Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tìm hiểu di tích đền Kim Liên, phường Phương Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.35 KB, 28 trang )

Trờng ĐạI HọC VĂN HOá Hà NộI
KHOA BO TNG
------------

BI TIU LUẬN
ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VỀ DI TÍCH ĐỀN KIM LIÊN
(PHƯỜNG PHƯƠNG LIÊN – ĐỒNG ĐA – HÀ NỘI)

Giảng viên hướng dẫn : TS. Phạm Thu Hương
Sinh viên thực hiện

: Lê Hà Trang

Lớp

: BT 29B

Hà Nội – 2012


Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Di tích lịch sử văn hóa là nơi ghi dấu những cơng sức, tài nghệ, ý đồ của cá
nhân hay tập thể con người trong lịch sử để lại, là quá trình kết tinh tài năng, trí
lực sáng tạo để trở thành những bằng chứng trung thành, xác thực, cụ thể nhất
về lịch sử bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Ở đó chứa đựng tất cả những gì
thuộc về truyền thống dân tộc tốt đẹp, về kĩ năng, kĩ xảo của con người. Các di
tích lịch sử văn hóa tiềm ẩn dưới vẻ rêu phong, cổ kính đồng thời cũng là một
bảo tàng sống về kiến trúc điêu khắc, trang trí và cả phong tục cổ truyền, tín
ngưỡng của người việt. Chúng đã là những di sản quý giá không chỉ của một địa
phương, một dân tộc mà còn là tài sản của tồn nhân loại. Mỗi di tích lịch sử văn


hóa tồn tại, chúng khơng chỉ là cơng trình kiến trúc, những tác phẩm nghệ thuật
có giá trị mà bên cạnh đó chúng cịn mang trong mình những hơi thở của thời
đại lịch sử, những phong tục tập quán, những tín ngưỡng dân gian. Những di
tích ấy sẽ trở lên có ý nghĩa nếu ta đi sâu vào nghiên cứu, phân tích, bóc tách các
lớp văn hóa chứa đựng trong đó để phần nào hiểu rõ hơn về cội nguồn văn hóa
dân tộc, để biết lựa chọn khai thác cũng như bảo tồn, phát huy những tinh hoa
truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục, lấy đó làm nền tảng xây dựng một
nền văn hóa việt nam vừa mang dư âm cổ truyền, vừa mang màu sắc hiện đại.
Đi khắp đất nước Việt Nam ở đâu chúng ta cũng bắt gặp những hình ảnh của
những ngơi Đền. Và đền chính là nơi hội tụ các yếu tố, giá trị văn hóa. Hình ảnh
những ngơi Đền vốn rất đỗi thân quen với mỗi người dân Việt Nam. Không
những vậy đến với Đền là chúng ta đang trở về với văn hóa truyền thống của
dân tộc. Những giá trị, những bản sắc văn hóa trong đó có cả giá trị vật thể và
giá trị phi vật thể được phục hồi.
Đền Kim Liên là một trong tứ trấn thiêng liêng của kinh thành Thăng
Long xưa cùng với ba trấn còn lại,đền Kim Liên đóng vai trị quan trọng trong
đời sống nhân dân và đời sống văn hóa Việt Nam. Bốn trấn này nằm quanh kinh


đô, nên cũng gọi là bốn nội trấn (hoặc bốn kinh lộ/kinh trấn), chính là những
phên giậu che chở cho kinh thành Thăng Long về an ninh, chính trị và trực tiếp
cung cấp lương thực, rau quả cho kinh thành. Trải qua hơn năm trăm năm tồn
tại,chịu bao thăng trầm lịch sử,bom đạn trong các thời kỳ khàng chiến nhưng
đền Kim Liên vẫn giữ được nét riêng cho mình,các phần kiến trúc và điêu khắc
mang đậm phong cách thời Lê Trung Hưng.Và đặc biệt hơn cả,đền Kim Liên
lưu giữ được tấm bia sắc phong thần Cao Sơn-một di vật quý của dân tộc Việt
Nam.Quanh tấm bia và tích thần Cao Sơn là những câu chuyện huyền bí.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là Trấn nam thành Thăng Long- đền
Kim Liên thuộc phường Phương Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

3. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian : nghiên cứu di tích đền Kim Liên,sự hình thành và tồn tại
của di tích từ khi tồn tại đến khi khởi dựng
Về không gian : nghiên cứu di tích đền Kim Liên về lịch sử-văn hóa vùng
đất nơi di tích tồn tại.
4.Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về vùng đất,con người nơi di tich tồn tại và phát triển,và những
giá trị về lịch sử,văn hóa trên cơ sở khảo sát thực tiễn với mong muốn bảo tồn
và phát huy giá trị của di tích trong thơi đại ngày nay.
5.Bố cuc của tiểu luận
Ngoài phần mở bài,kết luận,tài liệu tham khảo thì bài viết gồm ba
chương :
Chương 1 Lịch sử hình thành và tồn tại của di tích.
Chương 2 Giá trị về kiến trúc và nghệ thuật.
Chương 3 Một số ý kiến riêng về việc bảo tồn và phát huy giá trị của di
tích.


Chương 1
Lịch sử tồn tại và hình thành của di tích
1.1 Lịch sử vùng đất
Đền Kim Liên thuộc làng Kim Liên phường Phương Liên, quận Đống Đa,
Hà Nội.Xưa làng có tên là làng Đồng Lầm , thuộc phủ Phụng Thiên, thành
Thăng Long.Tên này là do nhân dân trong làng đặt ra.Đến năm Kỷ Sửu (1619),
vua Lê Thần Tông niêm hiệu Vĩnh Tộ đổi tên Đồng Lầm thành Kim Hoa (Bông
hoa vàng). Làng thuộc phường Kim Hoa và Đông Tác thuộc huyện Thọ Xương,
phủ Hoài Đức. Năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị tứ niên đổi tên làng thành
làng Kim Liên (Bơng sen vàng), vì kỵ húy mẹ Vua Thiệu Trị là Hồ Thị



Hoa.Cùng thời gian đó tất cả các địa danh có gắn chữ “hoa” đều phải đổi.Từ đó
cho đến nay, sau nhiều lần thay đổi địa dư hành chính, làng vẫn mang tên làng
Kim Liên.
Làng Kim Liên xưa nằm ở phía Nam kinh đô Thăng Long và là một trong
36 phường của Kinh đơ Thăng Long thời Lê. Phía Đơng giáp làng Vân Hồ có
đàn Nam Giao, có hai hồ lớn là hồ Bảy Mẫu và hồ Ba Mẫu ; phía Tây giáp làng
Xã Đàn có đàn Xã Tắc; phía Nam giáp làng Đồng Tâm có Đê La Thành, sơng
Kim Ngưu; phía Bắc giáp phố Khâm Thiên có Đài Thiên Văn
Theo những bậc cao niên kể lại thì làng Kim Liên trước đây vốn là khu
rừng rậm rạp và rộng lớn, nhưng do chấn động địa chất nên sụt xuống thành
nhiều ao, hồ, đầm, đầy bùn, xen kẽ các gò đất cao, thấp được bao quanh ba hịn
đảo Qn Gió, đảo Câu và đảo Hịa Bình. Có con sơng Tơ Lịch chạy ngang cánh
đồng, bao bọc phía ngồi làng. Dọc làng có các gị Văn Chỉ, gị Đền, gị Miếu,
gị Đầm.
Dân làng Kim Liên thuộc nhiều họ : họ Phạm, họ Nguyễn (là hai dịng họ
đơng người nhất chiếm 2/3 dân số làng). Và các họ Đinh, Phan, Lê, Bùi, Trần,
Tạ (họ Tạ là ít người nhất). Làng Kim liên cũng là một làng đơng dân cư, năm
1927 có 15 nhân khấu theo Ngô Vĩ Liên, trong khi làng Trung Tự có 398 người,
Phương Liệt có 621 người. Đời Tự Đức triều đình mở cuộc vận động người đi
lần biển Thái Bình, dân làng Kim Liên cũng có nhiều người ứng mộ đến chỗ đất
mới khá đông. Hiện nay dân làng một phần thì đi phân tán làm ăn ở nhiều nơi
khác nhau, phần còn lại là người trong thiên hạ đến cư ngụ.
Về sinh hoạt kinh tế, phụ nữ làng chuyên nhuộm vải, làm ruộng, trồng rau
muống nước (gọi là rau muống giải, những ngọn lá cuống to có màu tím, luộc có
nước màu tím trong. Dân làng sống thành từng xóm ven các gị đất cao với nghề
làm ruộng, thả cá, thả rau muống bè và trồng màu. Làng Kim Liên xưa còn nổi
tiếng với nghề thả sen, ướp chè nhờ có đầm nước rộng.
Làng cịn có nghề nhuộm vải nâu (dân làng thường lấy bùn để “nhấn bùn”
cho vải màu nâu ngả sang màu đen, từ hồ Bảy Mẫu và hồ Ba Mẫu), nên làng còn



có tên là Đồng Lầm (làng đồng ruộng nhiều bùn). Đây cũng là nét đặc trưng của
làng Kim Liên nay - Đồng Lầm xưa, bởi vải Đồng Lầm trước đây rất nổi tiếng.
Vải Đồng Lầm mỏng như voan, được nhuộm từ bùn của cánh đồng làng
thành vải nâu non hay nâu sồng, đặc biệt là vải Rồng. Vải Rồng đẹp có tiếng gần
xa, sau rồi người ta gọi là vải Đồng Lầm - nghĩa là một vùng đầm nước rộng,
nhiều bùn, từ loại bùn đặc biệt, riêng có của vùng đất này đã tạo nên một sản
phẩm làm đẹp cho người.
Nam giới có các nghề cắt tóc, làm ruộng, bổ củi, làm thuê cho người trên
phố. Theo các cụ trong làng truyền lại, nghề cắt tóc bắt đầu từ ngày hội làng, có
thầy địa lý Tả Ao đến dự. Lý trưởng đã nhờ thầy “xem” cho làng làm thêm
nghề.Ông Tả Ao thấy làng có một số người làm nghề cắt tóc liền khuyên mọi
người nên phát huy nghề này. Từ đó, làng cắt tóc Kim Liên trở nên nổi
tiếng.Thời xưa đa số trung niên đều búi tó,chỉ cạo gáy,sến mai,cịn con trẻ đều
cạo đầu.Các tay kéo, tay dao trai làng Kim Liên rất tài hoa và điêu nghệ, họ từng
có tiếng là “Thăng Long đệ nhất kéo,” cắt tóc như múa.
Một thời trước Cách mạnh Tháng Tám 1945, những tay kéo điệu nghệ của
làng Kim Liên đi hành nghề khắp phố phường Hà Nội. Trong làng có "bác thợ"
Phạm Duy Hào được mệnh danh "cây kéo vàng" với bảy phút hồn thiện một
kiểu tóc nam. Giờ đây, sau nhiều năm mai một, làng bắt đầu khôi phục lại nghề
truyền thống của mình và đã có nhiều thanh niên "tầm sư học đạo," bởi thời
trang tóc cũng đang ngày một lên ngôi.
1.2 Lịch sử đền-đền Kim Liên và nhân vật được thờ
Qua các tư liệu,thư tịch,văn bia,sắc phong về di tích đều khẳng dịnh Đền
Kim Liên là nơi thờ thần Cao Sơn,một nhân vật quan trọng trong Điện Thần Việt
cổ.Theo văn bản cổ nhất có niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1510) có ghi tên di
tích là “Cao Sơn Đại Vương Thần Từ” .Tương thần này vốn là con thứ mười bảy
trong một trăm con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, người theo mẹ lên núi và phò
giúp anh trai mở ra triều đại Hùng Vương lẫy lừng danh tiếng.,đã cùng Sơn Tinh
(tức Thánh Tản Viên) chống lại Thủy Tinh mang lại sự bình n cho mn dân



trăm họ và sau được thờ là thần thứ hai trong Đền Và ( Sơn Tây).Đến thời Lê,
thần Cao Sơn đã được lịch sử hóa, có tên gọi và quê quán. Đó là Nguyễn Hiền
cùng với em ruột là Nguyễn Sùng (tức là thần Qúi Minh), đều là con người chú
ruột của Sơn Tinh Nguyễn Tuấn. Họ là người ở trang Thanh Uyên (nay là xã
Thanh Uyên, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ).
Thế kỉ XVI vua Lê Tương Dực thời Lê Sơ bị vua Lê Uy Mẫn tức Lê Ủy
Mục tàn ác ăn chơi,xúi giục bọn nịnh thần diệt các quan trung thành,đàn áp
dân.Vua lánh nạn vào Tây Đô dấy nghĩa binh,khôi phục cơ nghiệp của vua Cao
Tổ,cứu vớt dân lành khỏi kiếp lầm than cùng với 3 vị đại thần là Tước Uy Quốc
Cơng Nguyễn Bá Lân,Tước An Hịa Hầu Nguyễn Hoằng Dụ,Tứ Vệ Quân Vụ Sự
Nguyễn Văn Lữ phụng mệnh mang quân đi chinh phạt,cầm cờ tiết mao,vác búa
hồng kim. Ngang qua vùng Phụng Hố, trơng thấy ngơi đền cổ nằm giữa ngút
ngàn rừng núi, nhờ tấm biển mà biết đó là đền thờ Cao Sơn Đại Vương, ba vị
tướng quân bèn vào làm lễ cầu thần phò trợ.. Quả nhiên sau mười ngày đã thành
công, đánh tan loạn đảng, giữ được nghiệp bá do vua Lê Thái Tổ gây dựng. Vì
thế, vua Lê Tương Dực cho xây dựng đền thờ thần Cao Sơn được lập ở Phụng
Hóa.Năm đó vào ngày hai tháng chạp nhà Vua lên ngơi ,giành lại được ngai
vàng ,nghĩ đến ơn Thần Ngầm giúp nên năm đó nhà vua đã cho dựng lại đền thờ
to đẹp hơn ở phường Kim Hoa gần Thăng Long lúc bấy giờ và dựng 1 tấm bia
đá đồ sộ mang tên “Cao Sơn Đại Vương Thần Từ Bi Minh do tiến sĩ Lê
Tung,thượng thư bộ lễ viết soạn và đã được lưu truyền mãi mãi để hương khói
tưởng nhớ công lao của thần. Tấm bia “Cao Sơn đại vương thần từ bi minh” vốn
ở huyện Phụng Hóa, đến đời Hoằng Định (1600-1619) lại nổi lên bến Bồ Đề và
được dân phường Kim Liên kéo đưa rước về đặt ở di tích như ngày nay.Trong
thời kì kháng chiến đền đã bị thiêu hủy nhiều,chỉ còn lại hậu cung,và bây giờ là
đền mới nhưng vẫn giữ được những nét độc đáo của thời Lê.
Đền Kim Liên được dân làng Kim Liên và các vùng lân cận góp cơng góp
của. Cũng khơng thể không kể đến một số lượng tiền không nhỏ của nhiều nhà

hảo tâm cúng tiến để xây dựng, tôn tạo nên ngày càng bề thế. Thế nhưng đền


Kim Liên cũng như bao danh lam khác đâu tránh khỏi những luân trầm của thời
gian. Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc, đền đã bị
tàn phá nghiêm trọng. Một số đồ thờ cúng bị hư hại, mất mát, thất lạc. Từ khi
được Nhà nước xếp hạng Di tích Văn hố - Kiến trúc hợp với tâm nguyện của
nhân dân, đền Kim Liên mới được chú ý tu bổ. Bước đầu là bằng tiền công đức.
thấy tầm bia có ghi cơng ơn của thần Cao Sơn thì trấn Nam mới được xác định.
Năm 1990 Nhà nước và Bộ VHTT mới quyết định công nhận di tích lịch sử đền,
đền Kim Liên là một trong "tứ trấn Thăng Long" - đền tồn tại 480 năm. Năm
1999, Ban Quản lý đền đã cho sửa sang cổng phụ phía ngồi và xây dựng hai
dãy nhà cấp 4 hai bên để làm nơi tiếp khách, nơi ở cho những người trông coi,
kho tàng, tuy chưa khang trang nhưng đã gọn gàng sạch sẽ.Năm 2000 Nhà nước
đã cho tôn tạo và khánh thành đền Kim Liên. Năm Canh Dần (2010) đền tròn
500 năm, làng tròn 1.000 năm cùng với lịch sử Thăng Long - Hà Nội.


Chương 2
Giá trị của Đền Kim Liên
1.1 Giá trị về mặt kiến trúc
1.1.1 Không gian cảnh quan
Không gian cảnh quan tức là cảnh quan bên ngồi của cơng trình kiến trúc.
Đối với mỗi ngơi chùa thì khơng gian cảnh quan là một yếu tố rất quan trọng
quyết định nên vẻ đẹp của kiến trúc. Cha ông ta ngày xưa khi xây dựng một
cơng trình kiến trúc đã biết lựa chọn, tìm tịi để cho các tác phẩm, cơng trình của
mình có một vị trí đẹp chiếm vị thế. Một khơng gian cảnh quan đẹp và hợp lí với
chức năng và mục đích của nó làm cho giá trị của di tích được tăng lên rất nhiều
lần. Chịu ảnh hưởng lớn của hai nền văn hóa lớn là ẤN ĐỘ và TRUNG HOA
nên khi xây dựng bất cứ cơng trình kiến trúc nào người Việt Nam cũng rất quan

tâm đến viêc chọn hướng đất và thế đất theo thuật phong thủy. Đây là quan niệm
của người dân Phương Đông. Và đặc biệt là xây dựng đình, đền, chùa, tháp…
thì việc chọn ngày, định hướng xem thế đất bao giờ cũng là việt hết sức quan
trọng đối với mỗi người dân Việt Nam. Việc chọn hướng đất thường bị chi phối
bởi yếu tố phong thủy vì thuyết phong thủy cho rằng “ vị trí của thế ở, thế đất có
một ảnh hưởng to lớn đối với con người sống trên đó”. Phong thủy là hệ thống
những quan niệm nhằm xem xét, đánh giá cảnh quan để xác định địa điểm tối ưu
cho một cơng trình kiến trúc. Theo thuyết phong thủy thì chữ “ phong” có nghĩ
là gió, chữ “ thủy” có nghĩa là nước, là hai yếu tố quan trọng nhất trong đó “ đắc
thủy” chỉ chỗ có dịng nước chảy quanh là quan trọng hơn hết sau đó mới đến
“tụ phong” nghĩa là kiêng tránh gió, thu giữ gió là điều quan trọng thứ hai.
Ở Việt Nam, quan niệm về lý thuyết phong thủy được thể hiện rõ nhất trong
hai câu thơ của nhà sư Không Lộ thời Lý : Tuyển đắc long xà, địa khả cư” nghĩa


là “ chọn được thế đất rồng rắn thì có thể ở yên”. Giống như những ngôi đền
khác ở Việt Nam, đền Kim Liên cũng được xây dựng theo thuyết phong thủy đó.
Đền được xây dựng trên một gị đất ở phía đơng-bắc đầm Kim Liên. Cổng
đền và cửa chính điện đều hướng về phía tây-nam, trơng ra đầm Kim Liên, nay
khơng cịn do bị lấp đi để làm đường Xã Đàn vùng này cũng là nơi mở ra ô Kim
Hoa (cịn gọi là ơ Đồng Lầm), cửa ngõ giao lưu giữa vùng Sơn Nam về với Kinh
thành.
Trước đền là giếng ngọc theo hình bán nguyệt phía trước là bức bình phong
án ngữ,theo thời gian,giếng ngọc đã bị thu hẹp lại và bị ô nhiễm nặng nề bởi ý
thức của người dân xung quanh đền. Trước cửa đền là tấm bình phong đóng vai
trị tiền án, chắn gió độc và những điều khơng tốt lành. Dáng bình phong tựa
như một cuốn thư đang mở, có đắp nổi phù điêu rồng vờn mây. Phía sau bình
phong là khoảng sân nhỏ dẫn vào cổng ngoài của đền.
Bước vào trong đền ta thấy ngay khơng gian nơi đây rất thống mát,sân
đền rộng,bốn góc có bốn cây si,đa và cây lúc lác hoa chum như hoa phượng đỏ

rực càng làm tăng thêm vẻ đẹp nơi thờ kính.Tán lá to tạo ra các bóng mát xung
quanh. Đền đã được dân làng sửa sang, có đại bái dàn ngang và hậu cung chạy
dọc, hai bên sân cịn có giải vũ, cùng với cây cao bóng cả là bộ mặt văn hố làng
xưa.Phía bên tay phải trước điện thờ thần là nơi để kiệu rước,đi sâu hơn nữa là
nơi đặt tấm bia “Cao Sơn đại vương thần từ bi minh”,bao quanh tấm bia đó là
một cây cổ thụ,tán là rộng.Nơi sắp lễ có các ghế đá,cây cau tạo điều kiện cho
thuận lợi cho nhân dân trong việc dâng hương.
1.1.2 Bố cục mặt bằng
Kiến trúc của đền bao gồm hai phần tương đối rõ: đền gốc và phần kiến trúc
chính của di tích mới được xây dựng khi đền mang chức năng của ngơi đình
làng.Đền Kim Liên sau khi tu bổ có thêm một cổng tam quan bên ngồi,nên
phần kiến trúc của đền có nội tam quan và ngoại tam quan.


Ngoại tam quan trước là một cổng xây trụ biểu, đỉnh trụ đều có đặt con
nghê gốm quay mặt vào nhau, phía dưới là những ơ lồng đèn trong đó đắp nổi
các hình tứ linh (long, ly, quy, phượng).Sau được xây mới thành cổng tam quan
cổng nghi môn đã xây mới một cách sao chép giống với cổng tam quan của chùa
Láng,dạng tứ trụ có mái, bên cạnh đó vẫn có 2 cổng phụ và tổng thể trở thành
Ngũ mơn.Hai trụ ở giữa cao nhất,trên cùng là bốn chim phượng quay lưng lại
với nhau như một hoa văn.Hai cột trụ hai cịn lại thấp hơn phía trên là hình hai
con nghê quay đầu vào nhau.Bờ nóc phía trên được trang trí hình lưỡng long
chầu nhật,và các đề tài tứ linh.Ngói vảy hến dưới dạng vỏ sị,tạo thành các tầng
các lớp.Phía đầu kìm của mái là trang trí Makara.
Hai bên đền có hai gian: Tả Vu và Hữu Vu,một bên dùng để hội họp,một
bên dùng đề dạy học,hai gian này rộng hơn 4m,dài 14m1,được xây theo kiểu
tường bao,với bậc tam cấp cao hơn nền sân khoảng 40cm ,kiểu vì kèo quá giang.
Bốn cột có chu vi khoảng 80cm,được làm lại tồn bộ là gỗ.Mái ngói theo kiểu
ngói vỏ sị phía trên bờ nóc xây những bờ đinh.Hai gian tảo xá có những cánh
cửa theo kiểu thượng song hạ bản.Hệ thống vì kèo rất chắc chắn tạo được sự

liên kết,vì giá chiêng chồng rường con nhị là gỗ nguyên bản,trên có trang trí các
hình hoa va hình rồng.
Kiến trúc của đền theo kiểu chữ Đinh,hướng bắc phía Khâm Thiên,có đài
thiên văn,phía nam qay ra Đê La Thành,phía tây là Đàn Xã Tắc,nay gọi là Xã
Đàn là vùng đất rộng dùng để luyện quân luyện võ.Đền được dựng ở bên trái
của đền làng Kim Liên, từ sân lên nội tam quan phải qua 9 bậc xây bằng gạch vồ
cổ. Chín bậc như ở hệ thống cửa điện Kính Thiên trong thành Hà Nội, gợi nơi
ngự của thần được xếp ngang cấp với vua ở chốn cửu trùng,.Kiến trúc ngôi đền
là kiến trúc thời Lê Trung Hưng theo kiểu hình tượng rồng,đền là đầu rồng,hậu
cung là sừng rồng hai phần ao ở bên là mắt rồng ( nhưng hiện nay hai phần ao
đó đã bị lấp do dân làm nhà) hai gian đơn nguyên kiến trúc ở hai bên sân đền là
má rồng ( xưa là trường học của làng,và cho đến nay là nơi để hội họp),phía
ngồi mặt đường trước cổng đền có phần ao nhỏ,bức bình phong ở trước là mũi


rồng,cịn chính phần ao đó là miệng rồng.Hai con đường ở phía trước đền là râu
rồng,con đường phía sau đền là kéo dài hết đường Kim Hoa là đi rồng,cịn lại
các lối rẽ vào ngõ là chân rồng.
Đền gồm có phía trước là Phương đền,nay là nội tam quan,có kiến trúc
khơng cầu kỳ. Tam Quan hay nói cách khác chính là cửa đền, nhưng đồng thời
cũng là tuyên ngôn về đạo pháp của phật giáo. Ở ngồi tam quan có rất nhiều
đường đến với đạo tượng trưng là tám vạn tứ pháp môn. Khi đến tam quan là
con người đã được giáo dục bước đầu về đạo phật. Vì tam quan đã mang ý nghĩa
sâu sắc giữ đạo và đời. Tam quan thường được kết cấu ba cửa. Nó là biểu hiện
cho ba điều pháp ẩn : khổ - vô thường – vơ ngã, là ba lối nhìn của phật về thế
giới mn lồi đó là khơng quan, giả quan và trung quan.
Bước qua mười một bậc xây từ sân lên là một cửa chính rộng 2 mét, cao 2,5
mét. Tiếp đó 1,2 mét cũng là một cửa chính kích thước như thế và hai cửa phụ
hai bên, mỗi cửa rộng 1 mét, cao 2 mét.Bốn bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu
chồng rường.Vì kèo của phương đình đã được làm mới, với các hoạ tiết điêu

khắc quen thuộc ở đền, đình Việt Nam, mang đậm nét kiến trúc thời Nguyễn.
Các đầu rường phía trên chồng lên nhau chạm nổi hình vân mây.Hai bộ vì ở
ngồi cũng được chạm nổi trang trí phượng hàm thư,long mã,chạm rộng thành
nhiều lớp,có niên đại thời Nguyễn, tạo cho người xem cảm nhận kĩ thuật chạm
trổ tinh vi và công phu,. Đầu kèo phía dưới cũng được chạm nổi hình chim
phượng hồng ngậm cuốn thư.Liên kết ở hiên là bẩy chéo,phía trong 2 bên kẻ
chạm nổi hình rồng thiếp vàng,trong miệng ngậm ngọc,hướng ra phía ngồi
hiên.Mái đền lợp bằng ngói vỏ sị, đỉnh nóc phía hai hồi là hai con sư tử đá được
gắn vững chãi có hướng chầu vào nhau, xây kiểu tường hồi bít đốc..Các đấu
vng đều được chạm khắc chữ Thọ. Bậc thềm có 9 bậc (theo quan niệm xưa, 9
là số của bậc đế vương). Dọc theo các bậc thềm có hình bốn con rồng cách điệu
kiểu vờn mây,kiến trúc kiểu thời Lê Trung Hưng,phía đầu uốn khúc là đầu con
nghê.Trên hai bức tường bên hơng của phương đình có đắp nổi tượng hai vị thần
gác đền với khn mặt nhìn ra phía ngồi, tư thế chào mọi người. Có lẽ đây là


tượng thần mới đắp nên có dáng vẻ thân thiện, không oai vệ và uy nghiêm như
thần gác cửa ở các ngôi đền khác. Dưới chân hai thần là bát nhang và xấp "tiền
quà". Có thể đây là nơi người xưa thường đặt lá sớ của mình để gởi đến thần
linh.Mỗi bên có ba bậc bước lên,gian giữa thấp hơn để tế lễ.Ngang tam quan có
ba lối đi xuống,hai lối phụ,mỗi bên có bảy bậc, cịn ở giữa tam quan là lối lên
chin.Tính từ dưới lên đến bậc thứ bảy,bậc rộng đủ để trải một chiếu để các tiên
thứ chỉ ngồi xem hội và ca trù.
Kiến trúc chính gồm đại bái và hậu cung ,đền chính có kết cấu hình chữ Đinh.
Tòa bái đường, qua thời gian dài tồn tại, đến nay chỉ còn dấu vết để lại, là một
nền đất cao và những hàng đá tảng kê chân cột to,dầy. sau khi trùng tu nay nền
nhà đã được thay bằng gạch đá hoa. Đại bái ( trước đây) gồm năm gian và hai
sảnh là bảy gian,trong có hai ngựa sơn đỏ và trắng,mỗi con có bốn bánh xe.Gian
Đại Bái nằm chính giữa sân đền,có bậc tam cấp cách mặt sân khoảng 60cm. Hệ
thống cửa cũng theo kiểu thượng song hạ bản,đã được sơn son thiếp vàng toàn

bộ. Phần mái ngói của gian này cũng là ngói vỏ sị. Hai đầu kìm được đắp nổi
hai con rồng. Đầu rồng có tóc chải dựng ngược về phía sau. Đi rồng là dạng
văn xoắn lớn cuộn ngược lên trên. Chiều cao của mái bằng 2/3 chiều cao của
gian với mặt phẳng rộng,phần đầu mái cong lên phía trước theo kiến trúc của thế
kỉ 17. Trên bờ dải cũng trang trí hình lưỡng long chầu nhật,với 2 con rồng trong
tư thế rất vươn dài uy nghiêm,phần vảy rồng rõ ràng,bờm được chạm nổi như
những ngọn lửa.
Bên trong gian Bái Đường có hệ thống vì ván mơ,các thanh rường có tiết diện
lớn, tạo thành khối tam giác cân hổ phù gồm các hoa văn thực vật. Bên trên là
gỗ liên kết vì kèo và xà tạo ra khung mái, cột có xà, hồnh ăn mộng vào . Bộ vì
bao gồm : trên cùng là thượng lương, thương lương được đặt trên đầu hình
thuyền, đầu này được bào trơn, đặt trên một ván lót, hình chữ nhật mỏng, ván lót
này được đặt trực tiếp trên con rường thứ nhất của bộ vì, con rường này hai đầu
đặt lên cột trốn qua một đấu vng thót đáy mỏng. Quá giang một đầu ăn mộng


vào đầu cột trốn, cột trốn được đặt trên hệ thống xà thượng. Từ đầu cột trốn có
các con rường cụt vươn ra để đỡ các con hoành của mái. Từ cột cái sang cột
quân là những con rường được ăn mộng vào đầu cột trốn vươn ra để đỡ các
khoang hoành. Nối giữa cột cái nọ với cột cái gian kia là một xà dọc. Xà dọc này
tì lực lên cột cái.Bên ngoài là hệ thống kẻ ngồi được chạm khắc tinh xảo,đề tài
rất phong phú đều là các tứ linh,hoa mai,vân mây….Bốn cột trụ cái có chu vi
1m, đều được gắn các câu đối lên trên,trên các câu đối đều được chạm trổ tinh
xảo,các hoa văn và họa tiết sắc nét,mang đậm phong cách của thời Nguyễn. Hai
bên ban Cơng đồng các quan có thêm hai cột có chu vi nhỏ hơn và cũng được
treo câu đối.Bốn cột trụ ngồi phía trước có chu vi khoảng 1m3, n. Hầu hết sau
khi tu bổ lại,các cấu kiện đền Kim Liên đều được sơn son thiếp vàng toàn bộ,kể
cả các hoa văn chạm khắc. Đền thờ chính có năm gian và bốn lớp. Lớp mái có
cấu tạo như nơi chuẩn bị mũ áo, đồ tế lễ để vào đền. Lớp thứ hai là tiền đình nơi để cử hành nghi thức lễ bái. Lớp thứ ba là trung đình (ban thờ Chủ tịch Hồ
Chí Minh, tam phủ). Lớp thứ tư là hậu cung - nơi thờ Cao Sơn Đại Vương.

Phía bên phải trung đình có ban thờ Tam phủ: Thiên (trời) - Địa (đất) Thuỷ (nước). Ban thờ này ảnh hưởng đậm nét đạo Lão, thể hiện quan niệm vạn
vật hữu linh. Trong trung đình có nhiều hương án rất đẹp đựơc chạm theo kĩ
thuật thông phong với nhiều đề tài phong phú như hoa quả, cây lá, trang châu tứ
linh, tứ quý, bát bửu, long mã...
Ở giữa trung đình là ban thờ Công đồng các quan. Nơi đây cũng là chỗ
tiến hành nghi thức quan trọng khi cúng lễ đền. Cũng như ở các đền và đình
khác, ban thờ các quan văn và quan võ riêng hoặc văn võ chung đều được đặt ở
trung đình, trước chính điện hoặc hậu cung. Hai bên trung đình đặt hai bộ bát
bửu dùng để rước trong lễ hội,ở giữa là bộ kích đặt trước là hai đỉnh đồng với
chạm khắc nổi bật.Trên tất cả các ban thờ đều đạt tượng hạc đứng trên lưng rùa
rất uy nghiêm.


Ở nhiều đền thờ hiện nay có thêm ban thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong
đền Kim Liên, ban thờ này được đặt ở gian bên trái của trung đình. B Phía trước
là bàn tiếp khách và bàn ghi sổ công đức của đền. Gian kế bên là nơi để trống
hội, bằng cơng nhận bia và đền đình Kim Liên là di tích lịch sử văn hố do Bộ
Văn hố - Thơng tin (nay là Bộ Văn hố - Thể thao và Du lịch) cấp.
Hậu cung ở phía sau trung đình là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương (tượng ở
giữa ) và hai nữ thần phối tự: Thuỷ Tinh đệ tam - Tôn nữ Đông Hồ Trưng
Vương, con gái vua Lê (tượng khoác áo màu trắng) và Huệ Minh phu nhân
(tượng khốc áo màu đỏ). Trong đình hiện vẫn cịn long ngai thờ thần Cao Sơn
(có kích thước lớn, được chạm khắc tinh vi với kiểu chân quỳ.
Trong hậu cung đặt hai long ngai và 10 pho tượng từ điện Mẫu của
chùa Kim Liên ở cạnh đưa tới. Hậu cung và Đại bái diện tích khoảng 50 m2
cũng kết cấu vì kèo gỗ, chạm trổ, trên là mái lợp ngói.Gian thứ hai của hậu cung
xây bệ gạch cao 1m để đặt hai long ngai và các đồ tế khí. Gian cuối cùng của
hậu cung là nơi thờ Cao Sơn đại vương và hai nữ thần phối hưởng (là “Thủy
tinh đệ tam tôn nữ Đông hổ trưng vương mẫu” và “Huệ minh phu nhân”).
. Hậu cung là một nếp nhà ba gian dọc, xây gạch trần mái lợp ngói mới.

Trong nhà xây vịm cuốn, nội thất được bố trí như sau: gian ngồi cùng, có bệ
gạch cao để đặt hương án; gian thứ hai xây bệ gạch cao để đặt long ngai và các
đồ tế khí. Gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai nữ thần phối
hưởng (Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương công chúa con gái vua Lê và Huệ Minh
công chúa).Ngày trước nơi thờ Cao Sơn Đại Vương chỉ có ngai,hia,mũ,chưa có
tượng cịn ngày nay Long ngai thờ thần Cao Sơn có kích thước lớn, chạm khắc
tinh vi, được làm theo kiểu chân quì dạ cá, các lớp trên chạm thủng hoa dây, là
một hiện vật quý, hiếm.
Phía bên trái Bái đường là gian nhà mẫu, tường xây theo kiểu tường hồi bít
đốc. Kết cấu vì theo kiểu chồng rường, gian chính giữa là bàn thờ mẫu, cịn gian
ngồi cùng bên phải là nơi để đồ thờ tự và đồ tế khí của chùa. Nền nhà mẫu lát


gạch màu đỏ mái lợp ngói. Nhà mẫu được kết cấu bởi một hang chân cột bằng
bê tông vuông. Cột này là nơi chịu lực chính cho tịa nhà, một đầu xà được đặt
lên đầu cột, một đầu được đặt trực tiếp lên tường bao.
Diềm mái hiên nhà mẫu trang trí hoa văn hình lá. Nhà mẫu được trổ hoa cửa,
cửa rộng 1,7m, cao 2,3m. Được làm theo kiểu thượng song hạ bản, trên các cửa
được chạm nổi các đề tài tứ quý như tùng, cúc, trúc, mai. Cửa được làm bằng gỗ
lim, ngồi ra phía ngồi cửa có câu đối.
Trước điện thờ mẫu cịn có giếng khơi,vị mẫu này là được đưa từ ngoài
Bảy mẫu vào thờ trong đền.
Bên phải ngoài sân dưới hốc cây đa là miếu thờ bia Cao Sơn.Tấm bia
được đặt ở giữa bên trong gốc cây đa cổ thụ,
2.2 Giá trị về nghệ thuật
2.2.1 Hoa văn trang trí trên các đơn nguyên kiến trúc
Cổng nghi mơn có bốn bộ vì đỡ mái, được làm theo kiểu chồng rường,
giá chiêng, cột trốn. Nghi môn này là sản phẩm của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Tuy mới chỉ tồn tại trên 100 năm, nhưng mạch nguồn của ước vọng nơng nghiệp
vơ bờ bến vẫn cịn chảy theo nghệ thuật của cột. Đỉnh cột đắp lân, trong thế nhìn

xuống với ý nghĩa kiểm sốt tâm hồn kẻ hành hương. Lân cịn là biểu tượng của
sự thơng minh, sinh khí của tầng trời. Thơng qua cột con người mong muốn
nguồn sinh lực thiêng liêng đó tràn về trần gian, và như thế các cột đã như gạch
nối giữa tầng trên và tầng dưới, để chúng mang tư cách những trục vũ trụ. Dưới
lân là bốn mui luyện, trên mặt đắp nổi hình hổ phù đang nhả ra chữ "hỷ", đó là
biểu tượng liên quan tới việc cầu no đủ và mọi nguồn hạnh phúc. Tiếp dưới là
khối lồng đèn đắp nổi tứ linh... Hai bức tường nối trục song tả hữu mơn, mỗi cửa
đều có hai tầng tám mái giả, ở đó vẫn thống như đọc được ý nghĩa về dịch
họcCác con giường được trang trí bằng kỹ thuật chạm nổi các hình mây cuộn,
câu đầu và 2 bẩy của hai vì ngồi được trang trí phượng hàm thư, long mã, rồng
chạm bong kênh, chạm lộng nhiều lớp.


Mái Phương đền lợp bằng ngói mũi, đỉnh nóc phía hai hồi là hai con sư tử
đá được gắn vững chãi có hướng chầu vào nhau. Hậu cung và Đại bái diện tích
khoảng 50 m2 cũng kết cấu vì kèo gỗ, chạm trổ, trên là mái lợp ngói. Chính sự
cổ kính và linh thiêng của ngơi đền đã thu hút rất nhiều khách thập phương đến
tham quan, vãn cảnh.Long ngai thờ Thành hoàng Cao Sơn Đại Vương được
chạm khắc tinh sảo, sơn son thiếp vàng sáng đẹp lộng lẫy. Ngai bệ hình vng
chế theo kiểu "chân quỳ, dạ cá", các lớp trên được chạm thủng hoa dây ,đường
nét uốn lượn uyển chuyển,các cột các hoành phi bên trong đều được sơn son
thiếp vàng.Đồ thờ cùng nổi bật với hai gam đỏ và vàng. Thâm cung trang
nghiêm, ánh sáng hắt từ các ơ cửa, vịm mái vừa đủ cho ta cảm giác mờ ảo linh
thiêng…Hương án trang trí kín các đồ án hoa văn theo các ơ hình chữ nhật bằng
kỹ thuật chạm thủng, chạm nổi đề tài phong phú như hình hổ phù, long mã tranh
châu, tứ linh, tứ quý, bát bửu.
Ngồi cổng tam quan đơi lan can có chạm trổ vân mây và đôi rồng đá
cách điệu mang phong cách thời Lê. Lư hương và đôi cây đèn bằng đá được
chạmkhắc điêu luyện đặt ngay tại sân lớn trước cửa Đền.Trên đỉnh của đôi đèn
được chạm khắc hoa sen và vân mây uốn lượn.

2.2.2 Các di vật tiêu biểu
Hiện nay trong đền còn lưu lại rất nhiều di vật q,đặc biệt trong đó cịn
lưu giữ tấm bia “Cao sơn Đại Vương thần từ bi minh” cao 2,34m, rộng 1,57m,
dầy 0,22m do học sĩ bộ lễ Thượng thư,tiến sĩ ,tề tựu Quốc Tử Giám Lê Trung
vào kho sách nhà vua soạn thảo năm 1510, nói về cơng lao của thần Cao
Sơn.Đến năm Bính Tý (1516) vua Lê Tương Dực mất khi chưa hoàn thành xong
cuốn sách này,và đến năm Cảnh Hưng (1772 ) đã được khắc lại trọn vẹn.
Tấm bia gồm hai mặt chữ,bốn mươi bảy dòng,nội dung ca ngợi tài
năng,đức độ,sự thiêng liêng của Cao Sơn đại vương, có trang trí các hình rồng,
mây, hoa, lá, sóng nước, trán bia trang trí hình rồng uốn khúc n ngựa, bờm lửa
đặc trưng của thế kỷ XVIII.Theo truyền thuyết kể lại,bia theo sông Hồng về đến


bến Bồ Đề ( tức làng Ô Cách-Gia Lâm ) có dừng lại,dân làng ra vớt nhưng
khơng được,đến địa phận Kim Liên cạnh sơng Kim Ngưu thì dừng lại.Điều kì lạ
ở chỗ, bia trơi ngược dịng nước,một số làng ra vớt không được,bia lại trôi
đi,qua sông Tô Lịch rồi trôi về sông Kim Ngưu thuộc cánh đồng Tháp trước cửa
đền làng.Các làng lân cận Phương Liên,Khương Thượng,Trung Tự,Kim Hoa
tranh nhau ra vớt.Các cụ cao tuổi làng Kim Hoa vào đền làm lễ khấn thần Cao
Sơn phù hộ cho,rồi mỗi cụ cầm một chiếc khăn nhiễu điều cùng cả dân làng Kim
Hoa ra sông Kim Ngưu,các cụ lễ và mang về thờ,nếu tính thời gian thì bia đã tồn
tại 240 năm (1772-2012),và nay tấm bia được thờ dưới hốc cây đa cổ thụ nghìn
năm tuổi.
Hệ thống 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương, trong đó có hai
sáu đạo thời Lê Trung Hưng, mười ba đạo thời nhà Nguyễn, sớm nhất trong số
đó là sắc phong có niên đại Vĩnh Tộ năm thứ hai (1620).
Ngồi ra đền cịn có hai chuông,chuông thứ nhất đúc từ thời Tự Đức năm
thứ 32-1879 của dòng họ Nguyễn dâng,rộng tám tấc,dài một thước sáu tấc,được
đúc từ loại đồng cực tốt và người luyện đồng giỏi,chuông thứ hai làm từ năm
Thành Thái thứ 40(1892) năm Nhâm Thìn của bà Trần Thị Bảy vận động muôn

phương cúng tiến.Chiếc chiêng đồng được treo trên giá trang trí hình tượng rồng
vờn nối tiếp nhau.

3.2 Lễ hội
3.2.1 Thời gian diễn ra lễ hội
Lễ hội đền Kim Liên diễn ra trong hai ngày, từ ngày 15 đến 16 tháng Ba
âm lịch Chính hội diễn ra vào ngày 16 tháng Ba âm lịch, với sự tham gia của
đông đảo nhân dân và du khách thập phương. Cùng với các tiết mục tế nam,
dâng hương nữ, múa sênh tiền, múa trống, múa rồng.
3.2.2 Công tác chuẩn bị


Vào ngày 11 tháng 3 dân làng rước kiệu ra đầm,hai đảo đền trong và đền
ngồi ra hầu bóng và cùng dân làm lễ,đến ngày 13 tháng 3 lấy nước giếng đầm
cho vào hủ rước về đền chuẩn bị lễ ngày rằm, bắt đầu mở hội,các trò chơi và nấu
cỗ.Ngày 14 chuẩn bị đến ngày 15 mở hội làng,cồng chiêng từ sớm đã vang lên
để báo cho mọi người lên đền xem hội.Ngày 16 là ngày hội chính có các phần
hoạt động nghệ thuật và phần rước lễ.
3.2.3 Phần lễ
Đến ngày 16 tháng 3,ngày rước thần,các trai gái làng được phân công
rước thần hôm trước đã nhận quần áo cùng các đội tư văn,vãi con nhang đẹ tử
chuẩn bị rước.
Từ 6 giờ đến 7 giờ 30 đội tế nam của làng “tế Thượng Đẳng thần Cao Sơn
Đại Vương,và đội Tế nữ dâng hương chuẩn bị.Đội tế nam và tế nữ được chọn
lọc rất kĩ lưỡng,nam phải là trai chưa vợ,gái chưa chồng.Đầu tiên là chủ tế đọc
văn khấn “Thượng Đẳng thần Cao Sơn Đại Vương “,sau đó các vị quan chức
chính phủ,thành phố,quận và phường lên làm lễ dâng hương, tiếp đến là các vị
lão làng cao tuổi dâng hương,sau đến các đồn (các phường bạn,đình-đền bạn )
và cuối cùng là các quý khách thập phương,cá dòng họ và nhân dân lên dâng
hương.

Từ 9 giờ đến 11 giờ là phần rước lễ.Tại sân đền trước hai ngựa gỗ ba kiệu
bày theo hàng ngang : Kiệu ông-Long Đền-Kiệu võng.Nam khiêng kiệu là trai
chưa vợ.Kiệu ông mười tám người khiêng,kiệu Long đền là tám người
khiêng.Và con gái cùng phải chưa chồng mới được rước kiệu.Các cô phải mặc
áo nâu vải rồng thắt lưng xanh đỏ.
Mỗi ngựa có một ơng trang phục võ tướng ngày xưa,càm thanh long đao
và một lính cầm lọng đẩy ngựa.Ba cụ cũng mặc quần áo tướng cầm kiếm,một
kiếm vàng và hai kiếm bạc đi hàng ngang.Đúng 8 giờ hoặc 8 giờ 30 bắt đầu
rước.Đoàn rước theo thứ tự có: Đồn cờ xí 10 người mặc quần áo lính đi hai
bên,Bát bửu 10 người,Đội múa rồng lân sư tử,Các sư các vãi,Tổng phệ,đội lốt
hổ biểu diễn,Hai ông cầm biển vía,Ba tướng cầm kiếm đi hàng ngang,Đội


ngựa,Đội trống,Lọng đền,Đoàn tế áo thụng xanh,Phường bát âm : 8 người
đàn,sáo,nhị,tiêu,bộc,Kiệu ơng có cụ cầm trống chỉ huy,Đồn tế gồm các bà áo
đồng màu,Đoàn sinh tiền gồm các em nhỏ,Kiệu võng,có bà cầm thanh la chỉ
huy,Đồn con nhang đệ tử ,mặc áo đủ màu,có giá ơng ,bà ,cơ,cậu,Đồn đại diện
các giáp các chi,Nhân dân trong làng.
Đoàn rước kéo lễ kéo dài dọc qua tuyến phố Xã Đàn, vòng lại ở ngã tư
trên nóc hầm Kim Liên và rẽ vào đường Kim Hoa.
Khi rước về hai bên đường làng,các nhà xung quanh đều có bàn thờ bái
vọng,khi kiệu đến mới thắp hương lễ và đốt pháo,kiệu đi quanh làng,sau xuống
làng Phương Liệt rồi đến chiều lại quay về.
3.2.4 Phần hội
Từ trước cửa đền đến miếu bia có rất nhiều trị chơi được diễn ra như ném
vịng,hoa quả trầu cau,tài sỉu,tơm cá,chọi gà,ở sân đền thì chơi đánh đu,đánh
vật,đập nồi,bắt vịt,thổi cơm trên nồi.Người người đến cầu phúc lộc mang vàng
hương,hàng đẫy,bánh trái đủ màu. Ngoài đầm sen tổ chức đua thuyền.Những
chiếc thuyền rồng len lỏi qua những khoảng trống của lá sen,lướt sóng thi
nhau.Vào ngày 15 , 2 giờ chiều cỗ của các giáp,các chi mang lên đinh hai sàn gỗ

theo thứ tự từng thơn Đơng thơn Đồi tìm chỗ mà bày cỗ,cỗ được bày có hàng
lối.Từ 8 giờ đến 8 giờ 30 tối làng đốt pháo bong,từ cả bên ngồi hồ đền những
tiếng pháo nổ sang rực một góc trời.Đến khoảng 9 giờ tối ban tổ chức sẽ chấm
thi,cỗ nào được sẽ thong báo về các giáp,.Đúng 12 giờ tán cỗ,cỗ hai bên sàn đền
các chi các giáp sẽ mang về tổ chức ăn uống.Còn cỗ trung đền tổ chức ăn tại
đền.Ngồi sân đền có hát chèo,ca trù.Các chức sắc của làng ngồi ở bậc thứ bảy
của tam quan ngồi xem ca trù và ăn cháo gà.Nghe xong các vị sẽ vào hưởng lộc
cỗ bảy tầng.Cỗ bảy tầng là cổ gồm bảy bàn được chồng lên nhau,mỗi một tàng
là một món ăn,bảy tầng là tượng trưng cho bảy giáp của làng.Bàn cao ba mươi
sáu centimet,ngang sáu lăm centimet.Bảy tầng đó bao gồm :
Tầng 1 : Con lợn quay
Tầng 2 : Mâm xơi gấc
Tầng 3 : Các loại giị chả
Tầng 4 : Các loại bánh trái như bánh xu xuê,bánh mảnh cộng…


Tầng 5 : Các loại hoa quả
Tầng 6 : các trái quả và đĩa trầu cau cánh phượng
Tầng 7 : Điển tích lịch sử của Việt Nam,phía trên treo đèn măng sơng
( các loại điển tích này làm bằng gà nhồi bột,điều rất độc đáo trong hội đền)
Nhà nghèo thì bày cỗ một tầng có mâm xơi con gà,nếu hai tầng là mâm
xơi,trái quả,giị chả,cỗ ba tầng cũng vậy nhưng trên cùng là điển tích
Biểu tượng của cỗ trung đền nói lên được năm đó có được mùa lúa nặng
hạt trĩu bong,hoa nở muôn màu muôn sắc,trái quả xum xuê,chăn ni phát triển
của người nơng dân lao động có được trưng bày các sản phẩm lên cúng thần Cao
Sơn phù hộ cho dân làng.
Hiện nay hội đền Kim Liên vẫn diễn ra vào đúng ngày 16 tháng 3 âm lịch
nhưng những trò chơi dân gian ngày trước đã khan hiếm hơn,chỉ còn lễ rước
kiệu và một số trò chơi ca hát,và cỗ bảy tầng cũng khơng cịn được tổ chức .
Chương 3

Một số ý kiến riêng về việc bảo tồn và phát huy giá trị của di tích.
1.1

Hiện trạng của di tích

Đền Kim Liên trước khi được tu bổ đã khơng thể thốt khỏi những ám
ảnh đau lịng trước một số không gian bị xâm hại và thu hẹp. Một số hạng mục
đã xuống cấp đến mức không thể nhận ra. Diện tích khu đền bị lấn chiếm thu
hẹp nay chỉ cịn 1/3 diện tích trước đây. Đáng chú ý là một số di tích được coi là
linh hồn của quần thể, nay đã khơng cịn nữa. Đơn cử như hai ao nằm ở phía tả,
hữu Hậu cung đã bị các ngôi nhà dân cao 4,5 tầng che lấp cả khơng gian vốn
thống đãng và nghiêm trang của đền.. Trước cửa đền, xưa có một cái ao rộng
khoảng gần 400 m2 (gọi là miệng Rồng) thì nay đã được san lấp, lát gạch bê
tơng làm hè phố. Duy chỉ có phía tả cửa đền là cịn lại một cái giếng đường kính
khoảng 30 m, xưa gọi là giếng Ngọc (truyền thuyết coi giếng này là viên ngọc
để Rồng ngậm)
Mặc dù giếng Ngọc đã được xây tường bao xung quanh nhưng rác rưởi
của các hộ dân mặc sức đổ xuống khiến rất hơi thối. Giếng vẫn có nước nhưng


màu nước xanh bẩn, nhớt nhát. Sẽ rất thiết sót nếu ta khơng tới quan sát Văn bia
phía Đơng đền. Văn bia "Cao Sơn Đại Vương - Thần Từ Bi Minh" dựng bằng
tấm đá đen rất lớn, bên cây si có gốc to cả chục người ơm khơng xuể. Rễ si thả
bóng xuống che nửa phần văn bia càng tơn thêm sự cổ kính.
Thế nhưng cảnh quan linh thiêng này bị các nhà dân lấn chiếm, phải đến
tận tấm cổng bằng gỗ đơn sơ (cách 1-2 mét) mới nhận ra nhà bia. Ban Quản từ
còn cung cấp: Theo chỉ giới đỏ đã được xác định bằng các cột mốc bê tông
(Thành phố quy định cho đền Kim Liên quản lý) thì cịn có 9 hộ dân lấn chiếm
mà nhiều năm nay vẫn chưa giải toả được. Trong đó số nằm sát Văn bia là 4 hộ,
cạnh giếng Ngọc: 4 hộ và khu ao miệng Rồng: 1 hộ. Họ mặc sức kinh doanh các

nghề để kiếm sống thì nghĩ chi đến cảnh quan của đền, khiến khu đất đền Kim
Liên bây giờ là hình đa giác khơng thể đếm nổi các cạnh - một ơng cụ nói vui
như thế!
Đến lễ kỷ niệm 1000 năm thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, thủ đơ ta càng
sơi động các mặt, trong đó việc trùng tu, tôn tạo xây cất, lắp đặt mới những cơng
trình, tượng đài, di tích được đặc biệt chú ý. Bên cạnh nhiều dự án lớn đang
chuyển động với cấp độ cao, chắc chắn còn nhiều dự án đang thai nghén, khảo
sát hoặc đang ở trên bàn các vị có chức trách phê duyệt.Bộ Văn hố - Thơng tin
cử các chuyên gia xuống xác minh, đo đạc để thực hiện tiếp những dự án trùng
tu, khôi phục các hạng mục như: Phương đền, nhà Tảo mạt, nhà Bia, Ao giếng,
Sân vườn… và bàn bạc giải toả các nhà dân lấn chiếm.
Cổng đền Kim Liên trước đây có 2 trụ biểu ở giữa và 2 cổng bên Tả, Hữu,
rất phù hợp với vai trị Nghi mơn ngoại (bên trong tiếp theo là Nghi môn nội).
Đây là dạng thức kiến trúc cổng tiêu biểu và phổ biến trong kiến trúc cổ truyền
của Việt Nam.Theo người dân xung quanh làng cho biết,khi trùng tu đền Kim
Liên thì cổng nghi mơn đã xây mới một cách sao chép giống với cổng tam quan
của chùa Láng,dạng tứ trụ có mái, bên cạnh đó vẫn có 2 cổng phụ và tổng thể trở
thành Ngũ mơn.Đặc biệt hơn là cổng nghi môn mới không hề tuân theo quy luật
nào. Điều này đã làm phá vỡ đi kiến trúc của đền.


1.2

Một số giải pháp về việc giữ gìn,bảo tồn và phát huy giá trị

của di tích
Tính cho đến thời điểm này,đền Kim Liên vẫn đang trong quá trình tu
sửa,chủ yếu là bên trong gian hậu cung.Muốn bảo tồn được các giá trị về mặt
kiến trúc cũng như về mặt nghệ thuật,chúng ta cần nghiên cứu kĩ lưỡng trước
khi bắt đầu tu sửa.Phải làm đúng phần việc là tu sủa chứ khơng phải là tái tạo lại

di tích hồn tồn.Phải giữ những nét kiến trúc riêng của đền như phần tam quan
( nội nghi môn ) với đặc trưng của thời Lê Trung Hưng, hay như nơi đặt tấm bia
thờ không thể dỡ bỏ cây cổ thụ ngàn năm để xây đơn ngun kiến trúc khác.
Tình trạng xâm lấn di tích cũng cần được ngăn chặn kịp thời để đảm bảo
cảnh quan cho di tích.Xung quanh khu di tích khơng nên để làm chỗ kinh doanh
buôn bán của người dân.Đặc biệt hơn là chúng ta cần bảo vệ khu giếng Ngọc
đang bi ơ nhiễm bởi chính ý thức của người dân khi đã vứt rác xuống mặt
hồ.Ban quản lý di tích nên phổ biến cho nhân dân nhận thức được hơn nữa về
giá trị của di tích là một trong tứ trấn quan trọng của Hà Nội.
Bên cạnh đình là Giếng Ngọc vốn xưa là giếng nước ăn của làng. Các cụ
cao niên trong làng cho biết: "Giếng có diện tích chừng hơn 400m2, hình trịn,
được đào rất sâu, nước trong và mát, có bậc lên xuống bằng gạch để dân làng
tiện lấy nước sinh hoạt"; nhưng hình ảnh đó chỉ cịn nằm lại trong ký ức của
những bơ lão trong làng. Giờ đây, Giếng Ngọc đã trở thành một ao nước tù
đọng, lềnh bềnh rác ruởi, bốc mùi hôi hám. Trước đây, cứ đến xế chiều khu
giếng đã trở thành nơi nghỉ ngơi - giao hòa cuả các cụ, nay Giếng Ngọc trở
thành nơi sinh đẻ lý tưởng cho các loại ruồi, muỗi. Điều đáng nói, hiện nay
Giếng Ngọc đang trở thành nơi tập kết rác, đổ nước thải sinh hoạt, bãi phế liệu,
vật liệu xây dựng... Chưa hết, một vài hộ dân quanh Giếng Ngọc đã khoanh
vùng, chiếm dụng đất quanh giếng làm nơi chăn nuôi các loại gia cầm như gà,
vịt..
1.3. Phát huy giá tri di tích Đền Kim Liên


Song song với việc bảo vệ và trùng tu lại di tích đền Kim Liên phải phát huy
giá trị của di tích vào việc nâng cao đời sống tinh thần cho quần chúng nhân dân
khơi dậy long yêu nước, lòng tự hòa dân tộc, tự hào về thế hệ đi trước đã để lại
cho đời sau những tài sản quý báu là di tích lịch sử văn hóa. Đặc biệt là thế hệ
trẻ như chúng ta hiện nay vấn đề phát huy giá trị di tích lại là càng cần thiết.
Việc phát huy giá trị của di tích sẽ góp phần làm tăng lên vốn hiểu biết về lịch

sử, văn hóa khoa học của quê hương đất nước.
Ban quản lý di tích Đền Kim Liên nên cho treo những tấm bản to ở sân chùa
để giới thiệu sơ lược về ngôi chùa để mọi người cùng đọc. Đồng thời cũng phải
có kế hoạch giới thiệu di tích trên sách báo, tạp chí chun ngành và các phương
tiện thơng tin đại chúng. Hiện nay nhiều đối tượng đến Đền không chỉ có những
người già, người trung niên và những người thanh niên đi lễ cũng nhiều. Điều
này phản ánh những nét mới trong đời sống nhân dân của người dân Làng Kim
Liên. Điều đó địi hỏi phải phát huy giá trị của di tích một cách tốt nhất, có hiệu
quả nhất. Chúng ta cần phải loại bỏ yếu tố phản khoa học như mê tín dị đoan, xu
hướng thương mại hóa di tích thành đối tượng khai thác kinh tế mà quên đi chức
năng cao đẹp của nó.
Việc phát huy giá trị của di tích sẽ góp phần tích cực cho ngành du lịch của
tỉnh ngày càng phát triển. tham quan du lịch là một hình thức giáo dục đặc biệt
vì đến với di tích là du khách có thể trực tiếp cảm nhận về cái hay, cái đẹp, từ đó
hình thành nên tư tưởng, tình cảm lành mạnh, đạo đức trong sang.
Để thực hiện một cách tốt nhất việc phát huy giá trị của di tích Đền Kim Liên
thì những người làm cơng tác quản lý di tích phải nghiên cứu, sử dụng hợp lý
những giá trị chứa trong di tích, lập kế hoạch phù hợp đúng đắn trong cơng việc
bảo tồn và phát huy tác dụng ở cả hai mặt giáo dục và kinh tế một cách triệt để
góp phần xây dựng xã hội mới.


KẾT LUẬN
Ngày nay chúng ta ln tự hào vì khắp các nơi trên đất nước Việt trải dài từ
Bắc tới Nam nơi đâu cũng có những di tích lịch sử văn hóa. Nó khơng chỉ có giá
trị tinh thần lớn lao mà còn là nguồn động lực quan trọng để phát triển kinh tế xã
hội bền vững. Đền Kim Liên đã và đang góp phần làm phong phú cho kho tàng
di sản văn hóa của dân tộc và cũng là một mắt xích khơng thể thiếu trong chuỗi
hạt tinh hoa của văn hóa Việt Nam.
Đền Kim Liên là cơng trình kiến trúc, tơn giáo, tín ngưỡng của nhân dân địa

phương. Đây khơng những là nơi thờ thần trấn giữ phía Nam mà còn là nơi nhân
dân thể hiện niềm tin linh thiêng của mình vào phật giáo.
Là một người con tự hào về nền văn hóa lịch sử Việt Nam, hơn nữa lại là một
sinh viên của ngành bảo tàng em đã chọn đề tài : “ tìm hiểu di tích Đền Kim
Liên” ở thuộc làng Kim Liên phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội với
mong muốn dùng kiến thức của mình đã được học được góp phần vào bảo vệ di
tích q hương Việt Nam.
Trong nền văn hóa Việt Nam, Đền Kim Liên là một trong hàng trăm, hang
ngàn những điểm sang tụ hội bản sắc văn hóa dân tộc. Tìm hiểu di tích Đền Kim
Liên khơng những để khẳng định những giá trị của nó mà cịn góp phần bảo tồn
và phát huy những giá trị ấy trong tương lai. Khẳng định giá trị của ngôi chùa
trong văn hóa, văn minh Việt Nam và cũng là dịp để chúng ta có thái độ tích cực
hơn đối với những di sản mà lịch sử đã để lại.

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.


×