Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Luận văn thạc sĩ USSH quan niệm của arixtot về nhà nước trong tác phẩm chính trị luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------

TRỊNH QUANG DŨNG

QUAN NIỆM CỦA ARISTOTLE VỀ NHÀ NƯỚC
TRONG TÁC PHẨM "CHÍNH TRỊ LUẬN"

Chuyên ngành:

Triết học

Mã số:

60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quang Hưng

Hà Nội - 2014

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Quang Hưng. Các tư liệu nêu ra
trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan khoa học và có nguồn
gốc xuất xứ rõ ràng.


Tác giả

Trịnh Quang Dũng

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


LỜI CẢM ƠN
Với lịng biết ơn sâu sắc, tơi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn
Quang Hưng - người thầy kính mến đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tơi
rất nhiều vấn đề khoa học trong suốt q trình thực hiện và hồn thành luận
văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Triết học, trường Đại
học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ và tạo
mọi điều kiện thuận lợi để tơi có thể hồn thành bản luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới cán bộ và bạn bè công tác tại Trung
tâm thư viện trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Trung tâm thư
viện Quốc gia đã nhiệt tình giúp đỡ tơi trong quá trình khảo cứu tư liệu và
triển khai luận văn.

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2014
Học viên

Trịnh Quang Dũng

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................1

NỘI DUNG......................................................................................................6
Chương 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI QUAN
NIỆM VỀ NHÀ NƯỚC CỦA ARISTOTLE TRONG TÁC PHẨM
“CHÍNH TRỊ LUẬN” ....................................................................................6
1.1 Điều kiện ra đời quan niệm về nhà nước trong tác phẩm ..........................6
1.1.1 Điều kiện lịch sử kinh tế - xã hội ............................................................6
1.1.2 Những tiền đề chính trị - xã hội .......................................................... 12
1.1.3 Điều kiện văn hóa – xã hội .................................................................. 20
1.1.4 Tiền đề lý luận, tư tưởng triết học ...................................................... 26
1.2 Khái quát chung về tác phẩm và quan niệm của Aristotle về nhà nước . 37
1.2.1 Thân thế và sự nghiệp của Aristotle..................................................... 37
1.2.2 Sự ra đời và những nội dung cơ bản của tác phẩm .............................. 40
1.2.3 Quan niệm về nhà nước trong tác phẩm và hướng tiếp cận ...................... 44
Chương 2: MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ NHÀ NƯỚC TRONG TÁC
PHẨM ........................................................................................................... 45
2.1 Những quan niệm chung về nhà nước .................................................... 45
2.2 Các hình thức nhà nước........................................................................... 54
2.2.1 Quan niệm của Aristotle về hình thức nhà nước.................................. 54
2.2.2 Bản chất của các loại hình nhà nước .................................................... 56
2.2.3 Các dạng khác nhau của các loại hình nhà nước ................................. 60
2.3. Mơ hình nhà nước lý tưởng .................................................................... 73

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


2.3.1 Nhà nước lý tưởng................................................................................ 73
2.3.2 Đặc điểm cơ cấu bộ máy nhà nước lý tưởng ....................................... 81
2.3.2.1 Cơ quan nghị quyết ........................................................................... 82
2.3.2.2 Cơ quan chính quyền (tức là cơ quan hành pháp) ............................ 85
2.3.2.3 Cơ quan tư pháp ................................................................................ 87

Chương 3: QUAN NIỆM CỦA ARISTOTLE VỀ CÁC BIỆN PHÁP DUY
TRÌ CHẾ ĐỘ NHÀ NƯỚC LÝ TƯỞNG VÀ MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH....... 88
3.1 Các biện pháp bảo vệ chế độ nhà nước lý tưởng .................................... 88
3.1.1 Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi chế độ ............................................ 88
3.1.2 Biện pháp bảo vệ và duy trì chế độ nhà nước lý tưởng ....................... 93
3.1.3 Những điều kiện xây dựng nhà nước lý tưởng .................................... 97
3.2.1 Những giá trị trong tác phẩm ............................................................. 100
3.2.1.1 Những giá trị thể hiện ở phương pháp tiếp cận của tác phẩm ........ 100
3.2.1.2 Những giá trị thể hiện trong những nội dung lý luận về nhà nước . 103
3.2.1.3 Bước đầu đánh giá sự ảnh hưởng của Aristotle đối với lý luận và thực
tiễn chính trị Tây Âu ................................................................................... 109
3.2.2 Những hạn chế trong tác phẩm ......................................................... 116
KẾT LUẬN ................................................................................................ 122
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 124

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Triết học đã và đang giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử
nhân loại. Nó đem lại thế giới quan và phương pháp luận trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nó khơng chỉ đáp ứng nhu
cầu tinh thần đạo đức của con người với tư cách cá nhân thành viên của xã
hội mà nó giúp cho con người suy ngẫm mặc tưởng về thực chất của xã hội
của chế độ mà con người sinh sống và những phẩm chất cần thiết để cho con
người đạt đến đạo đức của xã hội đó.
Triết học ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu đó con người và đặt ra
vấn đề giải quyết các lĩnh vực của đời sống thực tiễn, chính vì lẽ đó các nhà
thánh nhân khai sáng ra triết học đã khơng ngừng tìm kiếm con đường để

dẫn đến “đạo” và thực hành “đạo”. Dù Phương Đơng hay Phương Tây thì
các nhà triết học vẫn đem hết tâm huyết của bản thân để đặt nền móng hướng
con người đến giá trị đó.
Trong nhiều lĩnh vực triết học thì vấn đề chính trị - xã hội được xem là
vấn đề quan trọng hàng đầu, đó là những quan điểm, phương pháp để hướng
con người đạt đến xã hội lý tưởng, nhà nước lý tưởng, nó địi hỏi các nhà
triết gia phải có tầm hiểu biết và sự ảnh hưởng của bản thân để sáng tạo, tìm
tịi, và vận dụng các học thuyết chính trị đó vào trong cộng đồng chính trị cụ
thể. Trong triết học Phương Tây, nếu Socrate được xem là người đặt nền
móng cho việc chuyển nền triết học tự nhiên sang nền triết học nhân bản,
triết học về con người, thì Aristotle lại được xem là ơng tổ của chính trị học
Phương Tây, đặt ra nền móng cho việc nghiên cứu lý luận chính trị phương
Tây.

1

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Là một nhà bác học, Aristotle đã để lại cho hậu thế một kho tàng tư
tưởng về nhiều phương diện như triết học, khoa học, toán học, thiên văn học
và chính trị học. “Chính trị luận” là một trong những tác phẩm kinh điển
của Arixtot về triết lý và ý thức chính trị của phương Tây và trên nền tảng
này những lý thuyết khác đã được xây dựng và phát triển. Mãi cho tới hơm
nay tác phẩm “Chính trị luận” vẫn còn là một trong những tác phẩm mà
những học giả, người học phải đọc và nghiên cứu trong các khoa học triết
học, chính trị nó được giới học giả thế giới công nhận là một trong những
quyển sách vĩ đại của nhân loại.
Hơn nữa, trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền định hướng
xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng và

Nhà nước đã khuyến khích giới học giả tìm tòi nghiên cứu lý luận đặc biệt là
lý luận về việc xây dựng Nhà nước và pháp luật trên thế giới. Từ sau khi
chúng ta tiến hành đổi mới, Đảng đã tạo điều kiện và yêu cầu công tác tư
tưởng đặt vấn đề nghiên cứu các tác phẩm kinh điển trên thế giới, khái quát
lý luận và hình thành những quan điểm để hồn thiện cơng tác xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Tác phẩm “Chính trị luận” của Aristotle đã được dịch giả Nông Duy
Trường dịch ra và được Nhà xuất bản Thế giới xuất bản vào năm 2012, việc
nghiên cứu một cách toàn thể và khoa học về tác phẩm này được chú ý và
cịn cũng cịn khá mới mẻ, ít tài liệu tham khảo cùng các cơng trình nghiên
cứu.
Với những cơ sở lý luận và thực tiễn như vậy, tôi đã nghiên cứu tác
phẩm “Chính trị luận” của Aristotle cùng việc tìm hiểu các tài liệu tham
khảo, tơi đã quyết định chọn “Quan niệm của Aristotle về nhà nước trong

2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


tác phẩm “Chính trị luận” làm đề tài luận văn hồn thành chương trình thạc
sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến nội dung của đề tài khơng có nhiều tài liệu nghiên cứu
chuyên sâu nhưng cũng có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu sau:
Một là, là các cơng trình dịch thuật tác phẩm. “Chính trị luận” đã
được nhiều học giả Anh, Mỹ dịch sang Anh Ngữ, tiêu biểu như Benjamin
Jovett, Peter Simpson, Ernest Barker, W.E.Bolland và H.Rackam. Với tiếng
Việt, tác phẩm được dịch giả Nông Duy Trường dịch một cách thành công
và được xuất bản vào năm 2012. Trong suốt quyển sách này, tác giả đã giới

thiệu một cách chi tiết về Aristotle, khái quát nội dung tác phẩm và dịch toàn
bộ tác phẩm này sang tiếng Việt.
Tiếp đến quyển sách “Triết học Phương Tây từ khởi thủy đến đương
đại” của nhóm Giáo sư Triết học Đại học Pháp xây dựng, được Nhà xuất bản
Văn hóa thơng tin xuất bản năm 2010, đã khái qt nội dung chính của tác
phẩm và đồng thời họ cũng trích dẫn những đoạn văn kinh điển từ trong tác
phẩm này, khái quát toàn bộ nội dung của tác phẩm.
Trong “Lịch sử triết học đại cương”của tác giả Nguyễn Minh Hợp,
Nguyễn Ánh Tuấn, thầy Nguyễn Thanh, của Nhà xuất bản Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2006 cũng đề cập đến tư tưởng về chính trị trong hệ
thống tư tưởng của Arixtot.
Trong bộ nghiên cứu “Lịch sử triết học Tây Phương” tập 2, (Triết học
thượng cổ) của tác giả Lê Tơn Nghiêm, được nhà xuất bản Thành phố Hồ
Chí Minh in ấn vào năm 2000 đã nghiên cứu hệ thống triết học của Arixtot
và nội dung chính trị - xã hội trong triết học của ơng.
Ngồi ra, cịn phải kể đến những cơng trình liên quan đến Aristotle và
tư tưởng của ông về nhà nước như Câu truyện triết học của Will Durant,
3

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Lịch sử thế giới cổ đại do Lê Minh chủ biên, cuốn sách Văn minh phương
Tây – Lịch sử và văn hóa của Edward McNall Burns do Trung tâm dịch thuật
TP.HCM biên dịch, cuốn Các trường phái triết học trên thế giới của David E
Cooper, cuốn Lịch sử các tư tưởng chính trị của Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, có thể thấy tài liệu đề cập đến trực diện vấn đề luận văn
nghiên cứu khơng có nhiều trong việc nghiên cứu tác phẩm kinh điển và tư
tưởng của Aristotle là một việc khó khăn và nó càng khó khăn khi số ít ỏi

những cơng trình nêu trên chưa thể cung cấp đầy đủ và sâu sắc những gì có
thể đi vào nội dung của luận văn. Qua quá trình nghiên cứu, và tìm hiểu, lựa
chọn đề tài này, học viên thấy được sự cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này
để hiểu sâu sắc hơn triết học của Aristotle nói chung và triết học chính trị xã hội của ơng nói riêng nhằm phục vụ tốt hơn cho việc nghiên cứu và giảng
dạy lịch sử triết học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Giới thiệu và phân tích về nội dung tư tưởng Nhà nước
được Aristotle viết trong tác phẩm "Chính trị luận".
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ hoàn cảnh viết và nội dung cơ bản trong tác phẩm
- Giới thiệu và phân tích những nội dung viết về Nhà nước trong tác phẩm
- Từ đó đánh giá, giá trị và hạn chế trong tác phẩm về Nhà nước và
xây dựng Nhà nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng: quan niệm về Nhà nước trong tác phẩm ''Chính trị luận"
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu như
sau: những quan niệm của Aristotle về nhà nước trong tác phẩm
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


* Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
* Phương pháp nghiên cứu: thống nhất lịch sử với logic, phân tích với
tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh đối chiếu văn bản…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn mong muốn đem lại những tri thức về nhà nước trong tác

phẩm "Chính trị luận" của Aristotle, đặc biệt từ đó đánh giá tư tưởng của
ông, giúp người đọc hiểu được tầm quan trọng của Aristotle đối với lý luận
và thực tiễn chính trị phương Tây.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa lý luận: Luận văn cung cấp một cách hệ thống bao quát nội
dung tư tưởng về Nhà nước của Aristotle trong tác phẩm "Chính trị luận". Đề
tài sẽ là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu hệ thống tư tưởng chính trị và nhà
nước ở Phương Tây thời cổ đại.
* Ý nghĩa thực tiễn: dùng làm tài liệu tham khảo giảng dạy Lịch sử
triết học nói chung, Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, và giảng dạy các học
phần Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội cổ đại, Lịch sử Nhà nước pháp
quyền và Lịch sử chính trị học…
8. Kết cấu của luận văn:
Tác phẩm ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn có 3 chương, 7 tiết. Trong đó:
Chương 1: Những điều kiện ra đời quan niệm của Aristotle về nhà
nước tác phẩm ''Chính trị luận"
Chương 2: Một số quan niệm về nhà nước của Aristotle trong tác
phẩm
Chương 3: Những quan niệm về biện pháp duy trì nhà nước lý tưởng
và một số nhận định

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI QUAN
NIỆM VỀ NHÀ NƯỚC CỦA ARISTOTLE TRONG TÁC PHẨM

“CHÍNH TRỊ LUẬN”
1.1 Điều kiện ra đời quan niệm về nhà nước trong tác phẩm
1.1.1 Điều kiện lịch sử kinh tế - xã hội
Hoàn cảnh kinh tếs - xã hội của mỗi một thời đại chính là cánh cửa
giúp ta thấu hiểu được lịch sử tư tưởng của thời đại đó, cho nên việc phân
tích những điều kiện kinh tế - xã hội là hết sức cần thiết và quan trọng trong
nghiên cứu khoa học. Mác cũng đã từng khẳng định “Trong mỗi thời đại lịch
sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã
hội do phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị
của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ
xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử đó” [10,523]. Thậm chí “tồn bộ
lịch sử đã qua, từ trạng thái ngun thủy, đều là lịch sử của đấu tranh giai
cấp, rằng những giai cấp xã hội đấu tranh với nhau ấy luôn luôn là những sản
phẩm của những quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi, tóm lại là những sản
phẩm của những quan hệ kinh tế của thời đại, của những giai cấp ấy; do đó
cơ cấu kinh tế xã hội luôn luôn là cái cơ sở hiện thực mà xét đến cùng ta phải
dựa vào mới giải thích được tất cả thượng tầng kiến trúc là chế độ pháp
quyền và chế độ chính trị, cũng như những quan niệm tôn giáo, triết học và
các quan niệm khác của thời kỳ lịch sử nhất định” [9,303].
Do đó, việc nghiên cứu quan niệm về nhà nước trong tác phẩm ''Chính
trị luận" của Aristotle trước hết cần phải nghiên cứu lịch sử kinh tế của xã
hội Hy Lạp cổ đại, từ đó mới có thể thấy được nguồn gốc nảy sinh tư tưởng
của Aristotle về nhà nước.
Theo sử sách, thế giới Hy Lạp cổ đại là trang sử sách anh hùng của
một trong những nền văn minh sớm nhất của nhân loại đầy mê hoặc lòng
6

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



người. Hy Lạp cổ đại đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với những biến
cố thăng trầm, cũng như đầy rẫy những thành tựu sáng tạo tuyệt vời mà nền
văn minh Hy Lạp đạt được.
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia ở giữa khu vực Địa Trung Hải, có lãnh
thổ rộng bao gồm miền lục địa Hy Lạp (Nam bán đảo Ban Căng), miền đất
ven bờ Tiểu Á, và những đảo thuộc biển Egie, và được chia thành 3 miền:
Bắc – Trung – Nam. Miền Bắc Hy Lạp là dãy núi Pido, chia thành miền núi
và miền đồng bằng. Trung Hy Lạp, lại có kết cấu khác hẳn có nhiều rừng
núi, chạy dọc ngang chia vùng này thành nhiều khu vực địa lý nhỏ, hẹp hầu
như cách biệt với nhau. Trung và Nam Hy Lạp nối với nhau bằng một eo nhỏ
- eo Corinh – có nhiều đồi, sông suối, eo. Nam Hy Lạp là một bán đảo nhỏ,
hình bàn tay có 4 ngón duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải. Đây là vùng trù phú
nhất Hy Lạp, người Hy Lạp gọi nơi này là Pelopone, ngoài ra ở phía Nam
Hy Lạp cịn có đảo Crete trên biển Egie, một trung tâm thương mại của nền
văn minh tối cổ - văn minh Crete – Mixen – trong lịch sử Hy Lạp [21,161].
Cũng giống như các quốc gia cổ đại khác, điều kiện tự nhiên đã có
những tác động đáng kể tới khuynh hướng phát triển của nền kinh tế cũng
như thiết chế nhà nước của quốc gia cổ đại Hy Lạp. Hy Lạp ít ruộng đất,
khơng thuận lợi cho việc phát triển cây lương thực, nhưng lại thích hợp với
việc trồng nho và ôliu. Thiếu đất canh tác nông nghiệp, nhưng thiên nhiên lại
ưu đãi cho người Hy Lạp bởi nhiều khoáng sản quý và những rừng gỗ quý
bạt ngàn ở khắp miền lục địa. Những điều kiện tự nhiên đó, ngay từ đầu đã
thúc đẩy người Hy Lạp sớm phát triển khuynh hướng của một nền kinh tế
thiên về sản xuất thủ công nghiệp hơn là sản xuất nông nghiệp [21,162].
Theo sử sách, Hy Lạp cổ đại được chia thành 4 giai đoạn chính, gắn
liền với sự phát triển của nền văn minh Hy Lạp.
Nền văn minh sớm nhất của người Hy Lạp là nền văn minh Crete –
Mixen bắt đầu từ thiên niên kỉ III đến thiên niên kỉ II TCN. Nền văn minh
7


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


này chủ yếu được biết đến dựa vào truyền thuyết hoang đường và qua 2 tập
sử thi Iliad và Odysey của Homer. Đây là hai hịn đảo ở phía nam biển Egie,
và vùng đồng bằng Pelopone. Thông qua ngành khảo cổ, người ta cho rằng
giai đoạn này của người Hy Lạp nền kinh tế vẫn chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp và chăn nuôi, chủ yếu là ngựa, lừa. Thủ công nghiệp cũng tương đối
phát đạt. Đây là một nền văn minh của một xã hội đã có giai cấp, nhà nước,
tương tự như các nền văn minh của các quốc gia cổ đại phương Đông. Nền
văn minh này bị tàn tạ vào thiên niên kỉ II TCN, cùng với những cuộc thiên
di lớn của các tộc người Hy Lạp từ Bắc tràn xuống chinh phục và định cư
[21,163].
Giai đoạn thứ hai của người Hy Lạp là thời kỳ từ thế kỉ XI đến thế kỉ
IX TCN, hay còn gọi là giai đoạn Homer trong lịch sử Hy Lạp. Nguyên do
mà người ta gọi thời kỳ này là thời đại Homer vì trạng thái sinh hoạt vật chất
và tinh thần của người Hy Lạp trong giai đoạn này đều được phản ánh rõ nét
trong hai tập sử thi Iliad và Odysey, tương truyền là của nhà thơ Homer ở
vùng Tiểu Á. Trong thời đại này, công cụ sản xuất và vũ khí bằng đồng đã
được sử dụng phổ biến, thủ cơng nghiệp có vị trí quan trọng và đạt nhiều
thành tựu. Nhìn chung, nền kinh tế của Hy Lạp thời Homer là nền kinh tế tự
nhiên tự cung tự cấp, trong đó chăn ni và trồng trọt là hai hoạt động kinh
tế chủ đạo. Xã hội Hy Lạp thời Homer khơng phải là sự tiếp nối của xã hội
trước đó, mà xã hội thời Homer là xã hội thị tộc, bộ lạc ở giai đoạn mạt kỳ.
Theo Ph.Anghen, đặc trưng cơ bản của nó là có sự tồn tại của chế độ dân chủ
quân sự. Một xã hội được tổ chức theo lối vừa có những thủ lĩnh quân sự đầy
quyền uy, vừa có sự tồn tại của các đại hội nhân dân. Trong thời đại này, đã
có nơ lệ chủ yếu là nô lệ chiến tù hoặc được mua từ nước ngồi về, tuy nhiên
chế độ nơ lệ ở Hy Lạp thời Homer mới chỉ là bước khởi đầu, sơ khai và
mang nặng tính chất của nơ lệ gia trưởng [21,164].


8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Sau thời đại Homer, khoảng thời gian từ thế kỉ VIII đến thế kỉ V TCN,
đây là thời kỳ thứ ba trong lịch sử Hy Lạp cổ đại – thời kỳ xuất hiện xã hội
có giai cấp, nhà nước. Tại thời kỳ này chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng
trong xã hội Hy Lạp cổ. Chế độ thị tộc đã tan rã, 3 tầng lớp xã hội đã được
hình thành khá rõ nét: quý tộc, những người bình dân và những nơ lệ. Dĩ
nhiên, kéo theo sự thay đổi đó xuất hiện những mâu thuẫn giai cấp khơng thể
điều hịa được. Và đúng như nhận xét của Ph.Anghen, nhà nước ra đời
“không những bảo vệ những của cải của các tư nhân vừa mới có được khỏi
bị những truyền thống của chế độ thị tộc xâm phạm mà con kéo dài quyền
của giai cấp hữu sản bóc lột giai cấp khơng có của và quyền thống trị của
giai cấp hữu sản đối với giai cấp hữu sản khơng có của…” [5,424]. Một biến
chuyển biến nữa trong xã hội Hy Lạp thời kỳ này là phong trào tìm đất thực
dân của người Hy Lạp diễn ra ồ ạt từ thế kỷ VIII TCN. Chính trong thời gian
này, xuất hiện các Nhà nước thành bang đầu tiên của Hy Lạp. Đó là thành
bang Sparta, thành bang Athens đại diện cho chế độ dân chủ nổi tiếng ở Hy
Lạp cổ đại. Đến những năm 492 – 448, ở Hy Lạp các thành bang đã dành
chiến thắng trong cuộc chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư. Đây là một trong những
thắng lợi to lớn trong lịch sử Hy Lạp nói chung và của Athens nói riêng, đã
chứng tỏ rằng Athens đã bước vào phát triển cực thịnh, đạt tới đỉnh điểm của
chế độ chiếm nô ở khu vực Địa Trung Hải, điểm đỉnh của nền văn minh cổ
đại.
Thời kì thứ tư trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ thống trị của
Makedonia hay còn gọi thời kỳ này là thời kỳ Hy Lạp hóa xuất phát từ năm
334 đến 30 TCN. Đây cũng là thời kỳ Aristotle viết tác phẩm “Chính trị

luận”, cho nên chúng ta sẽ nghiên cứu sâu sắc hơn thời kỳ thứ tư này.
Makedonia là một vùng thuộc Nam Âu, tiếp giáp với phía Bắc Hy
Lạp. Một đặc điểm quan trọng của người Makedonia là khi các thành bang
Hy Lạp đã đạt tới thời kỳ phát triển huy hoàng của chế độ chiếm nơ thì
9

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


người Makedonie vẫn sống ở giai đoạn mạt kì của chế độ thị tộc (tương
đương với thời đại Homer của Hy Lạp), tuy vậy thì sự phát triển nhanh
chóng của người Makedonia lại là một tác nhân quan trọng làm thay đổi lịch
sử của người Hy Lạp. Alecxan I (495 – 450 TCN) được coi là người thiết lập
nên nhà nước của người Makedonia. Ackelut (419 -399 TCN) là người kế
tục hoàn thiện và củng cố nhà nước Makedonie. Nhưng, người đặt nền móng
cho sự cường thịnh của Makedonia để nước này trở thành một những quốc
gia có thế lực và hùng cường ở khu vực Bancang, đó là vị vua Philip II (359
-336 TCN) [21,186]. Chính vị vua này đã thực hành hàng loạt những cải
cách kinh tế, xã hội và quân sự, tạo nên một quốc gia Makedonia thống nhất,
giàu mạnh về kinh tế, hùng cường về quân sự, và có những chính sách đối
ngoại khơn khéo. Vua Philip II đã chuẩn bị cho việc thực hành chính sách
xâm lược, bành trướng. Chiều tà một ngày năm 388 TCN, vua Philip II đã
thống lĩnh đại quân, xâm nhập bán đảo Hy Lạp, tiến đánh vào thành Athens.
Tháng 8 năm 338 vua Philip II quyết định khống chế toàn bộ Hy Lạp, ông
định ra một loạt trận pháp mới, gọi là “thế trận Makedonia”. Nhưng do
Athens mâu thuẫn nội bộ xảy ra và chia rẽ cùng với sự vận động của phe
thân Makedonia, Athens đã phải quỳ gối trước Philip II. Từ đó Athens bị mất
tự do và độc lập. Năm sau, vua Philip II triệu tập hội nghị tồn Hy Lạp ở
Corinh, tun bố tự mình làm thống sối của qn đội Hy Lạp, qua đó xác
nhận địa vị lãnh đạo của Makedonia đối với các thành bang ở Hy Lạp. Năm

336 TCN, Philip II khi tham dự lễ cưới của con gái thì bị ám sát chết,
Alecxan lên nối ngơi năm đó mới 20 tuổi [2,127-128].
Vị vua nổi tiếng nhất lịch sử Hy Lạp cổ đại – vị vua Alexander. Ông là
con trai thân cận nhất của vua Philip II, được bổ nhiệm làm Phó thống sối
qn đội Makedonia khi ơng mới 18 tuổi. Cũng chính ơng đã giúp cha mình
thắng lợi trong cuộc chiến năm 338 TCN. Khi cha mất, ông lên ngôi năm
ông 20 tuổi, tun bố mình là Thống sối tối cao của liên quân Hy Lạp –
10

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Makedonia. Từ đó dã tâm xâm lược của Alexander ngày càng lớn. Mùa xuân
năm 334 TCN, Alexander thân chinh chỉ huy 35 000 quân và 160 chiến
thuyền, mở đầu cuộc viễn chinh sang Ba Tư phương Đông. Năm 337 TCN,
quân đội viễn chinh của Alexander đã chinh phục được Ba Tư, tiếp đó xâm
nhập Ấn Độ. Chính vị vua này đã chinh phục được Ba Tư rộng gấp 50 lần so
với đất nước Makedonia, tiêu diệt mấy chục vạn quân Ba Tư. Tiếp đó ơng
chinh phục Ai Cập, được tăng lữ Ai Cập tôn xưng là “Con của Thần Mặt
Trời”, rồi lại chiếm được thành Babilon nổi tiếng ở phương Đông, được vinh
phong là “Vua Babilon và vua của bốn phương vũ trụ”… Ngày 13 tháng 06
năm 324 TCN, ông đột ngột chết khi ông 33 tuổi, vương quốc Makedonia
trải dài trên Châu Á Âu, Phi tan rã từ đây [2,131-132]. Những người kế tục
Makedonia thực tế đã chia nhau hùng cứ các vùng. Cuối cùng đến thế kỷ thứ
III TCN, đế quốc Makedonia bị liệt thành nhiều quốc gia nhỏ, kết thúc thời
kỳ Makedonia ở Hy Lạp cổ đại.
Toàn bộ quá trình diễn biến lịch sử của thế giới cổ đại đặc biệt là giai
đoạn Makedonia xâm chiếm Hy Lạp đã làm cơ sở về lịch sử và những điều
kiện khách quan cho chúng ta nghiên cứu tác phẩm “Chính trị luận” của
Aristotle. Aristotle viết tác phẩm được viết vào năm 350 TCN, chính là thời

kỳ cực thịnh của người Makedonia ở Hy Lạp, dưới sự cai trị của vị vua
Philip II, đồng thời lại là thầy giáo dạy học cho vua Alexan, cho nên tác
phẩm cũng như cuộc đời của Aristotle có sự ảnh hưởng khơng nhỏ từ những
sự kiện lịch sử quan trọng này.
Tuy nhiên, tác phẩm ra đời không chỉ là những diễn biến lịch sử thời
kỳ mà Aristotle sống và viết tác phẩm này, nó còn chịu ảnh hưởng của rất
nhiều những điều kiện khác, như những tiền đề chính trị - văn hóa xã hội, cơ
sở lý luận và không thể không kể đến những tài năng của chính bản thân
Aristotle.

11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1.1.2 Những tiền đề chính trị - xã hội cho sự ra đời quan niệm về nhà
nước của Aristotle trong tác phẩm
Xét về mặt lịch sử, thời điểm Aristotle viết về nền chính trị Hy Lạp đã
xuất hiện nhiều chế độ chính trị, nhiều hình thức chính quyền, nhưng trực
tiếp nhất phải nói đến những nền chính trị, những chế độ mà bản thân
Aristotle chứng kiến và đánh giá những hình thức này, để từ đó ơng có
những quan niệm hồn thiện hơn về chế độ chính trị, những thể chế nhà
nước đúng và sai. Và để trình bày về chính trị một cách khoa học, Aristotle
đã mở một cuộc nghiên cứu rộng rãi về hiến pháp của 158 đô thị Hy Lạp
cũng như “man rợ” [25,265]. Trong số những chế độ chính trị mà Aristotle
“tai nghe mắt thấy” có thể kể đến những hình thức nhà nước như các chế độ
dân chủ nổi tiếng ở hai thành Sparta và Athens ở Hy Lạp. Ngồi ra, Aristotle
cịn nghiên cứu, khảo sát chế độ chính trị ở các thành bang khác như Crete,
Carthaga
Trước hết, là chế độ chính trị ở Sparta. Sparta là một thành bang Hy

Lạp được xây dựng sớm nhất trong lịch sử Hy Lạp (ngay từ thế kỷ IX TCN).
Nằm ngay đồng bằng Laconi, thành bang Sparta có lợi thế phát triển kinh tế
nông nghiệp và chăn nuôi. Thành bang Sparta có 3 tập đồn người cùng sinh
sống nhưng quyền lợi và nghĩa vụ hoàn toàn khác nhau. Người Sparta –
Đorien chiến thắng là giai cấp cầm quyền. Họ không tham gia sản xuất mà
sống bằng sự nô dịch, bóc lột sức lao động của người Periet và nơ lệ Hilot.
Người Sparta chỉ có chức năng cai trị và tham gia vào quân sự để xâm lược
hoặc bảo vệ đất nước. Chính vì vậy Sparta chế độ tư hữu khơng tồn tại, tồn
bộ tài sản và ruộng đất cũng như nô lệ đều là những sở hữu chung của cư dân
Sparta. Cịn hai giai cấp cịn lại có nghĩa vụ phải nộp thuế để nuôi người
Sparta, họ không có quyền về chính trị và khơng được phép kết hôn với
người Đorien. Do vậy, ngay từ đầu mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị và 2
tầng lớp kia đã xuất hiện và ngày càng sâu sắc [21,169].
12

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Đánh giá về chế độ chính trị ở Sparta, trong Quyển II tác phẩm “Chính
trị luận” của Aristotle, ơng đã phân tích và đánh giá rất rõ nét về thành bang
này.
Trước hết, đánh giá về nông nô Sparta, ông nhận định “Những nông
nô xứ Thessaly vẫn thường nổi dậy chống lại chủ nhân, và những nông nô xứ
Lacedaemon cũng thường nổi dậy chống lại chủ nhân, vì hồn cảnh khốn
khổ của họ khiến cho họ luôn chờ cơ hội để nổi dậy” [1,122].
Aristotle chỉ ra hạn chế chính trị cũng bắt nguồn từ vai trò của phụ nữ
trong xã hội, chính phụ nữ làm hỏng đi chế độ chính trị. Ông viết: “Ngoài
ra, phụ nữ Sparta lại được sống một cách phóng túng; điều này làm hỏng ý
định của hiến pháp Sparta và đi ngược lại với hạnh phúc của quốc gia. Bởi
vì chồng và vợ, mỗi người là một phần gia đình, cho nên quốc gia được

chia đều làm hai phần: đàn ơng và đàn bà. Vì vậy, tại một nhà nước mà phụ
nữ sống bng thả, phóng túng, thì một nửa phải coi như là chẳng có pháp
luật gì hết. Và đó chính là điều đã thực sự xảy ra tại Sparta; các nhà lập
pháp muốn cả nước trở nên mạnh mẽ và điều độ nên đã áp dụng các luật lệ
đó trên đàn ơng nhưng lại qn không chú ý đến phụ nữ, để mặc họ sống xa
hoa và phóng túng” [1,123]. “Chính sự phóng túng đó của phụ nữ đã hồn
tồn vơ dụng trong việc ngăn giặc và còn tạo nhiều rối rắm hơn là tấn công
quân địch” [1,124].
Đối với chế độ tư hữu, người Sparta có sự bất bình đẳng tài sản.
“Trong lúc một số người có rất ít tài sản, thì những người khác lại có rất
nhiều, như thế điền sản đã chuyển sang tay của một số thiểu số”. Sự kiện
này, theo Aristotle đánh giá “là kết quả trực tiếp của những luật lệ sai lầm,
vì mặc dù nhà lập pháp đã nêu rõ là việc buôn bán tài sản gia truyền là điều
xấu xa, đáng khinh bỉ, nhưng mặt khác lại cho phép người dân được quyền
cho tài sản để di chúc cho người khác. Cả hai cách này đều dẫn đến cùng
một kết quả là có đến hai phần năm điền sản của Sparta thuộc quyền sở hữu
13

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


của phụ nữ. Lý do là vì phong tục cho phụ nữ được thừa hưởng tài sản và
nhận hồi môn kếch xù. Cho nên, mặc dù Sparta có khả năng duy trì 1500 kỵ
binh và 30 ngàn bộ binh, nhưng tổng số dân của Sparta đã xuống dưới mức
1000 người. Kết quả này chứng minh là luật pháp của Sparta nhiều lầm lỗi,
và chỉ cần thua một trận thơi thì cũng đủ tiêu vong vì thiếu lính”[1,126].
Cơ cấu chính trị của Sparta cịn một khuyết điểm nữa, theo Aristotle,
đó chính là ở cơ quan Giám sát viện. “Đây là một cơ quan có quyền lực cao
nhất, nhưng Giám sát viên lại do toàn dân bầu ra, cho nên các chức vụ này
dễ rơi vào tay những người nghèo túng và những người nghèo thì lại dễ bị

hối lộ. Giám sát viện có quyền lực q lớn và độc đốn đến nỗi các vị vua
cịn phải tìm cách lấy lịng họ. Kết quả là quyền lực của hai cơ cấu này khiến
cho cơ cấu chính trị bị suy đồi từ chế độ quý tộc biến sang dân chủ” [1,126].
Hội đồng trưởng lão cũng tồn tại hạn chế. Theo Aristotle, “mặc dù
trưởng lão là những người có tài năng và được huấn luyện kỹ kàng về đức
tính nam nhi, về điều này là có lợi cho quốc gia. Nhưng quy luật cho
những trưởng lão này tại chức cho đến mãn đời là một điều cần phải bàn
lại, vì trí óc cũng già theo thể chất. Và khi mà ngay cả nhà lập pháp cũng
không thể tin được phương thức mà những trưởng lão đã được huấn luyện,
thì đó là điều nguy hiểm” [1,128]. Hơn nữa, cách bầu cử trưởng lão cũng
ấu trĩ vì theo luật hiện hành là những ai muốn được bầu cử thì phải ra ứng
cử, trong khi những người thực sự tài đức phải được bổ nhiệm, dù có muốn
làm hay không”.
Điều mà Platon phê phán nhà lập pháp trong tác phẩm “Luật pháp”
theo Aristotle cũng là sự phê phán chính đáng. “Tồn bộ cơ cấu chính trị của
Sparta chỉ xiển dương một đức tính duy nhất; đó là đức tính của quân nhân –
đức tính cần thiết để chiến thắng trong chiến tranh. Khi chiến tranh tiếp diễn,
đức tính này giúp duy trì sức mạnh, nhưng khi đã tạo nên được đế quốc rồi,
thì lại thất bại trong hịa bình vì khơng biết làm gì hết vì cả cuộc đời chỉ được
14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


huấn luyện để đánh nhau. Còn một lầm lỗi nữa cũng khơng kém; đó là, dù họ
nhận thức đúng đắn là những điều tốt đẹp mà người ta mong muốn, như là
hạnh phúc, danh vọng, hay những điều tương tự, chỉ đạt được những điều
thiện và đức hạnh, nhưng họ lại lầm lẫn rằng những điều tốt đẹp mà họ mong
muốn đó lại là những điều cao cả hơn đức hạnh.
Thêm một điểm nữa: tiền thuế thu được nhà nước đã bị quản trị q

tồi. Ngân khố khơng cịn tiền bạc vì nhà nước phải lo chiến phí, nhưng người
dân lại khơng muốn đóng thuế. Tiền thuế đóng cho nhà nước là thuế đánh
trên điền sản, và dù đa số công dân Sparta là chủ điền, họ chẳng buồn quan
tâm xem những người khác đóng thuế như thế nào. Kết quả mà nhà lập pháp
định làm đã bị đảo ngược lại: làm cho nhà nước nghèo đi và người dân thêm
tham lam.” [1,131].
Tóm lại, Sparta là một thành bang Hy Lạp lạc hậu về kinh tế, bảo thủ
và phản động về chính trị, một nhà nước quân phiệt. Sparta là dinh lũy của
các thế lực bảo thủ, kìm hãm xu hướng dân chủ của các thành bang Hy Lạp,
là nơi tập kết, điểm cư trú chính trị của các chính khách Athens chủ trương
duy trì nền chính trị bảo thủ, kẻ thù của dân chủ Athens.
Thành bang Athens
Ngược lại với thành bang Sparta, thành bang Athens lại nổi tiếng với
nền dân chủ cổ đại Hy Lạp. Giai cấp thống trị ở Athens có 2 bộ phận: q
tộc chủ nơ ruộng đất và quý tộc chủ nô công thương. Quý tộc chủ nơ ruộng
đất chủ trương thiết lập nền chun chính theo thể chế cộng hòa quý tộc,
ngược lại quý tộc chủ nô công thương lại chủ trương xây dựng bộ máy nhà
nước theo thiết chế dân chủ, chủ nô. Sự đối lập và xung đột giữa hai chủ
trương này đã diễn ra ngày càng quyết liệt. Nhưng xu hướng dân chủ ngày
càng thắng thế xu hướng bảo thủ của quý tộc chủ nô ruộng đất, nhờ vậy nền
dân chủ chủ nơ Athens được củng cố, hồn thiện và đạt tới đỉnh cao nhất của
nó, thành niềm tin vĩnh cửu của nhân loại [21,170].
15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Ở Athens, người ta đã tước bỏ quyền lực của Hội đồng trưởng lão –
một tổ chức phản dân chủ, thay vào đó quyền Lập pháp được trao cho Đại
hội nhân dân, quyền hành pháp trao cho Hội đồng 500 người và quyền tư

pháp trả về cho cơ quan tư pháp – tòa án nhân dân. Họ đã đưa trách nhiệm
soạn luật của các nhà lập pháp trước nhà nước về nội dung và những hậu quả
của những dự luật mà họ soạn thảo. Chính những điều này đã ngăn chặn
được những mưu đồ phá hoại nền dân chủ của người Athens. Tiếp đến, họ
quyết định cứ 10 ngày Đại hội nhân dân phải họp một lần. Cuộc họp được
báo trước 5 ngày, khi có tình hình khẩn cấp hoặc hội nghị quan trọng thì cử
truyền lệnh viên đi kêu gọi trên đường phố hoặc đốt một cột khói ở chợ làm
hiệu. Theo quy định của thành bang Athens, công dân đủ 20 tuổi, không
phân biệt tài sản và thân phận, trong Đại hội cơng dân đều có quyền bầu cử.
Nhưng trên thực tế, chưa tới 1 phần 10 cư dân ở Athens được hưởng quyền
cơng dân này, vì người ngoại bang và tất cả phụ nữ đều không được tham dự
Đại hội cơng dân, nơ lệ càng khơng nói tới chuyện đó. Nơ lệ đi theo chủ thì
đứng ở ngồi cửa chờ chủ nhân của mình. Nơng dân và thợ thủ cơng tuy có
quyền bầu cử nhưng họ khơng thể thường xuyên tham dự đại hội, vì họp một
ngày có nghĩa là tước đoạt thu nhập một ngày của họ, cho nên mỗi lần Đại
hội công dân chưa tới 1 phần 10 tham dự. Hội trường khơng có ghế ngồi,
mọi người đều xuống đất, nhưng nhờ sườn núi dốc nghiêng nên người ngồi
đằng sau vẫn có thể nhìn rõ mọi thứ trên sân khấu. Chủ tịch Đại hội hô to tên
người ứng cử, các công dân giơ tay biểu quyết, thư ký ghi lại. Ai được đa số
phiếu thì trúng cử. Tướng quân và thống soái bộ binh, kỵ binh nắm quân đội
có quan hệ tới vận mệnh nước nhà cho nên nhất thiết cần Đại hội bầu chọn.
Tư khố viên là người nắm chìa khóa kho tàng nhà nước, một ngành quan
trọng nên cũng cần Đại hội bầu chọn. Các quan lại khác, bao gồm 9 chấp
chính quan, 500 đại biểu Hội đồng nhân dân, thẩm phán, 11 quan coi ngục,
10 thị chính quan 10 quan coi chợ, đều dùng cách bốc thăm để quyết định.
16

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



Hai tháng sau, các quan chức đương nhiệm sẽ bàn giao, các quan chức mới
sẽ nhận nhiệm vụ và điều hành cơng việc. Đó là việc bầu cử Đại hội cơng
dân tổ chức tại Athens [2,92].
Tịa án nhân dân của Athens với 6000 thẩm phán sẽ khơng có cơng tố
viên chuyên nghiệp để toàn thể những ai tham dự phiên tịa đều có quyền
cơng khai hết tội hoặc bào chữa cho bị can.
Ngồi ra, họ cịn thực hiện hàng loạt những chính sách tiến bộ khác:
trả lương cho các viên chức, nhà nước thực hiện thường xuyên và rộng rãi
các phúc lợi xã hội đối với những công dân gặp khó khăn… chính những
chính sách đó đã khiến Athens thành một thành bang phát triển nhất về kinh
tế, có một thể chế nhà nước tiến bộ nhất. Nền dân chủ chủ nơ đạt tới mức
hồn hảo nhất, đỉnh cao của văn minh cổ đại, cội nguồn của văn minh châu
Âu, niềm tự hào và kinh nghiệm của nhân loại.
Tuy nhiên, nền dân chủ Athens mặc dù là đỉnh cao của nền dân chủ cổ
đại, nhưng đó chỉ là nền dân chủ của giai cấp chủ nơ, nền chun chính của
giai cấp thống trị: do vậy nhà nước Athens vẫn còn nhiều hạn chế. Trước hết,
nhà nước dân chủ Athens được thiết lập, tồn tại và phát triển trên nền sức lao
động của đông đảo nô lệ và kiều dân Metec. Theo Ph.Anghen thì số lượng nơ
lệ và kiều dân ở Athens là 365.000 nô lệ và 45.000 kiều dân trên 90.000 dân
tự do [24,184]. Thứ hai, không phải ai cũng được tham dự Đại hội công dân,
phải đủ 3 tiêu chuẩn (nam giới, 18 tuổi và cha mẹ đều là dân Athen). Thứ ba,
việc bầu cử chỉ diễn ra ở Athens và vùng xung quanh, do vậy nền dân chủ
Athens vốn dĩ đã là nền dân chủ của một thiểu số trong đám cư dân Athens,
lại càng trở nên thiểu số hơn nữa.
Ngoài thành bang Sparta và Athens ra, Aristotle cịn khảo sát các chế
độ chính trị khác của Hy Lạp cổ đại khác như Crete, Carthage.
Chế độ chính trị Crete

17


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Đối với chế độ Crete, Aristotle nhận thấy “Cơ cấu chính trị của Crete
cũng gần giống như của Sparta, và ở một vài điểm cũng tốt bằng Sparta,
nhưng phần lớn thì kém hơn về phần hình thức” [1,131]. Có nhiều điểm
tương đồng giữa hiến pháp của Crete và Sparta. Nếu Sparta có những nơng
nơ gọi là helots, thì Crete có những nơng nơ Perioeci. Dân cả hai xứ đều có
những bữa ăn chung, cả hai hiến pháp đều có cơ cấu Giám sát viện. Điều
khác nhau duy nhất là có 5 giám sát viên ở Sparta, và 10 người ở Crete.
Nguyên lão thương viện cũng tương tự như nhau, người Crete gọi là hội
đồng nguyên lão. Trước kia Crete cũng có quân chủ, nhưng sau này bị bãi bỏ
và cơ cấu Cosmi kiêm thêm nhiệm vụ lãnh đạo trong chiến tranh. Người dân
cũng có quyền tham dự quốc dân đại hội (gần giống như dân Sparta), nhưng
chỉ là để phê chuẩn các quyết định của hội đồng trưởng lão và Giám sát viện
Cosmi. Nhưng về khía cạnh khác, định chế giám sát viện Cosmi của Crete lại
tệ hại hơn Giám sát viện của Sparta, nếu như ở Sparta mọi người dân đều có
quyền bầu cử ra Giám sát viên thì ở Crete chỉ có một số gia đình được bầu ra
thành viên của cơ quan này mà thôi. Hội đồng trưởng lão của cả hai đều giữ
chức vụ trọn đời và không bị chế tài cộng với quyền được tùy nghi xét xử
theo ý riêng và không cần đếm xỉa gì đến văn bản luật lệ là điều nguy hiểm
của cả hai chế độ này. Tuy nhiên, các giám sát viên thường bị những người
đồng viện hoặc dân thường âm mưu trục xuất ra khỏi Giám sát viện và được
phép từ chức trước khi mãn nhiệm. Tệ hại hơn là việc cho phép Giám sát
viên bị đình chỉ cơng tác, một phương thức mà các nhà quý tộc thường sử
dụng khi không chịu tuân phục theo quyết định của công lý. “Điều này cho
thấy chính quyền Crete dù có những đặc tính của một nhà nước theo hiến
pháp, thực ra là một chế độ quả đầu” [1,135].
Chế độ chính trị Carthage
Carthage là một thị quốc nằm trên bờ biển Bắc Phi, nay thuộc Tunisia.

Carthage theo truyền thuyết La Mã được nữ hoàng Dido thành lập năm 814
18

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


TCN. Vì nằm giữa vùng tranh chấp của đế quốc Syracuse( nay thuộc Sicilia)
và La Mã. Carthage nhiều lần bị xâm chiếm và cuối cùng bị người La Mã
tiêu diệt vào năm 146 TCN.
Theo Aristotle, chế độ của người Carthage là “một chế độ chính trị
tuyệt hảo, khác hẳn với các nước khác về nhiều phương diện, dù trên vài
phương diện lại rất giống Spart” [1,136]. Chứng minh cho điều này, ông đã
lấy việc người Carthage luôn trung thành với hiến pháp và người Carthage
chưa bao giờ có cuộc nổi loạn đáng kể nào, và chưa hề bị cai trị bởi một bạo
chúa nào.
Khác với chế độ Sparta, Giám sát viên của người Carthage được lựa
chọn theo tài năng. Người Carthage cũng có vua và hội đồng trưởng lão
nhưng vua của Carthage khơng giống vua của Sparta theo hình thức cha
truyền con nối mà vua của người Carthage có thể được bầu ra từ bất kỳ một
gia đình nào nổi trội trong giai đoạn đó và theo tài năng chứ không cần theo
tuổi tác, đây là điều hơn hẳn so với chế độ Sparta.
Tuy nhiên, chế độ này cũng có những hạn chế. Mặc dù hiến pháp được
xây dựng theo hình thức q tộc, nhưng khi thì chính quyền đi lệch sang chế
độ dân chủ, khi khác lại đi sang chế độ quả đầu. Hơn nữa, hiến pháp
Carthage còn một khuyết điểm nữa đó là việc để cho một người giữ nhiều
chức vụ trong cùng một lúc.
Như vậy, để đánh giá và phân tích những hình thức chính trị nhằm đưa
ra những quan niệm về chế độ chính trị đúng đắn và thích hợp nhất, Aristotle
đã phải dựa vào những chế độ có thực tế đã xuất hiện ở các thành bang Hy
Lạp. Điều này làm cho những nhận định của Aristotle thêm phần khách

quan, chính xác và khoa học hơn. Trên nền tảng những chế độ chính trị đã
có, ông đã xây dựng cho mình về mô hình nhà nước lý tưởng, đó là cơ sở
chính trị - xã hội để Aristotle viết tác phẩm này

19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1.1.3 Điều kiện văn hóa – xã hội của quan niệm về nhà nước trong tác
phẩm
Tác phẩm của Aristotle không thể khơng nói đến những ảnh hưởng
của nền văn hóa cổ đại Hy Lạp vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Aristotle đã kế
thừa những thành tựu nổi bật của người Hy Lạp cổ đại, đặc biệt trong các
lĩnh vực văn học nghệ thuật, lịch sử, hội họa, các khoa học tự nhiên và cả
triết học nữa. Tất cả các lĩnh vực này Aristotle đều có sự kế thừa và được
ơng trình bày, vận dụng sáng tạo trong tác phẩm, làm cơ sở cho những nhận
định của mình.
Văn học của Hy Lạp đã đạt đến đỉnh cao, Aristotle đã nghiên cứu và
thể hiện sự hiểu biết về văn học cổ Hy Lạp của mình thơng qua việc vận
dụng hàng loạt các hình thức văn học như thần thoại, thơ ca, ca kịch, đặc biệt
là trường ca Homer.
Thứ nhất, là thần thoại cổ Hy Lạp. Thần thoại là một trong những hình
thức văn học xuất hiện sớm nhất ở Hy Lạp. Đây là tập hợp những truyện kể
dân gian truyền miệng với những nội dung hoang đường, huyễn hoặc kỳ ảo,
gồm những truyện về sự sáng tạo thế giới, các đấng thần linh và các anh
hùng dũng sỹ Hy Lạp… Thần thoại thường phản ánh nguyện vọng của nhân
dân trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, giải thích các hiện tượng tự nhiên,
phản ánh cuộc sống lao động và những hoạt động đời thường của người Hy
Lạp. Chính vì vậy, sau này Chủ nghĩa Mác – Lenin đã nhận định “Thần thoại

là miếng đất màu mỡ nuôi dưỡng nghệ thuật Hy Lạp… tiền đề … vật liệu
của nghệ thuật Hy Lạp” [5,630]. Chính trong tác phẩm Aristotle cũng đã
trích dẫn những câu truyện thần thoại Hy Lạp cổ này. Chẳng hạn, khi nói về
sự giầu có và nghệ thuật tích lũy tài sản, ơng đã trích dẫn câu truyện thần
thoại về vị vua Midas muốn biến tất cả những thứ ngài cầm thành vàng
[1,68] vị vua này đã cầu xin các vị thần giúp cho những ước muốn đó thành
hiện thực, thế nhưng khi đụng đến đồ ăn chúng cũng biến thành vàng khối,
20

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×