư bản khơng thể tự làm tăng giá trị mà phải thơng qua
hàng hố được mua vào (T-H). Hàng hố đó phải là một thứ hàng hố đặc biệt mà giá

trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hoá đó là sức lao
động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường. Như vậy, sức lao động là tồn bộ thể
lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận
dụng trong q trình sản xuất ra một giá trị sử dụng. Không phải bao giờ sức lao động
cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch
sử nhất định. Giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần
thiết để nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta; những yếu tố tinh thần, dân tộc, tôn
giáo của người công nhân, những chi phí đào tạo người cơng nhân.
Để làm rõ bản chất của lợi nhuận, C - Mác bắt đầu phân tích làm rõ chi phí sản
xuất. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị của hàng hóa, bù lại giá cả của
những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá cả của sức lao động đã được sử dụng để sản
xuất ra hàng hóa đấy. Đó là chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất ra hàng hóa . Chi
phí sản xuất được tính theo cơng thức: k = c + v. Như vậy, về bản chất của lợi nhuận,
trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất có một
khoảng chênh lệch. Cho nên sau khi bán hàng hóa (bán ngang giá), nhà tư bản không
những bù đắp đủ số chi phí đã ứng ra mà cịn thu được số chênh lệch bằng giá trị thặng
dư. Số chênh lệch này Các Mác gọi là lợi nhuận.
Nhưng trong thực tiễn, trước khi các nhà tư bản quyết định ứng vốn cho quá trình
sản xuất kinh doanh thì cái mà các nhà tư bản quan tâm trước hết chưa phải là lợi nhuận
mà là tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo % giữa giá trị thặng dư mà
nhà tư bản bóc lột được, so với tư bản hay vốn đầu tư của nhà tư bản (ký hiệu là p’). Tỷ
suất lợi nhuận phản ánh đầy đủ hiệu quả kinh doanh và được tính theo cơng thức:
p’ = -^-.100%


Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết đầu tư vào đâu thì có lợi hơn. Do đó,
việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản, là
mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản. Mức tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của các nhà tư bản, mà phụ thuộc vào những nhân tố khách
quan sau đây:


-

Tỷ suất giá trị thặng dư (m’): Lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng
dư nên tỷ suất lợi nhuận cũng là sự biểu hiện của tỷ suất giá trị thặng dư. Vì vậy, chúng
có mối quan hệ với nhau

-

Sự gia tăng của tỷ suất giá trị thặng dư sẽ có tác động trực tiếp làm tăng tỷ suất
lợi nhuận: Trong kinh doanh giá trị thặng dư cũng là lợi nhuận nên tỉ suất giá trị thặng
dư càng cao thì ta sẽ thu được lợi nhuận càng lớn. Tức là trình độ bóc lột của nhà tư bản
đối với cơng nhân làm th càng nhiều thì chi phí sản xuất tư bản càng nhỏ, nhà tư bản
sẽ thu được mức lợi nhuận càng lớn do lao động không công của cơng nhân tạo ra.
Ngược lại nếu trình độ bóc lột của tư bản càng ít thì người cơng nhân sẽ được trả lương
với mức gần tương xứng với sức lao động bỏ ra, thì nhà tư bản sẽ thu được ít lợi nhuận
hơn.

-

Cấu tạo hữu cơ của tư bản: Cấu tạo hữu cơ c/v tác động tới chi phí sản xuất,
do đó tác động tới lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản
càng lớn thì tỷ lệ giá trị thặng dư hàng năm tăng lên, do đó tỷ suất lợi nhuận tăng.

-

Tiết kiệm tư bản bất biến: Trong điều kiện tư bản khả biến không đổi, nếu giá
trị thặng dư giữ nguyên, tiết kiệm tư bản bất biến làm tăng tỷ suất lợi nhuận.
Trong chủ nghĩa tư bản, do những đặc điểm, điều kiện khác nhau, nên cùng một


lượng tư bản như nhau đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau, thì tỷ suất lợi nhuận
đạt được lại khác nhau. Vì vậy, các nhà tư bản ra sức cạnh tranh kịch liệt với nhau và
dẫn tới việc hình thành lợi nhuận bình quân. Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận thu được
theo tỷ suất lợi nhuận bình quân (ký hiệu là P). Tỷ suất lợi nhuận bình qn được tính
bằng số bình quân gia quyền của các tỷ suất lợi nhuận như nhau: P' =

). 100%

Nếu kí hiệu giá trị tư bản ứng trước là k thì lợi nhuận bình quân được tính như sau:
P = p.k


Khi lợi nhuận bình quân trở thành quy luật phổ biến chi phối các hoạt động kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường thì giá trị hàng hóa trở thành giá cả sản xuất. Giá cả
sản xuất là giá cả mang lại lợi nhuận bình qn và được tính như sau: GCSX = k + p
Những điều kiện hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân, giá
cả sản xuất bao gồm: tư bản tự do di chuyển và sức lao động tự do di chuyển. Trong nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận bình quân đã trở thành căn cứ cho các
doanh nghiệp lựa chọn ngành nghề, phương án kinh doanh sao cho hiệu quả nhất.
Lợi nhuận thương nghiệp là sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hóa.
Nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp là một phần của giá trị thặng dư mà nhà tư bản
sản xuất trả cho nhà tư bản thương nghiệp do nhà tư bản thương nghiệp đã giúp cho việc
tiêu thụ hàng hóa.

2.2.

Lợi tức

Trong kinh doanh, lợi tức có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, nó chính là minh chứng
thể hiện cho kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đó trong cả năm, trong đó lợi tức của

doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận thu đạt được được sau các hoạt động kinh doanh trên,
hàng hoá, dịch vụ trừ đi giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ và
thuế theo quy định của pháp luật (trừ thuế lợi tức).
Các biểu hiện của lợi tức ở Việt Nam hiện nay:
Cơ sở chiết khấu ngân hàng: Trong lĩnh vực ngân hàng, trái phiếu đơn thuần sẽ
được niêm yết dựa trên cơ sở chiết khấu, hiểu theo một cách đơn giản thì nó có nghĩa là
lợi tức sẽ được ngân hàng báo cáo rõ trên tổng số tiền mà khách hàng sẽ được ngân hàng
chi trả khi hợp đồng đáo hạn và tìm được nhà đầu tư trả giá thấp hơn để mua nó. Ở
trường hợp này thì lợi nhuận của nhà đầu tư ở đây chính là giá trị chiết khấu. Tuy nhiên
để có thể tính được khoản lợi tức được nhận thì nó cong phải căn cứ vào khoản chênh
lệch đã được chuyển đổi hóa sang tỷ lệ phần trăm hàng năm.
Lợi tức theo thời gian nắm giữ: Theo một định nghĩa cụ thể thì giá trị lợi tức trong
khoảng thời gian mà nhà đầu tư nắm giữ chỉ được tính trên cơ sở thời gian nắm giữ.


Lợi tức hiệu dụng năm: So với những phương thức thơng thường khác thì lợi tức
hiệu dụng năm được xem là cách có thể giúp các doanh nghiệp xác định lợi tức một cáchchính
xác hơn, đặc biệt là trong trường hợp khi doanh nghiệp đã có sẵn các cơ hội đầu
tư thay thế cho việc phải áp dụng việc tính lãi kép. Trong đó lãi kép chính là khoản lãi
mà doanh nghiệp thu được từ nguồn lãi trước đó.
Lợi tức thị trường tiền tệ (lợi tức tương đương chứng chỉ tiền gửi): Lợi tức thị
trường tiền tệ là chỉ số có thể giúp doanh nghiệp so sánh được các khoản lãi thông qua
một công cụ thị trường tiền tệ với lợi tức được viết trên trái phiếu kho bạc với lãi từ một
công cụ thị trường tiền tệ. Đây thường sẽ là những khoản đầu tư có thời hạn ngắn hạn
và được phân loại như các khoản tương đương tiền.

2.3.

Địa tơ


2.3.1. Sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông
nghiệp
So với lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong nông nghiệp xuất hiện muộn hơn. Trong lịch sử, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
hình thành trong nơng nghiệp theo hai con đường điển hình:
Thứ nhất, dần dần chuyên nền nông nghiệp địa chủ phong kiến sang kinh doanh
theo phương thức sản xub tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê. Ví dụ như ở
Đức, Italia, Nga Sa hồng, ...
Thứ hai, thơng qua cuộc cách mạng dn chủ tư sản, xóa bổ chế độ canh tác ruộng
đất theo kiểu phong kiến, phát triển chủ nghĩa tư bản trong nống nghiệp. Ví dụ như ở
Pháp, Anh, ...
Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là sự
tồn tại của ba giai cấp chủ yếu: địa chủ (sở hữu ruộng đất), nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp (các nhà tư bản thuê ruộng của địa chủ để kinh doanh) và công nhân nông nghiệp
làm thuê.

2.3.2. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa


Giống như tư bản kinh doanh trong công nghiệp, tư bản kinh doanh trong nông
nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng vì phải thuê ruộng của địa chủ
nên ngồi lợi nhuận bình qn, tư bản kinh doanh nơng nghiệp cịn phải thu thêm được
một phần giá trị thặng dư dôi ra nửa, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạchnày
tương đối ổn định, lâu dài và tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho địa chủ
dưới hình thái địa tơ tư bản chủ nghĩa. Vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là phẩn giá trị thặng
dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phẩn lợi nhuận bình quân mà tư bản kinh doanh nông
nghiệp phải nộp cho địa chủ. Thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là một hình thức
chuyển hóa của giá trị thặng dư siêu ngạch hay lợi nhuận siêu ngạch.
Phân biệt địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến.


-

Điểm giống nhau: đều là sự thực hiện về mặt kinh tế của quyền sở hữu về ruộng
đất. cả hai loại địa tô đều là kết quả của sự bóc lột đối với người lao động nơng nghiệp.

-

Điểm khác nhau: về mặt chất, địa tô phong kiến chỉ phản ánh quan hệ sản xuất
giữa hai giai cấp: địa chủ và nơng dân, trong đó địa chủ trực tiếp bóc lột nơng dn; cịn
địa tơ tư bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ sản xuất giữa ba giai cấp: địa chủ, tư bản kinh
doanh nông nghiệp và công nhân nơng nghiệp làm th, trong đó địa chủ gián tiếp bóc
lột cơng nhân nơng nghiệp làm th thơng qua tư bản kinh doanh nông nghiệp, về mặt
lượng địa tô phong kiến bao gồm toàn bộ phần sản phẩm thặng dư do nơng dân tạo ra,
có khi cịn lấn sang cả phần sản phẩm cần thiết; cịn địa tơ tư bản chủ nghĩa chỉ là một
phần của sản phẩm thặng dư, đó là phần sản phẩm tương ứng với phần giá trị thặng dư
dơi ra ngồi lợi nhuận bình qn của nhà tư bản kinh doanh nơng nghiệp.

2.3.3. Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa
-

Địa tô chênh lệch: Địa tô chênh lệch là phần địa tô thu được ở trên những ruộng
đất có lợi thế về điều kiện sản xuất (độ màu mỡ của đất đai tốt hơn, vị trí gần thị trường,
gần đường hơn, hoặc ruộng đất được đầu tư để thm canh). Nó là số chênh lệch giữa giá
cả sản xuất chung (được quy định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xu nht) và giá
cả sản xuất cá biệt. Hay có thể định lượng: Địa tô chênh lệch = Giá cả sản xuất chung Giá cả sản xuất cá biệt


Chúng ta biết trong công nghiệp, giá cả sản xuất được quy định bởi điều kiện sản
xuất trung bình, cịn trong nông nghiệp nếu giá cả sản xuất cũng được quy định trên
ruộng đất có điều kiện sản xuất trung bình thì trên ruộng đất xu sẽ khơng có người canh

tác và như vậy sẽ không đủ nông phẩm để thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Vì vậy, trong
nơng nghiệp giá cả sản xuất sẽ do điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất quy định.
Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch. Tuy nhiên, nếu như trong côngnghiệp
sự tồn tại của lợi nhuận siêu ngạch chỉ là hiện tượng tạm thời đối với từng tư bản
cá biệt, thì trái lại, trong nơng nghiệp sự tồn tại của lợi nhuận siêu ngạch lại có tính ổn
định và lu dài. Nguyên nhân là do trong nông nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ
bản, ruộng đất tốt, xấu khác nhau, đại bộ phận là xấu. Do người ta không tạo thêm được
ruộng đất, mà những ruộng đất tốt lại bị độc quyền kinh doanh kiểu tư bản chủ nghĩa
cho thuê hết nên buộc phải thuê cả ruộng đất xấu. Điều đó làm cho những nhà tư bản
kinh doanh trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn luôn thu được lợi nhuận
siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài vì nó dựa trên tính
cố định của ruộng đất và độ màu mỡ tự nhiên của đất đai. Lợi nhuận siêu ngạch này sẽ
chuyên hóa thành địa tô chênh lệch.
Chúng ta đều biết, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, do có sự độc quyền tư hữu ruộng
đất, nên đã cản trở sự phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lĩnh vực
nông nghiệp. Điều đó được thể hiện ở chỗ: nơng nghiệp thường lạc hậu hơn so với công
nghiệp cả về kinh tế lẫn kỹ thuật, vì thế cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp
thường thấp hơn trong công nghiệp. Điều này phản ánh một điều: nếu trình độ bóc lột
ngang nhau, thì một tư bản ngang nhau sẽ sinh ra trong nông nghiệp nhiều giá trị thặng
dư hơn trong cơng nghiệp. Sự hình thành địa tơ tuyệt đối là do cấu tạo hữu cơ của tư bản
trong nông nghiệp thấp hơn cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệp. Vậy, địa tô
tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dơi ra ngồi lợi nhuận bình quân, được
hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nơng nghiệp thấp hơn trong cơng nghiệp,
nó là chênh lệch giữa giá trị nông sản với giá cả sản xuất chung của nông phẩm.
Giữa địa tô chênh lệch và địa tơ tuyệt đối có sự giống nhau và khác nhau:
Giống nhau: về thực chất, địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối đều là lợi nhuận
siêu ngạch, nguồn gốc của chúng đều là một bộ phận giá trị thặng dư do lao động của
công nhân làm thuê trong lĩnh vực nông nghiệp tạo ra.



Khác nhau: độc quyền kinh doanh ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tơ chênh
lệch, cịn độc quyền tư hữu ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối. Vì vậy nếu
khơng cịn chế độ tư hữu ruộng đất, khơng cịn giai cấp địa chủ, thì địa tơ này sẽ bị xố
bỏ, giá cả nơng sản phẩm sẽ hạ xuống có lợi cho người tiêu dùng.


CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG THỰC TIỄN CỦA GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
3.1.

Lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam


Là 1 nước tiên tiến lên Chủ nghĩa xã hội chưa và “không đi qua giai đoạn phát
triển Tư bản chủ nghĩa” (cụ thể hơn là không qua đoạn thống trị của giai cấp tư sản)
chúng ta không được kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự phát như những
sáng tạo cho dù chúng ta là “những nhân tố vô cơ”. Điểm xuất phát để nhận thức tầm
quan trọng của lợi nhuận chính là điểm: sản phẩm của lao động thừa vượt qua những
chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích luỹ quỹ sản xuất xã hội và dự trữ “tất
cả những cái đó đã và mãi mãi vẫn là cơ sở cho mọi sự tiến bộ về xã hội, về chính trị và
tinh thần”. “Nó sẽ là điều kiện và động cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa” Chúng ta lựa
chon con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là nước tiểu nơng cũng có
nghĩa là từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hố mặc dù có sản xuất hàng hố. Các
thiếu của đất nước ta theo cách nói của Mác- khơng phải chủ yếu là cái đó, mà chính là
chưa trải qua sự ngự trị của cách thức tổ chức kinh tế của kinh tế xã hội theo kiểu chủ
nghĩa tư bản. Nói đến chủ nghĩa tư bản là nói đến một nền kinh tế thị trường cực thịnh
mà biểu hiện tập trung là trình độ chun mơn hố và hiệp tác hố hết sức sâu sắc 31 và
chặt chẽ không chỉ trong mỗi quốc gia riêng biệt. Đó chính là nên sản xuất đa xã hội hố
ở trình độ cao trong thực tế, là “Cơ sở thực tế làm cho tất cả những cái gì tồn tại độc lập
với các cá nhân đều khơng thể có được” Theo tinh thần đó có thể nói: Nền kinh tế thị

trường cực thịnh là phịng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa cơ sở những tiền đề
do chủ nghĩa tư bản sáng tạo ra nhờ sự phát triển mạnh mẽ lưu lượng sản xuất trên cơ
sở đó tạo ra một khối tiến bộ vượt bậc, cho sự phát triển phân công lao động sản xuất
trong thực tế trở thành hiện thực. Con đường đi tới xã hội hoá sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong thực tế của nước ta cũng phải như vậy. Những năm về trước chúng ta đã phạm sai
lầm là bỏ qua tính tuần tự của q trình tất yếu khách quan là phải phát triển kinh tế
hàng hoá. Từ sai lầm ấy chúng ta phải trở về với Lênin để tìm con đường ra cho nền
kinh tế kém hiệu quả, một nền kinh tế mang lại quá ít, thậm chí khơng mang lại lợi
nhuận. Thực chất của sự đổi mới về kinh tế của nước ta chính là: một mặt phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác, pháttriển kinh
tế hàng hoá tư nhân chủ nghĩa tư bản và “du nhập” chủ nghĩa tư bản từ bên
ngoài vào dưới nhiều hình thức kinh tế khác nhau. Tuy nhiên nền kinh tế của nước ta là
nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội (chứ không phải đi lên chủ nghĩa tư bản), do
vậy “cách thức tổ chức kinh tế xã hội” theo kiểu sản xuất hàng hoá cũng mang tính chất
quá độ. Nhưng dù nền kinh tế hàng hố nào thì sản phẩm sản xuất ra đều nhằm mục tiêu


là lợi nhuận. Có thế lợi nhuận với tư cách là phạm trù phản ánh mối quan hệ bình đẳng
giữa những người đã làm chủ tư liệu sản xuất nằm trong các hình thức kinh tế thuộc sở
hữu tồn dân có thế lợi nhuận phản ánh mối quan hệ bóc lột và bị bóc lột nhưng được
coi là nhân tố “ trợ thủ của chủ nghĩa xã hội”, “xúc tiến chủ nghĩa xã hội” là các “ có
ích” và “đáng mong đơi” Dù chúng phản ánh các quan hệ xã hội như thế nào đi nữa thì
cốt lõi của vấn đề là phải tạo điều kiện, tạo môi 32 trường cho sự gia tăng suất ngày
càng cao. Duy có điều đối với lợi nhuận tư nhân chủ nghĩa tư bản thì nhà nước cần có
chính sách hợp lý để khơng ngăn chặn sự phát triển của chung nhưng lại điều tiết được
chúng đi vào “khuân phép”. Trong bất cứ hình thức quan hệ xã hơkị nào thì lợi nhuận
ln đóng một vai trị cực kỳ quan trọng. Nếu khơng có lợi nhuận thì cả bên này lẫn bên
kia đều khơng có nguồn tích luỹ, mà khơng tích luỹ thì cho dù dó là q trình để lai sản
xuất mở rộng thì khơng có gì để tạo ra khối lượng gí trị ngày càng lớn, điều kiện tất yếu
để mở rộng sự phân cơng lao động xã hội. Ngồi ra khi nhà nước thuộc về nhân dân thì

lợi nhuận chính là phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta đang đứng
trước nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực tiến tuyệt đối cần thiết đó là sự phát triển
của sức sx, phát triển nền kinh tế hàng hố, tạo ra nhiều lợi nhuận. Đó đạt được mục tiêu
này đòi hỏi phải được diễn ra một cách tuần tự, đó cũng chính là những giai đoạn của
một quá trịnh lịch sử tự nhiên mà chúng ta chỉ có thể rút ngắn chứ khơng thể bỏ qua. Và
đây cũng là ý nghĩa thực tiễn được rút ra từ học thuyết lợi nhuận của Mac.

3.2.

Lợi tức trong nền kinh tế Việt Nam


Sau cuộc cải cách kinh tế (12/1986). Đảng và nhà nước ta đã thay đổi quan điểm
về vấn đề lợi tức. Đảng và nhà nước đã chuyển đổi cơ chế kinh tế thị trường có sự quản
lý của nhà nước, quy định lại quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp để đảm bảo cho
mục tiêu theo đối với lợi nhuận và lợi tức của các doanh nghiệp. Với những thay đổi đó
thì chúng ta đã gặt hái được rất nhiều thành công. Với việc mở cửa nền kinh tế, hànghố từ
nước ngồi tràn vào rất nhiều với mẫu mã và chủng loại rất đa dạng với giá cả
thấp nhưng vẫn đảm bảo về chất lượng. Đứng trước tình hình đó, để đảm bảo cho việc
tồn tại và phát triển của mình thì các doanh nghiệp, các đơn vị tổ chức sản xuất trong
nước đã mạnh dạn đầu tư công nghệ, máy móc hiện đại các sản xuất cùng 27 với nó là
q trình đào tạo đội ngũ cán bộ cộng nhân viên chức. Nhiều trường đại học và cao đẳng
được hình thành hàng năm đào tạo rất nhiều cán bộ được gửi ra nước ta rất nhiều cơ sở,
đơn vị sản xuất kinh doanh được trang bị máy móc hiện đại được nhập từ nước ngoài.
Việc chú trọng đến lợi tức là thúc đẩy đội ngũ cán bộ khoa học trong nước khơng ngừng
tìm tịi sáng tạo và đã có rất nhiều phát minh sáng chế ra đời đã mang lại nhiều tỷ đồng
cho nhà nước và các doanh nghiệp. Với mục tiêu lợi tức đặt lên hàng đầu thì từ sau cải
cách đến nay hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam đã phát triển rất mạnh mẽ. Trước
đây với cơ chế bao cấp, nhà nước chỉ chấp nhận loại hình doanh nghiệp duy nhất đó là
doanh nghiệp này trong thời kỳ đó hoạt động lại rất kém hiệu quả. Nhưng từ sau cải

cách với những sự thay đổi về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp này có những bước
chuyển maình rõ rệt. Để đạt được lợi tức thì các doanh nghiệp nhà nước dần dần chuyển
đổi cách thức sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đầu tư kỹ thuật công nghệ mới vào sản
xuất. Cho đến nay cả nước có 91 tổng Cơng ty nhà nước gồm 1400 đơn vị sản xuất ra
67% tổng sản phẩm xã hội đây là một sự tiến bộ rõ rệt điều đó thể hiện hướng đi đúng
đắn của nhà nước. Cùng với doanh nghiệp nhà nước thì hệ thống doanh nghiệp tư nhân
cũng phát triển hết sức mạnh mẽ, nhiều hình thức doanh nghiệp tư nhân ra đời góp phần
đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân. Việc xố bỏ mơ hình hợp tác xã tập trung thực hiện
giai đất, giao ruộng cho nơng dân đã khuyến khích bà con nơng dân, vì lợi ích của mình
mà hăng hái lao động. Chính điều này đã đưa nước ta từ một nước thiếu lương thực, đói
ăn trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 3 trên thế giới. Cùng với việc mở
cửa nền kinh tế, chúng ta cũng đồng thời mở rộgn quan hệ với các nước nhằm thu hút
vốn đầu tư của nứơc ngoài. Trong những 28 năm qua hàng chục tỷ đô la đã được đầu tư
vào Việt Nam, nhiều khu công nghiệp ra đời và đang hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh


đó, ngồi việc hỗ trợ vốn cho phát triển kinh tế chúng ta còn ký kết được các nước phát
triển giúp đỡ đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi. Việc mở rộng quan
hệ các nước phát triển đã giúp chúng ta phát triển niều ngành mới như điện tủ, công
nghệ thông tin, ô tô... tạo ra một tiền để cho nên công nghiệp phát triển. Những thayđổi trên
đã làm cho đời sống của toàn xã hội được tăng lên rõ rệt, mức thu nhập bình
quân đầu người không ngừng tăng lên. Chúng ta không chỉ có nhu cầu “ăn no, mặc ấm”
mà bây giờ là chu cầu “ăn ngon, mặc đẹp”. Nhiều nhà cao tầng mọc lên, phương tiện đi
lại đã đưa cơ giới hoá mặt hàng dân trí đã được nâng lên.

3.1 Địa tơ trong nền kinh tế Việt Nam
3.3.1.

Vận dụng trong luật đất đai
Đất đai là một tài nguyên quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan


trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các
cơ sở kinh tế, văn hố - xã hội, an ninh - quốc phịng. Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở
hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất, rừng cho các tổ
chức kinh tế hay đơn vị vũ trang để sử dụng. Để bổ sung cho nguồn ngân sách và thông
qua ngân sách thực hiện một số chính sách phát triển nơng nghiệp, những người th
đất phải đóng thuế cho nhà nước. Thuế này khác xa với địa tô tư bản chủ nghĩa và địa
tô phong kiến vì nó tập trung vào ngân sách đem lại lợi ích cho tồn dân, nó khơng mang
bản chất bóc lột của địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa.
Ở mỗi chế độ, đất đai lại thuộc về thuộc về mỗi giai cấp khác nhau như: sở hữu
của thực dân Pháp, của địa chủ và quan lại quý tộc phong kiến... Và cuối cùng Mác
cũng đã kết luận: “mỗi bước tiến của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến
khơng những trong nghệ thuật bóc lột người lao động mà còn là bước tiến về mặt làm
cho đất đai bị kiệt quệ mà sự bóc lột đó được thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó
có địa tô.


Nhà nước đã ban hành luật đất đai để quy định một cách rõ ràng quyền và nghĩa
vụ của người dân theo những điều khoản như: điều 1, điều 4, điều 5, điều 12, điều 22,
điều 79 luật đất đai. Ngoài ra, trong pháp luật về đất đai của nhà nước ta hiện nay cũng
ban hành những quy định để người dân phải trả tiền thuê đất (một hình thức của địa tô)
khi sử dụng đất một cách tự nguyện. Hiện nay, đất được cấp cho dân, dân có quyền sử
dụng đất vào mục đích của mình. Nếu đối với đất ở thì người dân chỉ phải nộp một
khoản tiền thuê đất rất nhỏ so với thu nhập của họ. Cịn đối với đất để làm nơng nghiệp
thì người dân phải nộp thuế nhưng họ có thể tự do kinh doanh trên đất của mình sao chothu
được lợi nhuận cao nhất. Chẳng hạn như có vùng trồng lúa, có vùng lại trồng đay và
có vùng lại trồng cà phê, điều, bông....

3.3.2.


Vận dụng trong thuế đất nông nghiệp

Thuế nông nghiệp ở đây khơng phải thể hiện sự bóc lột đối với nơng dân mà đó là
quyền và nghĩa vụ của mỗi cơng.
Để khuyến khích sử dụng đất nơng nghiệp có hiệu quả; thực hiện cơng bằng, hợp
lý sự đóng góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp vào ngân sách Nhà nước;
căn cứ vào điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
Luật này quy định thuế sử dụng đất nông nghiệp, cụ thể ở các điều 1 đến điều 10, điều
19, điều 21, điều 22, điều 23.
Việc miễn giảm thuế cho những người dân có hồn cảnh đặc biệt là một việc khác
xa so với việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự sáng tạo của đảng ta trong việc
vận dụng lý luận về địa tô khi đề ra chính sách thuế nơng nghiệp, động viên thúc đẩy
người dân sản xuất. Hiện nay, tổng cục thuế đã ban hành quy trình miễn giảm thuế sử
dụng đất nông nghiệp số 137 TCT/ QD/ NV7 ngày 21/8/2001 cho các đối tượng chính
sách xã hội như: hộ gia đình có cơng với cách mạng, hộ gia đình liệt sĩ, thương binh,
bệnh binh, hộ gia đình có nhiều khó khăn.
Sự khác biệt lớn nhất của việc quản lý đất đai và thu thuế bây giờ so với giai đoạn tư
bản chủ nghĩa là đất đai là của dân. Nhà nước trực tiếp quản lý và điều hành, nhà nước
giao đất cho dân làm nông nghiệp, thu thuế nhưng tạo mọi điều kiện cho người dân sản
xuất. Mặt khác nhà nước còn đưa ra một số quy định cho thấy thuế trong nông nghiệp
bây giờ giảm đi rất nhiều mà chủ yếu là tăng thuế trong việc thuê đất để hoạt động phi
nông nghiệp


-

Nếu chuyển quyền sử dụng đất đai mà được phép chuyển mục đích từ đất nơng
nghiệp sang phi nơng nghiệp thì thuế từ 20% - 40%, nếu đất nơng nghiệp chuyển sang
xây dựng các cơng trình cơng nghiệp từ 40% sang 60%



-

Đối với các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng đất vào mục đích nơng
nghiệp thì không phải trả tiền sử dụng đất cho nông nghiệp, nếu sử dụng vào mục
đíchkhác thì phải trả tiền, thậm chí phải chuyển sang hình thức th đất nếu là tổ chức sử
dụng đất ở trong nước.

3.3.3.

Vận dụng trong việc cho thuê đất
Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một cơng ty thì họ phải

thuê đất của nhà nước, họ phải trả cho nhà nước số tiền tương đương với diện tích cũng
như vị trí của nơi được thuê. Nhà nước đã quy định rất rõ việc thuê đất để kinh doanh,
trên cơ sở ấy, ta thấy rõ sự khác biệt và sự vận dụng lý luận địa tô của Mác trong thời
đại ngày nay. Đó chính là việc nhà nước sử dụng những văn bản pháp lý quy định quyền
và nghĩa vụ của người thuê đất để người dân khi nộp tiền thuê đất đều tự nguyện đóng
góp. Trong việc thuê đất để kinh doanh thì người đã thuê đất của nhà nước sẽ phát triển
kinh doanh trên mảnh đất đó rồi lấy lợi nhuận mà mình làm ra để trả cho nhà nước và
số tiền đó sẽ vào ngân sách nhà nước. Hiện nay khơng chỉ có việc th đất trong nơng
nghiệp trong việc kinh doanh mà nhà nước còn cho nước ngoài thuê đất để thu hút đầu
tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam và tăng nguồn thu cho ngân sách.


Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về luật đất đai, thuế nông nghiệp cũng như trong
một số lĩnh vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tơ vẫn cịn tồn tại nhưng
về bản chất thì hồn tồn khác so với địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa. Tuy
nhiên trong việc sử dụng lý luận địa tô của C. Mác trong việc quản lý đất đai vẫn còn
tồn tại một số hạn chế. Chẳng hạn như nhà nước thu đất của nông dân với giá rất rẻ sau

đó quy hoạch xây dựng nhà ở và cho thuê với giá rất cao. Đây là vấn đề cần được kiến
nghị lên cấp có thẩm quyền nhằm có sự đền bù thoả đáng cho dân. Nếu như trong xã hội
phong kiến và tư bản chủ nghĩa, người sử dụng đất phải nộp tơ cho địa chủ thì ngày nay
tơ hay cịn nói các khác là thuế đất, thuế nhà, tiền thuê đất đều được nộp vào ngân sách
nhà nước. Nguồn ngân sách đó lại được dung vào những công việc nhằm xây dựng đấy
nước. Địa tô gắn liền với sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Địa tô đã
từng tồn tại trong các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cả trong
thời kì đầu của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, lý luận địa tô tư bản chất Mác không chỉ vạch
rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa
học để xây dựng các chính sách thuế đối với nơng nghiệp và các ngành khác có liên
quan đến đất đai có hiệu quả hơn. Như vậy ta một lần nữa ta khẳng định rằng lý luận vềđịa tô
của C. Mác đã được đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo và hợp lý.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và nhà nước đang dần
cải thiện để xây dựng một Việt Nam giàu mạnh
Như vậy, lợi nhuận, lợi tức, địa tô là một phạm trù không chỉ của riêng chủ nghĩa
tư bản. Nhưng vấn đề là tạo ra và sử dụng nó như thế nào để vừa phục vụ tốt cho mục
tiêu phát triển nên kinh tế thị trường của chúng ta, vừa đảm bảo quyền lợi của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, đảm bảo cơng bằng xã hội. Vai trị tích cực của giá trị
thặng dư đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước là rất to lớn, tuy vậy tác hại
của việc theo đuổi lợi nhuận, lợi tức, địa tô cũng rất nguy hiểm, nhất là đối với một nước
định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng cịn kém phát triển như nước ta. Do đó vấn đề học
tập, nghiên cứu, vận dụng vấn đề lợi nhuận, lợi tức, địa tô cũng như các phạm trù khác
của chủ nghĩa Mac nhằm góp phần xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, thành công của công cuộc đổi mới là nhiệm vụ của mỗi người
sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.


KẾT LUẬN

Trong xu hướng phát triển kinh tế tri thức hiện nay, học thuyết giá trị thặng dư

của C. Mác vẫn giữ nguyên giá trị, chúng ta cần khai thác học thuyết giá trị thặng dư
với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị trường nhằm vận
dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong nền kinh tế tri thức.
Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác luôn là cơ sở lý luận cho sự vận dụng vào quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Ngày nay, từ quan điểm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết giá trị thặng dư có ý
nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu, vận dụng học thuyết này ở nước ta trở thành một việc
làm cần thiết.
Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nền
kinh tế hàng hóa ở nước ta có những đặc trưng riêng của nó, song đã là sản xuất hàng
hóa thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến gái trị và giá trị
thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị và giá
trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Do vậy, việc nghiên cứu tính phổ biến và
tính đặc thù của nền sản xuất hàng hóa tư bản, nghiên cứu những phạm trù, quy luật và
việc sử dụng chúng trong nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa từ di sản lý luận của
Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực tiễn ở Việt Nam hiện nay... Mục đích của sản
xuất tư bản chủ nghĩa khơng phải là sản xuất ra giá trị sử dụng, mà là sản xuất ra giá trị
thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục
đích, động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội
tư sản. Sản xuất ra giá trị thặng dư quả thực là động lực vận động của athức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. C.Mác viết: “Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu, là nhân
giá trị lên, làm tăng giá trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thặng dư”.


Để sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản tăng cường bóc lột cơng
nhân làm thuê không phải bằng cưỡng bức siêu kinh tế (roi vọt), mà bằng cưỡng bức
kinh tế (kỷ luật đói rét) dựa trên cơ sở mở rộng sản xuất, phát triển kỹ thuật để tăng năng
suất lao động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động. Vậy sản xuất ra giá trịthặng

dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. C.Mác viết: “Việc tạo ra giá
trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó”. Nội dung chủ yếu
của quy luật này là để thu được giá trị thặng dư một cách tối đa, nhà tư bản đã tăng số
lượng lao động làm thuê và tìm mọi thủ đoạn để bóc lột họ. Trong giai đoạn hiện nay,
các nhà tư bản thực hiện cải tiến kỹ thuật hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao
động để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị hàng hoá. Đồng thời thu hút một đội
ngũ các kỹ sư, quản lý, mà chức năng của họ suy cho cùng là bảo đảm sử dụng có hiệu
quả nhất tất cả các nhân tố của sản xuất mà trước hết là sức lao động, nhờ đó mà tăng
giá trị thặng dư.
Từ đó ta có thể kết luận rằng: Hàng hóa- sức lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị
hơn thế nữa là giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Bởi vì, sức lao động xcàng đem tiêu dùng
hay sử dụng thì cơng nhân hay người lao động càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm
nghề nghiệp, càng nâng cao năng suất lao động. Vì vậy sẽ làm giảm giá trị hay mức tiền
lương mà nhà tư bản đã trả cho họ. Vì vậy, dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư bản rất ưa
thích loại hàng hóa đặc biệt này.


×