Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Luận văn thạc sĩ USSH sự lo âu ở phụ nữ sau sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.13 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------------------

Hạ Thị Kim Cúc

SỰ LO ÂU Ở PHỤ NỮ SAU SINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

Hà Nội - 2019

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------------------

Hạ Thị Kim Cúc

SỰ LO ÂU Ở PHỤ NỮ SAU SINH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tâm lí học
Mã số: 60 31 04 01

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Thị Minh Đức

Hà Nội - 2019

LUAN VAN CHAT LUONG download : add




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan cơ sở lý luận và các số liệu đã được nêu và sử dụng
trong luận văn là trung thực, được lấy từ các nguồn đáng tin cậy và các kết
luận dựa trên cơ sở khoa học.
Học viên
Hạ Thị Kim Cúc

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Trần Thị Minh Đức,
người thầy đã hết sức tận tụy, nhẫn nại hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn này. Qua đây, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các sản phụ đã
tích cực tham gia trả lời phiếu hỏi; các cán bộ tại Bệnh viện Tâm thần Trung Ương I
đã giúp đỡ tôi trong giai đoạn triển khai thực hiện điều tra thực tế cho đề tài.
Tôi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn vơ hạn tới những người bạn thân thiết, người
thân trong gia đình đã ln ở bên động viên, giúp tơi có thời gian và tâm sức để
hồn thành đề tài nói riêng, và chương trình Thạc sĩ nói chung.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019.
Học viên
Hạ Thị Kim Cúc

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................ 4
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ........................................................................... 5
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 6
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI .................................................. 9
1.1. Tổng quan nghiên cứu về lo âu và các dạng cụ thể của lo âu sau sinh ........ 9
1.1.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài .............................................................. 9
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam ........................................................................... 15
1.1.3. Một số quan điểm nghiên cứu về lo âu ở phụ nữ sau sinh...................... 16
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới lo âu ở phụ nữ sau sinh ................................. 20
1.2. Nghiên cứu lý luận về lo âu, lo âu sau sinh ............................................... 22
1.2.1. Lo âu và rối loạn lo âu ............................................................................ 23
1.2.2. Các dạng biểu hiện lo âu sau sinh .......................................................... 24
Chƣơng 2. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................... 35
2.1. Mẫu nghiên cứu.......................................................................................... 35
2.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 37
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu ............................................................ 37
2.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi ..................................................... 37
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu....................................................................... 38
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................... 55
3.1. Thực trạng lo âu ở phụ nữ sau sinh ............................................................ 55
3.1.1. Thực trạng chung về lo âu ở phụ nữ sau sinh ......................................... 55
3.1.2. Các biểu hiện cụ thể của các dạng lo âu sau sinh .................................. 57
3.1.2.1. Lo âu sau sinh dạng rối loạn lo âu tổng quát ...................................... 57
3.1.2.2. Lo âu sau sinh dạng rối loạn hoảng sợ................................................ 59
3.1.2.3. Lo âu sau sinh dạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế ................................. 61
3.1.2.4. Lo âu sau sinh dạng rối loạn stress sau sang chấn sinh đẻ ................. 63
1

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến lo âu ở phụ nữ sau sinh ................................... 65
3.2.1. Các yếu tố thuộc về bản thân người mẹ .................................................. 65
3.2.1.1. Sức khỏe thể chất ................................................................................. 65
3.2.1.2. Sức khỏe tinh thần ................................................................................ 67
3.2.1.3. Tính cách của người mẹ ....................................................................... 70
3.2.1.4. Kiến thức, kỹ năng chăm sóc con của người mẹ.................................. 71
3.2.1.5. Khả năng ứng phó của người mẹ khi mang thai, ni con .................. 73
3.2.2. Các yếu tố liên quan trực tiếp đến sự ra đời của trẻ mới sinh ............... 74
3.2.2.1. Yếu tố thuộc về trẻ mới sinh ................................................................. 74
3.2.2.2. Sự kiện sinh con ................................................................................... 76
3.2.3. Sự hỗ trợ trong quá trình mang thai và nuôi con ................................... 80
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................ 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 86
PHỤ LỤC

2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐLC

Độ lệch chuẩn

ĐTB

Điểm trung bình


PNSS

Phụ nữ sau sinh

GAD

Generalized anxiety disorder
Rối loạn lo âu tổng quát

OCD

Obsessive-compulsive disorder
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế

PD

Panic disorder
Rối loạn hoảng sợ

PTSD

Posttraumatic stress disorder
Rối loạn stress sau sang chấn

3

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu .......................................................................... 35
Bảng 2.2: Các nhân tố và hệ số tải giữa item và nhân tố của thang đánh giá sự lo âu
ở phụ nữ sau sinh......................................................................................................... 43
Bảng 2.3: Các nhân tố và hệ số tải giữa item và nhân tố của thang tự đánh giá bản
thân của phụ nữ sau sinh ............................................................................................. 45
Bảng 2.4: Các nhân tố và hệ số tải giữa item và nhân tố của thang cảm nhận hạnh
phúc khi có con ........................................................................................................... 46
Bảng 2.5: Các nhân tố và hệ số tải giữa item và nhân tố của thang ứng phó với khó
khăn khi ni con ở phụ nữ sau sinh ........................................................................... 47
Bảng 3.1: Tỉ lệ sản phụ có biểu hiện lo âu sau sinh (%) ............................................. 55
Bảng 3.2: Các biểu hiện lo âu sau sinh dạng rối loạn lo âu tổng quát ........................ 58
Bảng 3.3: Các mức độ lo âu sau sinh dạng GAD và thời điểm xuất hiện (%) ........... 58
Bảng 3.4: Các biểu hiện lo âu sau sinh dạng rối loạn lo hoảng sợ (%) ...................... 60
Bảng 3.5: Các mức độ lo âu sau sinh dạng PD và thời điểm xuất hiện (%) ............... 61
Bảng 3.6: Các biểu hiện lo âu sau sinh dạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế ................... 62
Bảng 3.7: Các mức độ lo âu sau sinh dạng OCD và thời điểm xuất hiện (%) ............ 63
Bảng 3.8: Tỉ lệ biểu hiện lo âu dạng rối loạn stress sau sang chấn sinh đẻ (%) ......... 64
Bảng 3.9: Tỉ lệ có và khơng có các loại bệnh (%) ...................................................... 65
Bảng 3.10: Các áp lực trước sinh đối với người phụ nữ mang thai ............................ 67
Bảng 3.11: Tương quan giữa các dạng lo âu sau sinh và áp lực tinh thần trong thời
gian mang thai ............................................................................................................. 64
Bảng 3.12: Mức độ thực hiện các việc trước khi sinh ................................................ 68
Bảng 3.13: Khoảng thời gian người mẹ thành thạo các kỹ năng chăm sóc trẻ mới
sinh .............................................................................................................................. 69
Bảng 3.14: Các phương án giải quyết khó khăn trong q trình ni con ................. 70
Bảng 3.15: Tương quan giữa các dạng lo âu sau sinh và kĩ năng ứng phó với các
khó khăn trong q trình ni con của sản phụ .......................................................... 71
Bảng 3.16: Sự phù hợp giới tính của trẻ mới sinh và hy vọng ban đầu ...................... 72
Bảng 3.17: Tự đánh giá ở phụ nữ sau sinh.................................................................. 74
Bảng 3.18: Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và các dạng lo âu sau sinh .... 75

Bảng 3.19: Cảm nhận hạnh phúc khi có con............................................................... 76

4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Phân phối chuẩn của tiểu thang đo lo âu dạng rối loạn lo âu tổng
quát sau sinh ........................................................................................................ 48
Biểu đồ 2.2: Tiểu thang đo lo âu dạng rối loạn stress sau sang chấn sinh đẻ và
phân phối chuẩn .................................................................................................. 49
Biểu đồ 2.3: Phân phối chuẩn của tiểu thang đo lo âu dạng rối loạn hoảng sợ
sau sinh ................................................................................................................ 50
Biểu đồ 2.4: Phân phối chuẩn của tiểu thang đo lo âu dạng rối loạn ám ảnh
cưỡng chế sau sinh .............................................................................................. 51
Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ có biểu hiện lo âu sau sinh theo mốc thời gian ...................... 56
Biểu đồ 3.2: Các mức độ lo âu dạng rối loạn lo âu tổng quát sau sinh (%)........ 57
Biểu đồ 3.3: Các mức độ lo âu dạng rối loạn lo âu hoảng sợ sau sinh (%) ........ 59
Biểu đồ 3.4: Các mức độ lo âu sau sinh dạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (%) .. 61
Biểu đồ 3.5: Sự thay đổi trong cuộc sống của người phụ nữ sau khi sinh (%) .. 77
Biểu đồ 3.6: Người thường xuyên giúp chăm sóc con trong thời gian đầu mới
sinh (%) ............................................................................................................... 81
Biểu đồ 3.7: Sản phụ tự đánh giá về mối quan hệ hôn nhân............................... 82

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc người phụ nữ mang thai và sinh con nói chung mang lại niềm vui cho
các ông bố, bà mẹ và cho cả gia đình. Nhưng đó cịn là giai đoạn rủi ro cao đối với
sức khỏe, tính mạng của người mẹ và trẻ mới sinh. Báo cáo của Unicef (2009) cho
thấy mỗi ngày có tới 1.500 phụ nữ bị tử vong do các biến chứng trong lúc mang thai
và khi sinh. Kể từ 1990-2009, số ca tử vong ở bà mẹ mỗi năm trên tồn thế giới ước
tính trên 500.000 với tổng số gần 10 triệu ca trong vịng 19 năm qua [7].
Chính vì vậy, khơng phải ngẫu nhiên mà dân gian Việt Nam có câu: “Gái
chửa cửa mả” nhằm ám chỉ những mối đe dọa với sức khỏe, tính mạng của người
phụ nữ trong thai kỳ, và đặc biệt trong những giờ phút trở dạ sinh con.
Bên cạnh đó, trên các phương tiện thông tin đại chúng, số thông tin về những
trường hợp sản phụ tự tử, hay giết con rồi có hành vi tự sát ngày càng xuất hiện
nhiều hơn. Cùng với sự phát triển của mạng xã hội là việc ra đời những nhóm, diễn
đàn dành riêng cho các bà mẹ mới sinh hay đang mang thai để chia sẻ những khó
khăn trong q trình mang thai, ni con cũng ngày một trở nên phổ biến. Nhiều
cơng trình nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy thời kỳ mang thai và sau sinh, người
phụ nữ phải đối mặt với những rủi ro về sức khỏe thể chất cũng như sức khỏe tinh
thần, chẳng hạn như cơn thoáng buồn sau sinh, stress, trầm cảm, lo âu, loạn thần…
Điều này gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người
phụ nữ. Cùng với đó gây nên những tác động tiêu cực đến mối quan hệ mẹ - con, sự
phát triển của trẻ và các mối quan hệ gia đình.
Vì vậy có thể nói mang thai và sinh con là giai đoạn mang lại cho người phụ
nữ những trải nghiệm hạnh phúc lớn lao nhưng đồng thời ẩn chứa những rủi ro về
sức khỏe thể chất và tinh thần. Việc đảm nhận vai trò, “thiên chức” làm mẹ tạo nên
bước ngoặt lớn với đời sống cá nhân của người phụ nữ, do đó cũng tạo nên ở họ
những mối lo lắng, bận tâm nhất định. Đây là điều rất dễ xảy ra. Tuy nhiên trong
khi một số lượng phụ nữ nhanh chóng vượt qua những lo lắng trong thai kỳ và thời

6


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


gian đầu mới sinh thì một số gặp khó khăn hơn, thậm chí chuyển biến thành bệnh lo
âu sau sinh.
Ở Việt Nam hiện nay, các nghiên cứu về lo âu, bệnh lo âu ở phụ nữ sau sinh
là rất ít. Vì vậy, chúng tơi đã thực hiện đề tài nghiên cứu “Sự lo âu ở phụ nữ sau
sinh” nhằm góp phần tìm hiểu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến lo âu, bệnh
lo âu ở phụ nữ sau sinh. Nghiên cứu sẽ góp phần đưa đến những thơng tin thực tiễn
về vấn đề này, qua đó, đóng góp phần nào cơ sở lý luận cho lĩnh vực của đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận, nghiên cứu nhằm mục đích chỉ ra được thực
trạng lo âu, mức độ lo âu ở phụ nữ sau sinh; và các yếu tố ảnh hưởng đến sự lo âu ở
phụ nữ sau sinh. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm can thiệp, phòng ngừa lo âu
và rối loạn lo âu ở phụ nữ sau sinh.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Các biểu hiện lo âu ở phụ nữ sau sinh.
4. Khách thể nghiên cứu: 418 phụ nữ sau sinh trong vòng 01 năm.
5. Giả thuyết khoa học
- Phần lớn phụ nữ sau sinh xuất hiện một vài biểu hiện trong số 4 dạng lo âu
sau sinh.
- Có nhiều yếu tố tác động dẫn đến lo âu ở phụ nữ sau sinh và mức ảnh
hưởng của các yếu tố đó là khác nhau: các áp lực trước sinh, tự đánh giá bản thân
của sản phụ, sự hỗ trợ trong việc chăm sóc con…
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
6.2. Tìm hiểu thực trạng các biểu hiện lo âu ở phụ nữ sau sinh và các yếu tố
ảnh hưởng đến lo âu ở phụ nữ sau sinh.
6.3. Đề xuất một số kiến nghị nhằm can thiệp, phòng ngừa lo âu và đặc biệt

là bệnh lo âu ở phụ nữ sau sinh.
7. Giới hạn nghiên cứu
- Về nội dung:

7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Đề tài khơng nghiên cứu từ góc độ lâm sàng để chỉ ra số phần trăm (%) phụ
nữ mắc lo âu sau khi sinh, mà chỉ nghiên cứu sự xuất hiện một số biểu hiện lo âu
theo đánh giá chủ quan của nhóm phụ nữ sau sinh được nghiên cứu, trong đó tập
trung vào các biểu hiện lo âu thuộc 4 dạng:
1/ Rối loạn hoảng sợ sau sinh
2/ Rối loạn lo âu tổng quát sau sinh
3/ Rối loạn ám ảnh cưỡng chế sau sinh
4/ Rối loạn stress sau sang chấn sinh đẻ
- Về thời gian: Phụ nữ sau khi sinh dưới một năm.
- Về địa bàn: Phụ nữ sau sinh tại các bệnh viện, các trung tâm y tế và tại gia
đình riêng ở Hà Nội.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập, phân tích và tổng hợp các
tài liệu, các nghiên cứu trong và ngồi nước để tìm hiểu thực trạng nghiên cứu vấn
đề lo âu ở phụ nữ sau sinh, từ đó xây dựng cơ sở lý luận và công cụ (bộ câu hỏi điều
tra) cho đề tài.
8.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đây là phương pháp chính của
đề tài nhằm thu thập các thông tin định lượng về các dạng biểu hiện, mức độ lo âu ở
phụ nữ sau sinh và các yếu tố ảnh hưởng.
8.3. Phương pháp xử lý số liệu thống kê: Phương pháp này được thực hiện
bằng phần mềm SPSS 22.0 nhằm thực hiện các phép thống kê (mô tả, suy luận) để

thu thập các kết quả điều tra từ phiếu hỏi.
9. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu giới thiệu chung, chương 1 trình bày cơ sở lý
luận của đề tài. Chương 2 trình bày tổ chức và các phương pháp nghiên cứu được sử
dụng làm cơ sở cho việc phân tích kết quả nghiên cứu thực tiễn. Chương 3 trình bày
kết quả nghiên cứu thực tiễn theo các hướng chỉ ra thực trạng lo âu sau sinh nói
chug, thực trạng lo âu sau sinh của từng dạng, các yếu tố ảnh hưởng và trường hợp
nghiên cứu phỏng vấn. Cuối cùng là phần kết luận và kiến nghị. Cuối luận văn là
phần tài liệu tham khảo, phụ lục nghiên cứu.

8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan nghiên cứu về lo âu và các dạng cụ thể của lo âu sau sinh
Từ rất sớm, các tác giả trên thế giới đã có những quan tâm đáng kể trong việc
nghiên cứu về những khó khăn tâm lý và đặc biệt là các dạng rối loạn hay rối nhiễu
tâm lý ở phụ nữ sau sinh như cơn thoáng buồn sau sinh, trầm cảm, rối loạn lo âu và
loạn thần sau sinh. Một trong những quan sát y tế sớm nhất về bệnh hậu sản đã có
ngay từ thời cổ Hy Lạp. Đó là năm 400 TCN, lương y kiêm nhà triết học
Hippocrates đã mô tả về trường hợp bị chứng mất ngủ nghiêm trọng vào ngày thứ
sáu sau sinh ở một sản phụ sinh đôi [Dẫn theo 27]. Tuy nhiên trong khuôn khổ của
đề tài, chúng tôi tập trung phân tích những cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi có
liên quan tới lo âu, bệnh lo âu ở phụ nữ sau sinh. Cùng với đó, chúng tơi trình bày
các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam liên quan đến lĩnh vực của đề tài này.
1.1.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài
Dựa trên kết quả nghiên cứu tài liệu, chúng tơi khái qt các cơng trình

nghiên cứu ở nước ngồi về lo âu nói chung và lo âu thuộc một dạng cụ thể ở người
mẹ mà gắn liền với việc mang thai và nhất là sau khi sinh con.
1.1.1.1. Nghiên cứu về lo âu nói chung ở phụ nữ sau sinh
Các tác giả đã tìm thấy những bằng chứng mạnh mẽ cho thấy lo âu, rối loạn
lo âu sau sinh là vấn đề tương đối phổ biến với nhiều phụ nữ. Một số tác giả báo cáo
về tỉ lệ khá cao của rối loạn lo âu tổng quát sau sinh là 8,2% và đã tìm thấy sự tiến
triển xấu đi của các triệu chứng hoảng loạn sau sinh. Trong một nghiên cứu với 422
phụ nữ sau sinh, đã phát hiện 24,9% bà mẹ có lo âu vừa, 1% có lo âu nặng [Dẫn
theo 10].
Ngoài việc đưa ra những con số về tỉ lệ phụ nữ có lo âu sau sinh, trong
nghiên cứu của mình các tác giả cịn phát hiện và chỉ ra thời điểm xuất hiện lo âu
sau sinh. Nghiên cứu trên hơn 400 phụ nữ sau sinh của tác giả Dana Gosset cho
thấy có đến 11% các bà mẹ có triệu chứng rối loạn lo âu khi mới sinh con, 50% sản
phụ có các biểu hiện rối loạn lo âu sau khi sinh được 6 tháng và 5,4% các biểu hiện

9

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


xảy ra lúc tròn 6 tháng [Dẫn theo 34]. Trong một nghiên cứu khác, Stuart và cộng
sự (1998) cho biết sự tiến triển của các triệu chứng lo âu tăng dần ở sản phụ theo
thời gian. Các triệu chứng lo âu ở thời kì sau sinh thường trầm trọng hơn, xuất hiện
từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 30 sau sinh. Thậm chí, tác giả cịn nhận định rằng rất
nhiều sản phụ có biểu hiện lo âu khá muộn, khoảng từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 9
sau sinh [27].
Như vậy có thể thấy các biểu hiện của lo âu sau sinh xuất hiện ở nhiều thời
điểm, có thể ngay từ sau khi sinh hoặc muộn nhất vào tháng thứ 9 sau khi người phụ
nữ sinh con. Ngoài ra, khi nghiên cứu về lo âu sau sinh các tác giả còn chú ý đến sự
xuất hiện của các biểu hiện (triệu chứng) lo âu trong các dạng rối loạn tâm thần

khác nhau sau sinh. Chẳng hạn, M. Edhborg và cộng sự (2011) trong nghiên cứu về
sự tác động của các triệu chứng lo âu và trầm cảm tới mối liên hệ tình cảm mẹ con ở
trẻ 2-3 tháng sau sinh trên nhóm 672 sản phụ nơng thơn Bangladesh cho kết quả là
đa số (51%) không mắc phải lo âu hay trầm cảm nào từ 2-3 tháng sau khi sinh và
3,4% mắc cả hai loại triệu chứng trầm cảm và lo âu. Bên cạnh đó, 11% chỉ có triệu
chứng trầm cảm và 35% chỉ có triệu chứng lo âu 2-3 tháng sau sinh [16, tr.4].
Ballard và cộng sự (1995) báo cáo 4 trường hợp phụ nữ với rối loạn stress sau sang
chấn, sau khi sinh bị trầm cảm kèm theo, một trong số đó đã có ý tưởng tự sát [Dẫn
theo 12]. Kết quả một nghiên cứu khác cho biết khoảng 50% người có rối loạn
hoảng sợ sau sinh cũng có trầm cảm nặng đi kèm [Dẫn theo 25].
1.1.1.2. Nghiên cứu về các dạng lo âu cụ thể ở phụ nữ sau sinh
Theo Beck (2006), phụ nữ có thể bị rối loạn tâm trạng sau sinh (postpartum
mood disorders). Cụ thể gồm có các dạng là trầm cảm sau sinh, rối loạn hoảng sợ
sau sinh, rối loạn ám ảnh cưỡng chế sau sinh, rối loạn lưỡng cực II sau sinh, rối loạn
stress sau sang chấn sinh đẻ và loạn thần sau sinh. Mặc dù các rối loạn này đều xuất
hiện sau sinh nhưng có sự khác biệt về tỉ lệ mắc, triệu chứng và các yếu tố nguy cơ.
Sự phân loại các loại rối loạn tâm trạng sau sinh để có sự chẩn đốn và điều trị
chính xác là điều rất quan trọng [31, tr.20]. Thông tin từ kết quả nghiên cứu này gợi
mở rằng khi nghiên cứu về lo âu sau sinh, các tác giả có thể tiếp cận nó như là một

10

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


dạng rối loạn lo âu cụ thể, chuyên biệt. Ngoài ra, có thể tiếp cận lo âu sau sinh như
là các biểu hiện xen lẫn với một dạng rối loạn tâm thần nào đó sau sinh, hay như là
một triệu chứng trong một loại rối loạn tâm thần cụ thể, đồng thời lo âu sau sinh
cũng có thể được tiếp cận như là một loại rối loạn đi kèm với một, một vài loại rối
loạn tâm thần sau sinh khác.

Thực tế việc tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi, chúng tơi
nhận thấy khi nghiên cứu về lo âu, rối loạn lo âu sau sinh, các tác giả thường nghiên
cứu về 4 dạng rối loạn lo âu đó là rối loạn hoảng sợ, rối loạn lo âu tổng quát, rối
loạn ám ảnh cưỡng chế và rối loạn stress sau sang chấn. Đồng thời đặt chúng gắn
với quá trình mang thai và sinh con hàm ý rằng các rối loạn này liên quan đến việc
sinh đẻ là có khác biệt với các dạng rối loạn này nhưng không liên quan đến việc
sinh đẻ.
Đầu tiên phải kể đến cơng trình nghiên cứu mang tính tổng quan của hai tác
giả Ross và Linda. Hai tác giả [25] đã tổng hợp các nghiên cứu bằng tiếng Anh từ
hai cơ sở dữ liệu điện tử là MEDLINE (1966 đến tuần 1 tháng 7/2005) và
PsycINFO (1840 đến tuần 1 tháng 7/2005). Các tác giả lựa chọn đánh giá các tài
liệu được cơng bố có liên quan đến rối loạn lo âu sau sinh: rối loạn hoảng loạn, rối
loạn ám ảnh cưỡng chế, rối loạn stress sau sang chấn và rối loạn lo âu tổng quát.
Sau khi tổng hợp hàng loạt các nghiên cứu, các tác giả đưa ra kết luận rằng rối loạn
lo âu là thường gặp trong thời kỳ chu sinh. Nói cách khác, trái với một số ý kiến
đương thời cho rằng rối loạn tâm lý thường gặp ở phụ nữ sau sinh là trầm cảm,
nghiên cứu đánh giá của các tác giả cho thấy rối loạn lo âu là thường gặp. Tỉ lệ cao
của những rối loạn này và đặc biệt là của ám ảnh cưỡng chế và rối loạn lo âu tổng
quát cho thấy vai trò tiềm năng để sàng lọc. Rất ít dữ liệu có sẵn để hướng dẫn lâm
sàng trong can thiệp cho phụ nữ có hoặc có nguy cơ bị rối loạn lo âu trong thời
gian mang thai và sau khi sinh.
Tổng hợp từ các nghiên cứu thu thập được, chúng tôi nhận thấy con số về tỉ
lệ mắc 4 dạng lo âu này ở phụ nữ sau sinh trong những báo cáo là khác nhau.
Rối loạn hoảng sợ sau sinh

11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



Mặc dù khơng được nói đến nhiều trong các tài liệu nhưng lo âu và/hoặc rối
loạn hoảng sợ ảnh hưởng đến khoảng 4-6% phụ nữ trong thời kỳ hậu sản. Các sản
phụ có thể bị một trong những rối loạn, hoặc đồng thời cùng mắc một vài loại rối
loạn lo âu, hoặc hỗn hợp rối loạn lo âu với trầm cảm sau sinh [36].
Rối loạn hoảng sợ sau sinh được đặc trưng bởi các cơn sợ hãi với những triệu
chứng thể chất như tim đập nhanh, khó thở, vã mồ hơi, chóng mặt, đau ngực, tê,
cảm giác sắp chết hoặc mất kiểm soát ở những người phụ nữ lần đầu sinh nở. Một
khảo sát với 788 phụ nữ sau sinh cho thấy 11% số người tham gia trả lời cho biết họ
có các triệu chứng của hoảng loạn. Các yếu tố nguy cơ chính là tiền sử cá nhân hoặc
gia đình có rối loạn hoảng sợ và rối loạn chức năng tuyến giáp [Dẫn theo 31, tr.21].
Theo một nghiên cứu khác, tỉ lệ rối loạn hoảng sợ trong giai đoạn sau sinh đã
được báo cáo từ 1,4 - 2,7%. Bên cạnh đó, phụ nữ mang thai có thể trải qua cơn
hoảng loạn bất ngờ được đặc trưng bởi sự sợ hãi mãnh liệt và khởi phát đột ngột các
triệu chứng thể chất như khó thở, tim đập nhanh và chóng mặt [Dẫn theo 19].
Rối loạn lo âu tổng quát sau sinh
Theo một số tác giả, có rất ít nghiên cứu về rối loạn lo âu tổng quát giai đoạn
mang thai và sau sinh. Các biểu hiện của dạng rối loạn này mà người phụ nữ có thể
gặp như ln bất an, hồi hộp, hay run rẩy, căng cứng cơ bắp, vã mồ hơi, đau thắt
ngực, nóng lưng, đau bụng, khó ngủ. Đồng thời, các triệu chứng này kéo dài liên tục
trong 6 tháng.
Wenzel và cộng sự (2003) nghiên cứu các triệu chứng rối loạn lo âu tổng
quát và trầm cảm ở 68 sản phụ sau sinh 8 tuần cho thấy 3 người (chiếm 4,4%) đáp
ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM-IV về rối loạn lo âu tổng quát, 19 người
(chiếm 27,9%) xác nhận gặp các triệu chứng phụ của dạng rối loạn này. Trong khi
đó, một phần ba sản phụ cho biết họ có các triệu chứng của trầm cảm. Tuy nhiên chỉ
có 2 trường hợp bị trầm cảm thực sự (đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán về trầm
cảm). Từ đó, các tác giả nhận định rằng sau sinh tỉ lệ phụ nữ bị rối loạn lo âu tổng
quát cao hơn tỉ lệ bị trầm cảm [32]. Ở Hoa Kỳ có 8,2% phụ nữ sau sinh đáp ứng tiêu
chuẩn chẩn đoán về rối loạn lo âu tổng quát [Dẫn theo 19].


12

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Rối loạn ám ảnh cưỡng chế sau sinh
Phụ nữ sau sinh thường bị ám ảnh với ý nghĩ liên tục rằng họ có thể gây hại
cho em bé, rằng con của họ sẽ đột tử, hay ám ảnh sợ rằng mình sẽ vơ tình gây tổn
hại cho trẻ…, nên tránh gần trẻ sơ sinh để giảm nỗi sợ. Vì lý do này, họ thường mất
khả năng chăm sóc tốt trẻ sơ sinh là con mình.
Nghiên cứu của Fonseca Zambaldi và cộng sự (2009) cho thấy có 2,3% rối
loạn ám ảnh cưỡng chế khởi phát sau sinh, mặc dù Bennet và Indman (2006) báo
cáo một tỉ lệ là từ 3-5%. Tiền sử cá nhân hoặc gia đình bị rối loạn ám ảnh cưỡng
chế và các rối loạn tâm thần khác, bệnh lý, biến chứng sản khoa và việc phải chăm
sóc nhiều hơn một đứa trẻ được coi là các yếu tố nguy cơ của rối loạn ám ảnh
cưỡng chế sau sinh (Fonseca Zambaldi và cộng sự, 2009) [Dẫn theo 31, tr.21].
Nghiên cứu trên 7 sản phụ của tác giả Lesley (1999) cho thấy thời gian khởi
phát rối loạn ám ảnh cưỡng chế sau sinh ở những phụ nữ tham gia nghiên cứu là 3,7
tuần sau khi sinh. Có 5 trường hợp cho biết có rối loạn hành vi trong quan hệ mẹ
con. Cả 7 sản phụ đáp ứng tiêu chuẩn ít nhất có một rối loạn tâm thần đi kèm. Sản
phụ 1, 3, 4 và 5 có trầm cảm nặng và rối loạn ám ảnh cưỡng chế cùng xảy ra sau
sinh. Sản phụ 7 trải nghiệm hưng cảm nhẹ trong tuần đầu sau đẻ và sau đó phát triển
thành trầm cảm nặng và rối loạn ám ảnh cưỡng chế tại cùng một thời điểm trong
tuần thứ hai. Sản phụ 2 đã chán nản trong thời gian mang thai và phát triển rối loạn
ám ảnh cưỡng chế cùng với trầm cảm sau sinh. Sản phụ 6 khởi phát rối loạn hoảng
sợ và rối loạn ám ảnh cưỡng chế tại cùng một thời điểm ở tuần thứ 12 sau khi sinh
(khi cai sữa cho em bé) và phát triển trầm cảm nặng 4 tháng sau đó [23].
Theo ICD-10, để chẩn đốn xác định các triệu chứng ám ảnh hoặc hành vi
cưỡng chế, hoặc cả hai phải hiện diện trong hầu hết các ngày trong ít nhất 2 tuần
liên tiếp và là nguồn gốc gây đau khổ hoặc trở ngại cho hoạt động của người bệnh.

Tuy nhiên, qua khảo sát các các cơng trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy các tác
giả đưa ra những số liệu khác nhau về thời điểm xuất hiện rối loạn ám ảnh cưỡng
chế sau sinh. Chẳng hạn, nghiên cứu của Mania, Albert, Bogetto, Vaschetto và
Ravizza (1999) trên các trường hợp rối loạn ám ảnh cưỡng chế sau sinh phát hiện

13

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


rằng các triệu chứng khởi phát hoặc trở nên nghiêm trọng đáng kể trong vòng 4 tuần
đầu sau khi đẻ [Dẫn theo 9].
Rối loạn stress sau sang chấn sinh đẻ
Việc sinh nở làm phụ nữ đau đớn, căng thẳng khiến cho một số rơi vào tình
trạng rối loạn căng thẳng. Ngồi ra, các kết quả nghiên cứu từ nhiều cơng trình khác
nhau đã chỉ ra rằng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn stress sau sang chấn sinh
đẻ ở người phụ nữ. Rối loạn stress sau sang chấn có thể được kích hoạt bởi các sự
kiện sang chấn xảy ra quanh vấn đề sinh nở, hoặc bằng việc khơi gợi các sự kiện
sang chấn sinh nở trong quá khứ như lạm dụng tình dục. Các sự kiện sang chấn có
một phổ rộng, từ các tình huống cuộc sống có khả năng đe dọa cho người mẹ hoặc
em bé cho đến các mối tương tác với các nhóm chăm sóc y tế được nhận thức bởi
những kiểu phụ nữ tiêu cực như bị bỏ rơi hoặc có cảm giác bất lực.
Kết quả khảo sát trên 56 khách thể nghiên cứu cho thấy 21,2% số phụ nữ
sinh con nhiều lần đáp ứng đầy đủ tiêu chí chẩn đốn rối loạn stress sau sang chấn ở
tuần thứ 6 sau sinh với tỉ lệ mắc là dưới 8%. Đây được xem là nghiên cứu theo
chiều dọc đầu tiên chứng minh sự xuất hiện rối loạn stress sau sang chấn sinh đẻ ở
phụ nữ sinh con nhiều lần, trong đó đã loại trừ nguyên nhân có rối loạn stress sau
sang chấn từ trước (rối loạn stress sau sang chấn không liên quan đến sinh đẻ) [26].
Một số liệu khác, các nhà nghiên cứu phỏng vấn phụ nữ mang thai có thu
nhập thấp cho kết quả là từ 3,5-7,7% bị rối loạn stress sau sang chấn. Ước tính phụ

nữ bị rối loạn stress sau sang chấn khi mang thai và sau sinh chiếm một khoảng
rộng từ 1,7 - 8,1% [Dẫn theo 19].
Điểm đáng chú ý là có những con số khác nhau về tỉ lệ phụ nữ sau sinh có lo
âu. Như vậy, khi nghiên cứu về lo âu và rối loạn lo âu ở phụ nữ sau sinh, các tác giả
tập trung vào các khía cạnh như phát hiện thực trạng thơng qua việc báo cáo các tỉ
lệ có biểu hiện lo âu, rối loạn lo âu sau sinh; tìm hiểu về thời điểm xuất hiện của các
biểu hiện; các yếu tố ảnh hưởng đến sự nảy sinh các biểu hiện lo âu; và sự hiện diện
của các biểu hiện lo âu, rối loạn lo âu trong các dạng rối loạn tâm lý khác sau sinh.
Ngồi ra, trong q trình thu thập tài liệu liên quan, chúng tôi nhận thấy khi nghiên

14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


cứu về lo âu, rối loạn lo âu sau sinh các tác giả trên thế giới còn quan tâm đến chủ
đề can thiệp, trị liệu với lo âu, rối loạn lo âu ở phụ nữ sau sinh. Tuy nhiên trong giới
hạn, chúng tơi chưa trình bày về hướng nghiên cứu này trong phần tổng quan vấn đề
nghiên cứu.
Về thời điểm xuất hiện của các biểu hiện lo âu, rối loạn lo âu sau sinh, qua
các cơng trình thu thập được chúng tôi nhận thấy các tác giả nghiên cứu vào nhiều
thời điểm khác nhau sau sinh. Đó có thể là ngay khi người phụ nữ mới sinh, hay ở
một vài tuần, một vài tháng sau khi sinh (lâu nhất là tháng thứ 9 sau sinh). Đáng chú
ý là qua các nghiên cứu chúng tơi nhận thấy có những con số khác nhau về tỉ lệ có
biểu hiện lo âu sau sinh ở nhóm khách thể tham gia nghiên cứu. Điều này có thể bắt
nguồn từ sự khác nhau trong phương pháp nghiên cứu, công cụ và quan điểm
nghiên cứu của các tác giả.
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, vấn đề nghiên cứu về phụ nữ sau sinh hiện vẫn còn khá mới
mẻ và số lượng nghiên cứu về chủ đề này là rất ít. Đầu tiên ở khía cạnh y tế, dịch tễ

học có một số cơng trình của các tác giả như Nguyễn Văn Siêm, Nguyễn Lợi,
Nguyễn Nam, Nguyễn Thị Ngọc Phượng.
Ở góc độ tâm lý, đã xuất hiện một số cơng trình. Năm 1994, Vũ Thị Chín
cùng với cộng sự đã thực hiện nghiên cứu Tìm hiểu tâm lý sản phụ và quan hệ sớm
mẹ con. Đây là một trong những tác phẩm hiếm hoi mô tả tâm lý của sản phụ trong
thời kỳ mang thai và sinh con. Tác giả cho rằng trong thời gian sau sinh sản phụ sẽ
trải qua một thời kỳ trầm nhược nhẹ, một trạng thái u buồn, chán nản, mệt nhọc, lờ
đờ ảm đạm [2].
Năm 2009, trên tạp chí Tâm lý học số 4 xuất hiện bài báo của tác giả Nguyễn
Linh Trang [5] với tựa đề“Một số biến đổi tâm lý sau khi sinh con”. Từ những tổng
quan tài liệu và cuộc khảo sát thu thập ý kiến trên 30 phụ nữ sau sinh, tác giả đã chỉ
ra có đến 18 bà mẹ (chiếm 60%) đã từng trải qua cơn buồn thoáng qua sau sinh (ở
mức độ nhẹ), 5 bà mẹ (chiếm 15,6%) đã từng mắc trầm cảm sau sinh (mức độ vừa)
và 1 bà mẹ mắc chứng loạn thần sau sinh (mức độ nặng).

15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Nghiên cứu của Lê Thị Thanh Thủy [4] được thực hiện trên 366 phụ nữ có
con từ 0-2 tuổi ở 5 tỉnh thành là Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Nam Định và Sơn
La, nhằm tập trung làm rõ mối liên quan giữa các đặc điểm nhân cách và mức độ
trầm cảm ở phụ nữ sau sinh. Kết quả cho thấy phụ nữ được khảo sát của đề tài cũng
bị trầm cảm tương đương với các nước khác trên thế giới. Phụ nữ có đặc điểm nhân
cách với kiểu hình thần kinh khơng ổn định có nguy cơ bị trầm cảm sau sinh cao
hơn so với các nhóm khác. Yếu tố khơng ổn định của hệ thần kinh cũng có tương
quan với các biểu hiện của trầm cảm ở phụ nữ sau sinh, và biểu hiện rõ nhất ở khía
cạnh hành vi của trầm cảm.
Nhìn chung tại Việt Nam, các khía cạnh khó khăn tâm lý khác nhau ở phụ nữ

sau sinh (cơn thoáng buồn, trầm cảm, lo âu, loạn thần sau sinh…) bước đầu đã được
đề cập đến trong một số nghiên cứu. Tuy nhiên, chúng tơi chưa tìm được nghiên
cứu cụ thể nào về rối loạn lo âu với tư cách là một loại rối loạn chuyên biệt mà lo âu
mới được khảo sát ở dạng là các biểu hiện đan xen với trầm cảm.
1.1.3. Một số quan điểm nghiên cứu về lo âu ở phụ nữ sau sinh
Nghiên cứu về lo âu ở phụ nữ sau sinh, các tác giả ngoài việc phát hiện thực
trạng của vấn đề còn đưa ra những bằng chứng, quan điểm về nguyên nhân cũng
như các yếu tố ảnh hưởng dẫn tới lo âu sau sinh.
Theo Linda Sebastian, tất cả các bà mẹ mới sinh có phần lo lắng vì sinh con
đồng nghĩa với việc người phụ nữ sẽ đảm nhận một vai trò và trách nhiệm mới. Lo
lắng để đáp ứng với tình trạng này là điều rất phổ biến, tuy nhiên vì những lý do nào
đó mà hiện chưa thể giải thích rõ ràng việc một số bà mẹ có lo lắng quá mức (có thể
dẫn đến rối loạn lo âu sau sinh). Một giả thuyết đề xuất rằng một số người có xu
hướng sinh học đối với sự lo âu dường như nhạy cảm hơn với những tác động của
các kích thích tố liên quan đến sự lo âu được giải phóng. Có thể có một liên kết di
truyền trong một số rối loạn vì lịch sử gia đình là quan trọng trong việc xác định
những loại rối loạn hiện diện và loại điều trị có thể giúp đỡ. Một giả thuyết khác đề
xuất rằng sự lo lắng là một phản ứng với các tình huống tiêu cực hay sợ hãi trong
quá trình lớn lên. Một người hay lo lắng sợ hãi có thể do đã phát triển một thói quen

16

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


lâu ngày. Đó là họ thường giả định điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra hoặc phản ứng tiêu cực
với các sự kiện. Lý thuyết này cũng giải thích lý do tại sao chấn thương tâm lý có
thể góp phần phát triển sự lo âu. Phản ứng với căng thẳng và mất mát cũng có thể là
một yếu tố. Cuối cùng tác giả đi đến nhận định rằng có lẽ khơng có một lý do duy
nhất tại sao một vài người phát triển rối loạn lo âu [35].

Felter (2013) [18] trong nghiên cứu của mình đã trình bày mơ hình tâm lý về
lo âu sau sinh gồm: mơ hình nhận thức, mơ hình tâm sinh lý, mơ hình về sự gắn bó.
Mơ hình nhận thức
Đầu tiên, đây được xem là mơ hình tâm lý về lo âu được biết đến rộng rãi
nhất khi tiếp cận vấn đề lo âu sau sinh. Mơ hình nhận thức về rối loạn cảm xúc cho
rằng những cảm xúc phát sinh chủ yếu từ cách mỗi cá nhân nhận biết, hiểu và suy
nghĩ về bản thân và thế giới xung quanh. Các triệu chứng lo âu được cho là sẽ phát
sinh khi một người nhận thức được mối nguy hiểm về thể chất hoặc tâm lý xã hội
trong hoàn cảnh thực tại và diễn giải các sự kiện đó chắc chắn là mối đe dọa. Trong
phản ứng này, các triệu chứng lo âu về cơ thể có thể xảy ra. Chẳng hạn như căng cơ,
bồn chồn, khó thở và khơ miệng. Khi những triệu chứng này lần lượt được giải
thích như là dấu hiệu mất kiểm sốt, khơng có khả năng đối phó hoặc là có khả
năng gây ra đánh giá tiêu cực từ những người khác thì một vịng luẩn quẩn được
định hình mà theo đó những suy nghĩ và hành vi tiếp theo là phương thức để thốt
khỏi hoặc né tránh tình huống duy trì sự lo lắng theo thời gian.
Mục tiêu chính của liệu pháp nhận thức hành vi là giúp một người nhận thức
và đánh giá những suy nghĩ và niềm tin của mình theo cách thức mà họ có thể tìm
hiểu để thách thức và thay đổi các khn mẫu hành vi của mình. Vì vậy, trọng tâm
chính của mơ hình nhận thức là tập trung vào các yếu tố bên trong cá nhân, tức là
những niềm tin, suy nghĩ và hành vi của cá nhân dẫn đến duy trì các triệu chứng lo
âu có liên quan với các cơ chế của sự lo lắng trong hiện tại mà không phải vào việc
phát hiện quá trình phát triển của các triệu chứng lo âu đó.
Mơ hình tâm sinh lý

17

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Mơ hình này đã được mơ tả đầu tiên bởi bác sĩ Engel (1977) và từ đó đã

được chấp nhận rộng rãi như là một mơ hình chủ đạo trong lĩnh vực tâm thần
(Ghaemi, 2009, Slade, 2002). Nó liên quan đến bất kể rối loạn sức khỏe, thể chất
hay cảm xúc, nói cách khác liên quan đến sự tác động của các yếu tố sinh học, tâm
lý và xã hội.
Mô hình tâm sinh lý được dùng để giải thích làm thế nào mà các yếu tố di
truyền, hóa học thần kinh, các yếu tố khủng hoảng như sự tổn thương tâm lý và các
căng thẳng cuộc sống có thể tương tác và liên quan đến sự khởi phát hoặc tăng nặng
thêm các lo âu sau sinh. Cụ thể mơ hình của Wenzel (2011) khẳng định rằng lo âu
sau sinh có nhiều khả năng để khởi phát với trường hợp có sự tổn thương về mặt di
truyền (tức là một người có tiền sử cá nhân hoặc gia đình bị lo âu và/hoặc trầm
cảm); hay trường hợp có sự sụt giảm đáng kể lượng estrogen và progesterone sau
khi sinh cũng như việc tăng mức độ cortisol làm ảnh hưởng đến tâm trạng và sự
hiện diện của phong cách nhận thức đặc trưng ở những người có rối loạn lo âu như
tự nói về mình một cách tiêu cực, chú tâm vào bản thân, thờ ơ với môi trường xung
quanh và phương cách sau sự kiện. Các yếu tố trung gian dẫn tới sự xuất hiện của lo
âu có thể là do những trải nghiệm về sự căng thẳng trong cuộc sống như tình trạng
kinh tế xã hội thấp, stress do chăm sóc trẻ hoặc các yếu tố khác.
Mơ hình tâm sinh lý bao gồm đầy đủ các yếu tố sinh lý, thần kinh, tâm lý và
xã hội. Điều này có thể tiềm ẩn nhiều khó khăn. Mơ hình này đã bị chỉ trích là q
chung chung và chiết trung và khơng đưa ra được cơ chế hoạt động giữa các yếu tố
nguy cơ và rối loạn. Ngồi ra, có quan điểm cho rằng hầu hết các biến tương tác với
nhau theo một cách thức độc đáo và phức tạp do đó khó mà nắm bắt được.
Lý thuyết gắn bó của Bowlby
Lý thuyết gắn bó đã được sử dụng như là một lý thuyết nền tảng trong việc
hiểu về rối loạn lo âu từ các lý giải về kiểu hình gắn bó. Trước mối đe dọa hoặc
căng thẳng, hệ thống sợ hãi được kích hoạt dẫn đến các hành vi gắn bó như tìm
kiếm sự trấn an và gần gũi tới các kiểu hình gắn bó để được bảo vệ. Mục đích của
việc này là để điều tiết căng thẳng và do đó cho phép các hệ thống sợ hãi một lần

18


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nữa bị ngừng hoạt động để hoạt động bình thường có thể được nối lại. Tuy nhiên,
các trải nghiệm đầu đời bất lợi về sự tương tác với người chăm sóc có thể dẫn đến
những cách thức làm vơ hiệu hóa hệ thống sợ hãi và kéo dài sự hiện diện của các
triệu chứng lo âu.
Trong mối quan hệ hỗ trợ xã hội, kiểu gắn bó được cho là ảnh hưởng đến khả
năng của một người trong việc tranh thủ sự trợ giúp từ những người quan trọng.
Alexander và cộng sự (2001) đã nghiên cứu việc tìm kiếm sự hỗ trợ xã hội như là
một dạng ứng phó sau sinh thấy rằng phụ nữ có kiểu gắn bó an tồn có nhiều khả
năng có được sự hỗ trợ từ người khác là một chiến lược đối phó. Ngược lại, những
người có kiểu gắn bó lo âu có nhiều khả năng “tự đổ lỗi và suy nghĩ mơ tưởng”.
Học thuyết gắn bó của Bowlby cung cấp một khn khổ cho việc tìm hiểu cơ
chế mà theo đó các yếu tố liên cá nhân của kiểu gắn bó ở người lớn, trải nghiệm về
sự chăm sóc của cha mẹ và sự bảo vệ quá mức, các mối quan hệ an toàn và sự hỗ
trợ xã hội có thể đóng vai trị là các yếu tố nguy cơ cho lo âu sau sinh (Elisabeth
Felter, 2013).
Các tác giả trên thế giới khi nghiên cứu về một dạng lo âu cụ thể sau sinh
cũng đưa ra những cách tiếp cận khác nhau để xem xét vấn đề. Chẳng hạn, nguyên
nhân của rối loạn ám ảnh cưỡng chế sau sinh hiện chưa được biết đến (LuAnn
Pierce, 2014). Có hai lý thuyết thường được kết hợp với nhau khi lý giải về ngun
nhân của nó: mơ hình sinh học và mơ hình tâm lý [37].
Theo đó, mơ hình sinh học cho rằng những thay đổi về nồng độ oxytocin
(thúc đẩy mối liên kết mẹ con) và nồng độ serotonin (một chất truyền thần kinh)
liên quan đến lo âu và trầm cảm sẽ dẫn tới OCD sau sinh. Tuy nhiên, có một số
lượng đáng kể người cha cũng được báo cáo rằng có sự khởi phát triệu chứng OCD
sau khi em bé được sinh ra mà rõ ràng là không liên quan đến sự thay đổi hormon ở
người mẹ. Trong khi đó, mơ hình tâm lý của Jonathan Abramowitz và Nichole

Fairbrother thì cho rằng việc gánh thêm trách nhiệm làm cha mẹ có thể làm các cha
mẹ mới có những suy nghĩ sai lầm do thiếu kinh nghiệm. Theo các tác giả, hầu như
mọi phụ huynh đều trải qua suy nghĩ xâm nhập về sự an toàn của trẻ và một số có

19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


những suy nghĩ, hình ảnh làm hại con mình. Abramowitz và Fairbrother tin rằng
những người không nhận ra những suy nghĩ xâm nhập là bình thường có nguy cơ cố
gắng che giấu chúng. Điều này sẽ ngăn cản họ nói chuyện với các chuyên gia, các
thành viên gia đình hoặc bạn bè - những người có thể giúp họ hiểu rằng hầu hết các
bậc cha mẹ có trải nghiệm điều tương tự. Cha mẹ mới gặp nhiều căng thẳng như
thiếu ngủ, tài chính, gia đình và những người khác. Những kết hợp với những suy
nghĩ thường xuyên và lo ngại cho sự an tồn của con, thay đổi hc mơn ở phụ nữ
và ý thức trách nhiệm mới có thể dễ dàng kích hoạt lo âu. Việc điều trị lo âu sau
sinh cũng giống như lo âu truyền thống, bằng cách dùng thuốc và trị liệu. Liệu pháp
hành vi nhận thức, tâm lý giáo dục và hỗ trợ nhóm là rất hữu ích.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới lo âu ở phụ nữ sau sinh
Các tác giả nhận định rằng mang thai cũng là một sự kiện đời sống khiến
người phụ nữ phải đối mặt với những thay đổi về thể chất, tâm lý, xã hội cụ thể và
trở thành yếu tố nguy cơ dẫn tới nảy sinh lo âu sau sinh. Chẳng hạn, Robertson và
cộng sự (2004) đã đưa đến kết luận rằng mức độ lo âu cao trước khi sinh là một yếu
tố dự báo mạnh mẽ của rối loạn trầm cảm ở phụ nữ sau sinh [Dẫn theo 22]. Trong
một nghiên cứu, Adewuya và cộng sự (2006) đã so sánh tỉ lệ lo âu khi mang thai ở
phụ nữ Nigeria với phụ nữ không mang thai bằng việc sử dụng chẩn đoán rối loạn
lo âu theo DSM-V. Kết quả, các tác giả phát hiện 39% phụ nữ mang thai có lo âu và
16,3% ở phụ nữ khơng mang thai. Sự khác biệt này được giải thích bởi mang thai
là một giai đoạn có những biến đổi cao về cảm xúc đối với người phụ nữ [Dẫn theo

16]. Chính vì vậy, nghiên cứu về lo âu ở phụ nữ sau sinh, các tác giả còn dành sự
quan tâm đến lo âu ở người phụ nữ trong thời gian mang thai như một yếu tố ảnh
hưởng đến khả năng hình thành lo âu sau sinh.
Theo một số tác giả, phụ nữ mang thai có thể trải nghiệm nỗi sợ hãi cụ thể và
dữ dội như sợ đau khi sinh, sợ khơng đủ sức và mất kiểm sốt trong lúc sinh, lo sợ
cho cuộc sống riêng và cuộc sống của con, lo lắng về những thay đổi trong cuộc
sống cá nhân do mang thai và sinh con (Schetter Dunkel, 1998; Sjogren, 1997) [Dẫn

20

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


theo 11]. Các kết quả nghiên cứu này đã góp phần đưa ra những bằng chứng cụ thể
về ảnh hưởng của lo âu thai kỳ đến sự khởi phát của lo âu sau sinh.
Tương tự, Anja và cộng sự (2004) giải thích nguyên nhân của lo âu khi mang
thai bằng mơ hình 3 yếu tố gồm: “sợ sinh con”, “sợ thai nhi bị khuyết tật về thể chất
hoặc tinh thần” và “lo ngại những thay đổi về ngoại hình ở người mẹ”. Nghiên cứu
của các tác giả còn cho thấy 3 nỗi sợ hãi này xuất hiện trong suốt thai kỳ. Tuy nhiên
có sự thay đổi theo thời gian, sự sợ hãi trong thời kỳ đầu mang thai là cao nhất, tiếp
đó mức độ sợ hãi thấp hơn một chút ở cuối thai kỳ và thấp nhất trong thời gian giữa
thời kỳ mang thai. Yếu tố nhân cách chỉ là một phần nhỏ trong sự thay đổi của
những nỗi sợ hãi. Nhóm có nguy cơ cao là những phụ nữ bị các vấn đề tâm thần
hoặc những người từng bị sẩy thai trước đây. Nhóm này có nỗi sợ hãi về việc con sẽ
bị khuyết tật về thể chất hoặc tinh thần nhiều hơn nhóm phụ nữ mang thai có nguy
thấp. Đồng thời nhóm này cũng ít quan tâm đến ngoại hình cá nhân hơn. Cuối cùng
theo các tác giả, việc lượng giá được lo âu trong thai kỳ sẽ góp phần ý nghĩa trong
đánh giá lo âu trong suốt quá trình mang thai [11].
Hơn nữa, các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng triệu chứng lo âu của bà mẹ cả
trước sinh và sau sinh có liên quan đến các vấn đề hành vi ở trẻ cho đến khi trẻ lên

8-9 tuổi (Luoma và cộng sự, 2001), và tăng nguy cơ bị hiếu động thái quá ở trẻ em
mầm non (O'Connor và cộng sự, 2002). Lo âu của người mẹ trong khi mang thai có
mối liên hệ với tỉ lệ cao hơn những khó khăn trong tính khí, các biểu hiện cảm xúc
của trẻ sơ sinh (Austin và cộng sự, 2005; Huizink và cộng sự, 2003) [Dẫn theo 16].
Vì vậy, các tác giả cho rằng những phát hiện về các bà mẹ có triệu chứng lo âu phải
được giải thích một cách thận trọng. Bên cạnh đó, những tác động khác nhau của
trầm cảm và lo âu đối với sự gắn bó mẹ con cho thấy rằng điều quan trọng là phải
có sự phân biệt giữa trầm cảm và lo âu lâm sàng.
Ngồi ra, biểu hiện lo âu có sự khác biệt giữa những bà mẹ sinh con đầu lịng
với những bà mẹ đã có con lớn, hay sinh con nhiều lần. Nghiên cứu của DiPietro và
cộng sự (DiPietro, Costigan, & Sipsma, 2008) cho thấy biểu hiện lo âu ở những phụ
nữ sinh con nhiều lần có xu hướng giảm từ khi mang thai đến 24 tháng đầu sau khi

21

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×