Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Chiến lược chuyển dịch thành ngữ tiếng Hán sang tiếng Việt - lấy ví dụ từ giáo trình《成功之路》提高篇

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.37 KB, 9 trang )

CHIẾN LƯỢC CHUYỂN DỊCH THÀNH NGỮ
TIẾNG HÁN SANG TIẾNG VIỆT - LẤY VÍ DỤ TỪ
GIÁO TRÌNH《成功之路》提高篇
Phạm Thị Thảo Hương1
Tóm tắt: Thành ngữ là sản phẩm của tư duy, là công cụ diễn đạt tri thức, kinh
nghiệm quý báu, những triết lý nhân sinh vừa sâu sắc, thâm thúy vừa không kém phần
nghệ thuật; được bảo tồn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thông qua thành
ngữ, chúng ta không chỉ hiểu được đặc điểm của ngôn ngữ mà còn tri nhận được các
vấn đề về văn hóa, lịch sử, tư duy của dân tộc ấy. Vì vậy, thành ngữ được đặc biệt chú
trọng trong quá trình dạy ngoại ngữ, nhất là ở giai đoạn cao cấp. Chuyển dịch thành
ngữ là một mảng nghiên cứu vô cùng phức tạp, bên cạnh tác động của yếu tố ngôn ngữ,
cịn chịu nhiều tác động của yếu tố văn hóa và tư duy dân tộc. Mặc dù thành ngữ khơng
cịn là chủ đề nghiên cứu xa lạ trong giới học thuật, tuy nhiên nghiên cứu về thành ngữ
trong giáo trình đang được sử dụng ở trường đại học vẫn là một mảng nghiên cứu mới
mẻ. Bài nghiên cứu này dựa trên quan điểm của Lawrence Venuti - một nhà lý luận dịch
thuật người Mỹ. Theo đó, bài viết phân tích cách chuyển dịch thành ngữ tiếng Hán sang
tiếng Việt theo hai chiến lược dịch thuật (translation strategy) chính, đó là: “ngoại lai
hóa” (foreignizing translation) và “bản địa hóa” (domesticating translation).
Từ khóa: Thành ngữ tiếng Hán, Chiến lược dịch thuật, Giáo trình《成功之路》,
Ngoại lai hóa, Bản địa hóa.
1. Mở đầu
Dịch tḥt từ lâu đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà ngôn ngữ học trên khắp thế
giới. Tuy nhiên, cho đến nay, xung quanh vấn đề nghiên cứu về chiến lược dịch thuật
(translation strategy) vẫn tồn tại nhiều ý kiến tranh luận. Ở website i.
net2, với từ khóa “chiến lược dịch thuật”, có thể thống kê được 23.423 bài báo, luận
văn… chứa từ khóa này tính từ năm 2000 đến năm 2020. Số liệu này cho thấy, lựa
chọn chiến lược là một vấn đề rất quan trọng trong nghiên cứu dịch thuật. Vậy mối
quan hệ giữa ba thuật ngữ “chiến lược dịch thuật”, “phương pháp dịch thuật” và “kỹ
xảo dịch thuật” là gì? Theo giáo sư Dương Tự Kiệm – mợt nhà Ngôn ngữ học, nhà Lý
luận dịch thuật nổi tiếng của Trung Quốc, “chiến lược” nhấn mạnh đến việc vạch ra kế
hoạch, biện pháp đối phó và xử lý; “phương pháp” nhấn mạnh đến trình tự, quá trình,


mô thức, quy tắc; “kỹ xảo” nhấn mạnh đến kỹ thuật, kỹ năng, kỹ nghệ [8]. Nói cách
khác, ba thuật ngữ này hình thành một mối quan hệ phân cấp từ trên xuống dưới, từ vĩ
mô đến vi mô, từ trừu tượng đến cụ thể, từ mục đích đến phương pháp. Để thực hiện
1. ThS., Trường Đại học Hà Nội
2.  CNKI là website cơ sở dữ liệu điện tử về báo chí, luận văn, luận án, kỷ yếu hội nghị hội thảo của
Trung Quốc

10


PHẠM THỊ THẢO HƯƠNG
một chiến lược dịch thuật nào đó, dịch giả phải lựa chọn một phương pháp hoặc kỹ
xảo dịch thuật cụ thể. Thông qua rất nhiều sách báo, công trình nghiên cứu liên quan
đến chiến lược dịch thuật, có thể thấy rằng khái niệm “ngoại lai hóa” (foreignizing
translation) và “bản địa hóa” (domesticating translation) xuất hiện ở hầu hết các sách
về lý luận dịch thuật. Thành ngữ là một nhóm từ truyền tải một ý nghĩa đặc biệt khác
với nghĩa gốc của từng từ cấu thành riêng lẻ (theo từ điển Longman, 2016). Khó khăn
của việc chuyển dịch thành ngữ tiếng Hán sang tiếng Việt nằm ở sự khác biệt về văn
hóa giữa hai ngôn ngữ và trong nhiều trường hợp, dịch giả khó tìm được từ ngữ tương
đương mà vẫn giữ được ý nghĩa đặc biệt của thành ngữ.
Nguồn dữ liệu của bài nghiên cứu này chủ yếu được lấy từ hai cuốn giáo trình
《成功之路》提高篇. Đây là cuốn giáo trình được sử dụng trong môn Bài tổng
hợp của sinh viên năm 2 khoa tiếng Trung Quốc, trường Đại học Hà Nội. Từ thực
tiễn quá trình giảng dạy, nhiều giáo viên phát hiện ra rằng sinh viên Việt Nam gặp
nhiều khó khăn khi chuyển dịch thành ngữ tiếng Hán sang tiếng mẹ đẻ. Hi vọng bài
viết này sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho sinh viên Việt Nam khi học tiếng Hán.
2. Khảo sát chiến lược dịch thuật “ngoại lai hóa” và “bản địa hóa” đối với
thành ngữ tiếng Hán trong giáo trình《成功之路》提高篇.
Dưới đây là một số thuật ngữ thuộc ngành Dịch thuật học được sử dụng xuyên
suốt trong bài nghiên cứu này.

* Ngôn ngữ nguồn (source language): ngôn ngữ được đem ra để chuyển dịch,
còn được gọi là ngữ nguồn.
* Ngôn ngữ đích (target language): ngôn ngữ cần chuyển dịch sang, còn được
gọi là ngữ đích.
* Văn bản nguồn (source text)
* Văn bản đích (target text)
2.1. Ứng dụng của chiến lược “ngoại lai hóa” trong việc chuyển dịch thành
ngữ tiếng Hán sang tiếng Việt
Theo Venuti, “ngoại lai hóa” là “việc lựa chọn văn bản ngoại và xây dựng một
phương pháp dịch theo những đường lối không nằm trong những giá trị văn hóa chủ
đạo của ngôn ngữ đích” [6; tr.242]. Venuti cho rằng chiến lược dịch thuật này tránh
được sự áp đặt của những giá trị văn hóa của ngơn ngữ đích, “để có thể ghi nhận sự
khác biệt về mặt ngôn ngữ và văn hóa của văn bản nguồn, đưa người đọc đi xa, đến
những phương trời xa lạ” [5; tr.20]. Nói cách khác, mục đích của chiến thuật dịch ngoại
lai là truyền tải một cách trung thực cấu trúc ngôn ngữ, màu sắc văn hóa, văn phong
tác giả của ngữ nguồn khi chuyển sang ngữ đích.
Theo quan điểm bài viết, chiến lược “ngoại lai hóa” được thực hiện bởi hai
phương pháp dịch thuật chính: dịch nguyên văn (literal translation) và dịch nguyên văn
11


CHIẾN LƯỢC CHUYỂN DỊCH THÀNH NGỮ TIẾNG HÁN SANG TIẾNG VIỆT...
kèm chú thích (literal translation with notes).
2.1.1. Dịch nguyên văn (literal translation)
Trong cuốn A Textbook of Translation (1988), Newmark cho rằng, ở phương
thức dịch nguyên văn, bản dịch và bản gốc rất gần gũi nhau xét về mặt hình thức và
“các cấu trúc của ngôn ngữ gốc được chuyển dịch sang các cấu trúc gần nhất ở ngôn
ngữ dịch”. Có rất nhiều thành ngữ tiếng Hán có thể áp dụng phương pháp dịch nguyên
văn khi chuyển dịch sang tiếng Việt.
2.1.1.1. Sử dụng âm Hán Việt

Trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt, có một bộ phận không nhỏ thành ngữ gốc
Hán. Những thành ngữ này có kết cấu ngôn ngữ rất ổn định, phổ thông, cô đọng về mặt
ngữ nghĩa, thịnh hành trong tiếng Hán, được du nhập vào Việt Nam và sử dụng rộng
rãi từ xưa đến nay. Chúng được gọi tên là “thành ngữ Hán Việt”.
Về số lượng thành ngữ Hán Việt, trong ćn “Từ điển giải thích thành ngữ gốc
Hán”, tác giả Nguyễn Như Ý đã giải thích nguồn gốc của gần 1000 loại thành ngữ này;
còn tác giả Trần Thị Thanh Liêm đã thu thập được hơn 2000 thành ngữ gốc Hán trong
cuốn “Từ điển thành ngữ Hán Việt”, trong đó tỷ lệ thành ngữ bốn chữ chiếm đến 75%.
Thành ngữ Hán Việt có thể chia thành hai loại: thành ngữ Hán Việt nguyên dạng
và thành ngữ Hán Việt biến dạng.
Thành ngữ Hán Việt nguyên dạng là loại thành ngữ gốc Hán được hình thành qua
một phương thức tiếp nhận – tiếp nhận nguyên dạng [3; tr.8], nghĩa là giữ nguyên âm
đọc Hán Việt, hình ảnh ẩn dụ, cấu trúc ngữ pháp, hiệu quả tu từ, mục đích giao tiếp…
Dưới đây là một số ví dụ cụ thể:
Bảng 1. Thành ngữ Hán Việt nguyên dạng và cách chuyển dịch sang tiếng Việt
Thành ngữ tiếng Hán
一言九鼎
成家立业
德高望重

Chuyển dịch sang tiếng Việt
Nhất ngôn cửu đỉnh
Thành gia lập nghiệp
Đức cao vọng trọng

Những thành ngữ ở bảng 1 giữ lại nguyên vẹn gốc Hán, bao gồm cả từ ngữ, số
lượng, ngữ nghĩa. Khi các từ Hán Việt đạt đến một mức độ thông dụng nào đó thì việc
chúng xuất hiện với tư cách là yếu tố cấu thành thành ngữ cũng không cần có sự tác
động gì thêm mà người Việt vẫn dễ dàng tiếp nhận. Chẳng hạn như trong thành ngữ
“thành gia lập nghiệp”, yếu tố “thành gia” và “lập nghiệp” là những từ Hán Việt rất

quen thuộc. Trong giao tiếp hàng ngày chúng ta thường xuyên nghe thấy những câu nói
kiểu như sau: “Các cụ ngày xưa có câu ‘thành gia lập nghiệp’, yên ổn đường gia đình
thì sẽ chuyên tâm lo chuyện con đường công danh sự nghiệp”. Rõ ràng những thành
ngữ như vậy rất gần gũi, phù hợp với thói quen, tâm lý của người Việt Nam.
12


PHẠM THỊ THẢO HƯƠNG
Thành ngữ Hán Việt biến dạng là loại thành ngữ có nguồn gốc từ các thành ngữ
Hán Việt nguyên dạng, nhưng một trong các bộ phận của chỉnh thể thành ngữ có sự
khác biệt so với thành ngữ Hán Việt nguyên dạng (chủ yếu là thay yếu tố, đảo vế). Ví
dụ: 功成名就 (công thành danh tựu) > công thành danh toại; 千方百计 (ngàn phương
trăm kế) >trăm phương ngàn kế. Sở dĩ bản dịch đổi vị trí chữ “trăm” với chữ “ngàn”
cho nhau là bởi vì cách dịch này phù hợp với lối diễn đạt của người Việt Nam. Thứ tự
sắp xếp trong tiếng Việt từ nhỏ tới lớn (ngược với tiếng Hán), nên “trăm” phải được
đặt trước “ngàn”.
Nói tóm lại, thành ngữ Hán Việt có thể chia thành hai loại: thành ngữ Hán Việt
nguyên dạng và thành ngữ Hán Việt biến dạng. Với đặc điểm cô đọng súc tích và có
giá trị ứng dụng cao, những thành ngữ này dần dần được sử dụng rộng rãi trong cuộc
sống thường ngày của người Việt Nam.
2.1.1.2. Sử dụng yếu tố thuần Việt
Đối với một số thành ngữ gốc Hán, nếu giữ nguyên dạng thì sẽ khiến bản dịch
trúc trắc, làm cho độc giả Việt Nam cảm thấy mơ hồ khó hiểu. Vì vậy, dịch giả phải
linh hoạt Việt hóa các yếu tố Hán Việt để bản dịch phù hợp với văn hóa ngôn ngữ của
người Việt.
Bảng 2. Việt hóa yếu tố Hán Việt khi chuyển dịch thành ngữ tiếng Hán sang tiếng Việt
Thành ngữ tiếng Hán
如鱼得水 (như ngư đắc thủy)
不约而同 (bất ước nhi đồng)
无地自容 (vô địa tự dung)

从头到尾 (tùng đầu đáo vĩ)
耳闻目睹 (nhĩ văn mục đổ)

Chuyển dịch sang tiếng Việt
như cá gặp nước
khơng hẹn mà gặp
khơng cịn lỗ nẻ nào để chui
từ đầu đến cuối
tai nghe mắt thấy

Ví dụ thành ngữ “如鱼得水” nếu đọc theo âm Hán Việt là “như ngư đắc thủy”.
Có thể đối với người học tiếng Hán, họ sẽ nhận ra được ý nghĩa của thành ngữ này.
Nhưng chắc rằng đại đa số độc giả sẽ cảm thấy khó hiểu, vì vậy dịch giả cần Việt hóa
từng thành tố Hán Việt, để phù hợp với thói quen ngôn ngữ của người Việt.
Cần chú ý thêm rằng, không phải thành ngữ tiếng Hán nào cũng có thể chuyển
dịch tương đương sang tiếng Việt dưới dạng ngữ cố định như thành ngữ, tục ngữ, quán
ngữ. Trong trường hợp này, dịch giả chỉ có cách dùng các từ ngữ phổ thông để dịch ý,
tuy nhiên vẫn phải giữ nguyên vẹn hình ảnh sử dụng trong văn bản nguồn. Chẳng hạn
thành ngữ “大惊小怪” chỉ có thể dịch ý thành “quá kinh ngạc về những chuyện không
đâu”. Đây cũng được coi là một dạng bổ sung của phương pháp dịch nguyên văn.
2.1.2. Dịch nguyên văn kèm chú thích (Literal Translation with Notes)
Đa số thành ngữ tiếng Hán có nguồn gốc từ những điển cố, điển tích xuất phát
từ những câu chuyện ngụ ngôn, truyền thuyết, thần thoại hay câu chuyện lịch sử, cũng
13


CHIẾN LƯỢC CHUYỂN DỊCH THÀNH NGỮ TIẾNG HÁN SANG TIẾNG VIỆT...
có thể là các câu ngắn hoặc cụm từ trong tác phẩm văn học ở một thời kỳ nào đó. Khi
chuyển dịch những thành ngữ này sang tiếng Việt, nếu chúng ta chỉ sử dụng đơn thuần
mỗi phương pháp dịch nguyên văn, mà không có thêm chú thích, thì sẽ khiến người

đọc cảm thấy khó hiểu. Trong trường hợp như vậy, phương pháp dịch nguyên văn kèm
chú thích (Literal Translation with Notes) có thể xem là sự lựa chọn tối ưu. Một mặt,
dịch nguyên văn giúp truyền tải nguyên vẹn tình huống mang tính dị quốc hay đặc
trưng văn hóa có trong văn bản nguồn, mặt khác phần chú thích giúp độc giả ngôn ngữ
đích tiếp cận bản dịch một cách thuận lợi hơn. Trong giáo trình “成功之路”,có một
số thành ngữ phải áp dụng phương pháp dịch thuật này. Ví dụ: thành ngữ“闻鸡起舞”
(nghĩa: nghe gà gáy bật dậy múa kiếm). Nếu người dịch chỉ dịch nguyên văn như vậy
mà không có thêm bất kì sự giải thích nào, thì chắc chắn sẽ khiến đa số các độc giả
cảm thấy mơ hồ, xa lạ. Nhiệm vụ của người dịch trong trường hợp này phải giải thích
thêm câu chuyện ẩn đằng sau đó: Thời Đông Tấn ở Trung Quốc có đôi bạn thân là Tổ
Địch và Lưu Côn, hai người thường khuyến khích động viên nhau, nửa đêm nghe tiếng
gà gáy đã dậy để múa kiếm. Về sau thành ngữ này được dùng với hàm ý người có chí
hăng hái phấn đấu vươn lên. Hay như thành ngữ “兴师问罪” (dẫn quân đội đến để
hỏi tội đối phương). Đối với trường hợp này, dịch giả cũng cần giải thích thêm thành
ngữ “兴师问罪” có xuất xứ từ thời nhà Tống, trong cuốn 25 tác phẩm “Mộng Khê bút
đàm” của nhà bác học Thẩm Quát: “Nguyên Hạo cải nguyên, đề ra quan y lễ nhạc, ra
lệnh cho cả nước phải dùng Phiền thư, Hồ lễ, tự xưng tên nước là Đại Hạ. Triều đình
hưng sư vấn tội.”
Có thể nói, phương pháp dịch nguyên văn kèm chú thích không những biểu đạt
được một cách rõ ràng ý nghĩa của thành ngữ tiếng Hán, mà còn giúp độc giả Việt Nam
hiểu sâu sắc hơn về văn hóa Trung Quốc thông qua các điển cố, điển tích.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng chiến lược “ngoại lai hóa” có rất nhiều
ưu điểm, nổi bật nhất đó là chuyển tải được những đặc thù của ngôn ngữ và văn hóa
trong văn bản nguồn. Tuy nhiên, cần chú ý trong một số trường hợp cần thiết, dịch giả
nên có thêm chú thích phù hợp để bản dịch trở nên gần gũi, dễ hiểu đối với độc giả
ngôn ngữ đích.
2.2. Ứng dụng của chiến lược “bản địa hóa” trong việc chuyển dịch thành
ngữ tiếng Hán sang tiếng Việt
Chiến lược “bản địa hóa” là phương thức dịch “trong suốt”, dịch trôi chảy, lưu
loát, tự nhiên theo lối nói, lối viết, lối suy nghĩ của ngôn ngữ đích, đem bản gốc đến

gần với những giá trị văn hóa của ngôn ngữ đích. Chiến lược này còn được coi là
“hướng đích”, nghĩa là lấy ngôn ngữ đích, độc giả của ngôn ngữ đích làm trọng tâm.
Ưu điểm nổi bật của bản địa hóa là giúp độc giả ngôn ngữ đích (dù ở trình độ thấp)
tiếp cận với bản dịch một cách dễ dàng. Bài viết cho rằng chiến lược “bản địa hóa”
trong việc chuyển dịch thành ngữ tiếng Hán sang tiếng Việt được cụ thể hóa bằng hai
phương pháp chính: thay thế hình ảnh trong ngôn ngữ nguồn và lược bỏ hình ảnh trong
14


PHẠM THỊ THẢO HƯƠNG
ngôn ngữ nguồn.
2.2.1. Thay thế hình ảnh trong ngôn ngữ nguồn
Một số thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt tương ứng tồn tại sự khác biệt về cách
diễn đạt, bối cảnh văn hóa cũng như hình ảnh ẩn dụ, tuy nhiên hàm ý biểu đạt lại tương
đồng. Khi chuyển dịch những thành ngữ này sang tiếng Việt, người dịch thường giữ lại
hàm ý, mà thay thế hình ảnh, cụ thể là thay thế hình ảnh trong ngôn ngữ nguồn bằng
một hình ảnh khác quen thuộc, phù hợp với thói quen diễn đạt của độc giả ngôn ngữ
đích. Phương pháp này một mặt giúp bản dịch đạt được hiệu quả biểu đạt tương đồng
như văn bản nguồn, mặt khác khắc phục được phần nào những hạn chế do việc không
thể chuyển tải được hình ảnh sử dụng trong ngôn ngữ nguồn gây ra. Ví dụ thành ngữ
摩肩接踵 sử dụng hình ảnh vai kề vai, gót nối gót, rất dễ khiến độc giả Việt Nam liên
tưởng đến thành ngữ “kề vai sát cánh”. Tuy nhiên, thực tế thành ngữ 摩肩接踵 dùng
để nói đến cảnh tượng người người chen chúc đông đúc, chật chội. Trong trường hợp
này, dịch giả có thể dùng hình ảnh “nêm cối” trong “chật như nêm cối” (ý chỉ người đi
lại đông đúc, sin sít như răng cối trên mặt cối xay lúa đã được nêm chặt) để thay thế.
Một ví dụ khác trong giáo trình “成功之路”đó là thành ngữ “自吹自擂”. Ngôn ngữ
nguồn sử dụng hình ảnh “tự thổi kèn”, “tự đánh trống” để ngụ ý chỉ hành động tự đề
cao bản thân mình. Thay vì cách dịch nguyên văn như trên, dịch giả có thể linh hoạt sử
dụng hình ảnh khác gần gũi với văn hóa ngôn ngữ Việt như “mèo khen mèo dài đuôi”,
mà vẫn chuyển tải chính xác hàm ý biểu đạt của văn bản gốc. Hình ảnh mang màu sắc

dân tộc vì nó đi từ cuộc sống hàng ngày vào ngôn ngữ. Việt Nam và Trung Quốc tồn
tại những điểm khác biệt về văn hóa, về phong tục tập quán, do vậy, mặc dù cùng biểu
đạt một ý nghĩa như nhau, nhưng thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt lại sử dụng những
hình ảnh khác nhau. Hình ảnh sử dụng trong ngôn ngữ nguồn có thể mang lại ý nghĩa
liên tưởng nhất định cho độc giả ngôn ngữ nguồn, nhưng lại không thể đem đến sự liên
tưởng tương đồng cho độc giả ngôn ngữ đích. Chính vì vậy, để tránh xảy ra tình trạng
hiểu sai ý bản dịch, phương pháp thay thế hình ảnh ngôn ngữ nguồn bằng một hình ảnh
khác trong ngôn ngữ đích là điều cần thiết.
2.2.2. Lược bỏ hình ảnh trong ngôn ngữ nguồn
Có một số hình ảnh ẩn dụ trong tiếng Hán không thể dịch nguyên văn sang tiếng
Việt, mà cũng không thể tìm được hình ảnh tương đồng về ý nghĩa với chúng trong
tiếng Việt. Đối với trường hợp này, tôi nghĩ người dịch cần bỏ qua bước chuyển dịch
hình ảnh, chỉ cần dùng những từ ngữ phổ thông để chuyển tải hàm ý của văn bản
nguồn. Cách dịch này xem ra vẫn tồn tại thiếu sót so với nguyên gốc, nhưng nếu dịch
giả vẫn cố dịch hình ảnh đó một cách cứng nhắc, hiệu quả bản dịch có khi còn giảm
đi rất nhiều. Ví dụ thành ngữ “五颜六色”, nếu dịch đúng như hình ảnh trong văn bản
nguồn sẽ là “năm màu sáu sắc”. Tuy nhiên, cách dịch đó sẽ khiến người đọc cảm thấy
khó hiểu, vì vậy dịch giả cần lược bỏ hai hình ảnh “năm màu” và “sáu sắc”, chỉ cần
dịch nghĩa “sắc màu rực rỡ” hoặc “hoa h hoa sói”. Tương tự đới với thành ngữ “虎
15


CHIẾN LƯỢC CHUYỂN DỊCH THÀNH NGỮ TIẾNG HÁN SANG TIẾNG VIỆT...
头虎脑”, khi chuyển dịch sang tiếng Việt nên bỏ qua hình ảnh “đầu hổ”, “não hổ” , chỉ
cần dịch nghĩa thành “khỏe mạnh rắn rỏi (đối với người lớn); khỏe mạnh kháu khỉnh
(đối với trẻ em)” là được.
Tóm lại, người dịch cần lựa chọn chiến lược dịch thuật phù hợp để chuyển tải
được những đặc thù của ngôn ngữ và văn hóa của văn bản nguồn mà không làm cho
độc giả ngôn ngữ đích cảm thấy xa lạ và khó hiểu. Bài viết cho rằng nên ưu tiên chiến
lược “ngoại lai hóa”, tức là dịch giả nên ghi nhận sự khác biệt về mặt ngơn ngữ và văn

hóa của văn bản nguồn, cố gắng chuyển tải được tính đặc thù của ngôn ngữ nguồn. Tuy
nhiên, trong trường hợp nếu chiến lược này khiến độc giả ngôn ngữ đích cảm thấy xa
lạ, dịch giả cần sử dụng chiến lược “bản địa hóa”. Điều này cũng giống như khi một
món ăn của một dân tộc nào đó du nhập vào một nền văn hóa mới, nhiệm vụ của người
đầu bếp giỏi là phải giữ được hương vị nguyên gốc của nó, nhưng vẫn phải làm thế nào
để món ăn đó phù hợp với thói quen ẩm thực của thực khách nơi đây.
3. Những điều cần chú ý trong quá trình chuyển dịch thành ngữ tiếng Hán
sang tiếng Việt
3.1. Cố gắng tối đa chuyển tải văn phong và tính hình tượng của văn bản
ng̀n
Ví dụ: 老板奶奶见媳妇已死,呼天抢地,哭个不了。(清·李宝嘉《官场现
形记》第十四回)
Đới với thành ngữ“呼天抢地” trong câu trên, có hai cách dịch. Cách dịch thứ
nhất: “Thấy cháu dâu chết bà chủ kêu khóc om sịm; cách dịch thứ hai: “Thấy cháu
dâu chết bà chủ kêu trời kêu đất, khóc mãi không thôi”. Rõ ràng cách dịch thứ hai sinh
động, có tính biểu cảm cao hơn so với cách dịch thứ nhất.
3.2. Chuyển tải nguyên vẹn sắc thái ý nghĩa của ngữ nguồn
Sắc thái ngữ nghĩa (STNN) ở đây được chia thành ba loại: tốt nghĩa, xấu nghĩa
và trung hòa. Trong quá trình dịch thuật, người dịch bắt buộc phải làm rõ sắc thái ngữ
nghĩa của ngữ nguồn trong văn cảnh cụ thể.
Ví dụ: 一种产品的质量好与坏是多方面因素构成的,因为“国产了”而导
致“汽车质量下降”的观点并不一定正确,特别是对于合资企业的汽车产品质量
好坏更不能一概而论。(Dịch: Chất lượng tốt xấu của một sản phẩm được quyết định
bởi nhiều nhân tố, quan điểm chất lượng ô tô đi xuống do sản xuất trong nước khơng
hồn tồn chính xác, đặc biệt là đối với sản phẩm của các công ty cổ phần, chất lượng
xấu có tốt có, khơng thể vơ đũa cả nắm được).
Thành ngữ“一概而论”mang STNN xấu, ngụ ý chỉ hành động không phân
biệt trắng đen. Nếu chúng ta chỉ dịch theo ngữ nghĩa là “coi tất cả như nhau”, thì bản
dịch chưa làm nổi bật được sắc thái ngữ nghĩa của văn bản nguồn. Thay vào đó, nếu
dịch là “vơ đũa cả nắm”, thì không những có thể làm tăng hiệu quản biểu đạt, mà còn

16


PHẠM THỊ THẢO HƯƠNG
giúp bản dịch gần gũi với thói quen ngôn ngữ của người Việt.
3.3. Tránh hiện tượng dịch từng chữ, trùng lặp ngữ nghĩa
Trong tiếng Hán có rất nhiều thành ngữ bốn chữ. Trong số đó, có một bộ phận
thành ngữ được cấu tạo theo dạng thức hai chữ đầu và hai chữ cuối trong kết cấu bốn
chữ đó có sự tương đồng về ngữ nghĩa. Mục đích của việc trùng lặp này là để nhấn
mạnh hoặc để tạo sự uyển chuyển khi đọc. Tuy nhiên, nếu người dịch đồng thời dịch
cả hai vế thì sẽ dẫn đến hiện tượng trùng lặp ngữ nghĩa. Chính vì vậy, đối với những
thành ngữ này, người dịch chỉ cần dịch một vế, tức là hai chữ đầu hoặc hai chữ cuối là
đã biểu đạt được toàn bộ ý nghĩa của chúng. Ví dụ:
“自言自语” (tự ngôn tự ngữ): tự nói một mình
“家喻户晓” (“家喻”: các nhà biết rõ; “户晓”: các hộ hiểu rõ): nhà nhà đều biết
“忍饥挨饿”(“忍饥”: chịu đói; “挨饿”: bị đói): chịu đói
3.4. Chú ý thành ngữ đa nghĩa
Đa số thành ngữ là đơn nghĩa, tuy nhiên cũng cần để ý nắm được các nghĩa khác
nhau của thành ngữ đa nghĩa để tránh hiện tượng hiểu sai nghĩa của văn bản nguồn.
Ví dụ:
“翻来覆去”có hai nghĩa: 1. Trằn trọc không ngủ được, ví dụ “他躺在床上翻
来覆去,怎么也睡不着.”(Anh ta trằn trọc không tài nào ngủ được.); 2. Lặp đi lặp
lại nhiều lần, ví dụ “这句话已经翻来覆去说过不知多少遍了.” (Tôi đã nói đi nói lại
câu này không biết bao nhiêu lần rồi.)
4. Kết luận
Bài nghiên cứu này đã khái quát về hai chiến lược dịch thuật khi chuyển dịch
thành ngữ tiếng Hán sang tiếng Việt, đó là chiến lược “ngoại lai hóa” và “bản địa
hóa”. Theo tìm hiểu, ở Việt Nam hiện nay, một số người ủng hộ phương thức “ngoại
lai hố”. Nhóm đợc giả có khả năng ngơn ngữ, kỹ năng đọc hiểu và khả năng ngoại
ngữ đòi hỏi điều này. Theo dịch giả Trịnh Lữ, chiến lược dịch thuật này sẽ làm phong

phú cho tiếng Việt và làm giàu thêm cho nên văn hóa. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều
người ủng hộ sử dụng phương thức “bản địa hố” trong dịch thuật vì phương thức này
hướng tới việc đảm bảo lợi ích của người tiếp nhận, đồng thời phù hợp hơn với tâm lí,
văn hố của người tiếp nhận thuộc ngữ đích. Có thể nói, dịch thuật là quá trình giao
lưu văn hóa giữa hai ngôn ngữ. Để dịch tốt thành ngữ, người dịch bắt buộc phải thông
thạo cả hai ngôn ngữ, nâng cao năng lực lí giải ngữ nguồn và khả năng diễn đạt ngữ
đích. Một u cầu vơ cùng quan trọng nữa đó chính là người dịch phải hiểu rõ về văn
hoá của các cộng đồng ngôn ngữ. Hi vọng rằng với giá trị thực tiễn, tính ứng dụng cao,
bài nghiên cứu này phần nào giúp người học hiểu sâu sắc hơn về ngôn ngữ cũng như
văn hóa Trung Quốc.

17


CHIẾN LƯỢC CHUYỂN DỊCH THÀNH NGỮ TIẾNG HÁN SANG TIẾNG VIỆT...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Kim Joo Young (2016), “Căn tính/ tính khả kiến xã hội của dịch giả: Trường hợp
bản dịch Việt ngữ Hãy chăm sóc mẹ”, Tạp chí Khoa học Đại học Văn Hiến (số
11): 63 – 69.
[2] Bùi Vĩnh Phúc (2013), “Dịch thuật (văn học) trong bối cảnh tồn cầu hóa: Một số
chiến lược diễn dịch & những hệ hình mới”, />[3] Nguyễn Thị Tân (2015), “Thành ngữ Hán-Việt: Khái niệm và phân loại”, Ngôn
ngữ và Đời sống (số 6).
[4] Jeremy Munday (2009), “Nhập môn nghiên cứu dịch thuật – Lý thuyết và ứng
dụng” (Trịnh Lữ dịch), NXB Tri thức, Hà Nội.
[5] Venuti, L. 1995. The Translator’s Invisibility: A History of Translation. London
New York: Routledge.
[6] Venuti, L.2001. Strategies of Transtation. In M. Baker (ed.), Routledge Encyciopedia
of Translation Studies. London & New York: Routledge.
[7] Newmark, P. (1988). A Textbook of Translation. NewYork: Prentice Hall
International.

[8] 杨自俭.再谈方法论—<翻译方法论>序[J].上海翻译,2007 (3).
Title: TRANSLATION STRATEGY OF THE CHINESE IDIOMS
INTO THE VIETNAMESE LANGUAGE --- EXAMPLE GIVEN FROM THE
TEXTBOOK《成功之路》提高篇
PHAM THI THAO HUONG
Hanoi University
Abstract: Idioms are a product of thinking, a tool to express knowledge, valuable
experience, and the philosophy of life. They are profound and artistic, preserved and
handed down from one generation to the next. Through idioms, we can understand
linguistic characteristics, cultural and historical values, and the ways of thinking in
a nation. Idioms, therefore, are attached special importance in the foreign language
teaching, especially at higher levels. Idiom translation is complicated as it is under
the impacts of national language, culture and lifestyles. The study of idioms is rather
familiar to scholars; however, the object of idioms extracted from university textbooks
is considered to be relatively new. My study is carried out from American translation
theorist Lawrence Venuti’s perspective. Accordingly, I will analyse the ways of translating
Chinese idioms into Vietnamese based on two main translation strategies: foreignizing
translation and domesticating translation.
Keywords: Chinese idioms, Translation strategy, Foreignizing translation,
Domesticating translation,《成功之路》提高篇.

18



×