Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tìm hiểu thành tựu trong lĩnh vực Đối ngoại của Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới Đất nước (1986 – 2021)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.65 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN- DU LỊCH

------

BÀI THẢO LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU THÀNH TỰU TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI
CỦA VIỆT NAM TRONG HƠN 30 NĂM ĐỔI MỚI
ĐẤT NƯỚC (1986-2021)

Nhóm:
3
Giảng viên hướng dẫn:
Lớp học phần:
2260HCMI0131


1

Hà Nội - 2022
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN...................................................................................3
1.1. Đường lối đối ngoại là gì?.................................................................................3
1.2. Vai trị của đường lối đối ngoại.........................................................................3
1.3. Quan điểm đường lối đối ngoại của Việt Nam:...............................................4
1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối...................................5


1.3.2. Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối............................................8
1.3.3. Quan điểm đường lối đối ngoại hội nhập quốc tế:......................................10
1.4. Các yếu tố tác động đến đường lối đối ngoại Việt Nam:...............................11
CHƯƠNG 2: THÀNH TỰU TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM
TRONG HƠN 30 NĂM ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC (1986 – 2021).................................14
2.1. Thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1986 – 1996...14
2.2. Thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2021. . .15
2.2.1.

Giai đoạn 1996-2010: Mở rộng quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế......15

2.2.2. Giai đoạn 2011-nay: Đưa quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế
toàn diện...............................................................................................................16
2.2.3.

Các thành tựu và bài học đối ngoại.........................................................17

2.2.4.

Công tác đối ngoại giai đoạn tới.............................................................18

CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN CHUNG............................................................................19
3.1. Ý nghĩa.............................................................................................................19
3.2. Nguyên nhân....................................................................................................22
3.3. Kiến nghị giải pháp.........................................................................................23


2

LỜI MỞ ĐẦU

Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và đạt được những thành
tựu to lớn. Với hơn 30 năm đổi mới ở Việt Nam là giai đoạn lịch sử quan trọng đánh
dấu sự trưởng thành mọi mặt về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp
đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện
và triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo
thực hiện thành công. Việt Nam đã đạt được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước
đang phát triển, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an ninh được
tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước
được nâng lên. Bên cạnh việc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống
chính trị được củng cố; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ
xã hội chủ nghĩa được giữ vững thì quan hệ đối ngoại nước ta cũng ngày càng mở rộng
và đi vào chiều sâu giúp nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Một trong những thành tự mà ta có quyền tự hào là thành tựu về lĩnh vực đối
ngoại của Việt Nam trong hơn 30 năm qua. Nhờ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và phát huy truyền thống, bản sắc ngoại giao
hịa hiếu, giàu tính nhân văn của dân tộc mà đường lối đối ngoại của Đảng ta ln
được phát triển và hồn thiện qua từng giai đoạn. Và để làm sáng tỏ hơn về đường lối
Đối ngoại của Đảng ta, nhóm 3 xin trình bày thông qua nội dung bài thảo luận với đề
tài “ Tìm hiểu thành tựu trong lĩnh vực Đối ngoại của Việt Nam trong hơn 30 năm đổi
mới Đất nước (1986 – 2021)”.


3


4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Đường lối đối ngoại là gì?
Đường lối đối ngoại của một quốc gia, hay cịn gọi là chính sách ngoại giao, bao
gồm các chiến lược do nhà nước lựa chọn để bảo vệ lợi ích của quốc gia mình và đạt
được các mục tiêu trong môi trường quan hệ quốc tế. Các phương pháp được sử dụng
một cách chiến lược để tương tác với các quốc gia khác.
1.2. Vai trò của đường lối đối ngoại
Đối ngoại đảng là hình thức đối ngoại sớm nhất của cách mạng nước ta. Từ năm
1919, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tham gia Đảng Xã hội Pháp: “Chỉ vì đây là tổ chức
duy nhất ở Pháp bênh vực nước tơi” và một năm sau đó, tại Đại hội XVIII của Đảng
Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) vì
như Người nói: “Quốc tế III rất chú ý đến giải phóng thuộc địa”. Những sự kiện đó
đánh dấu những hoạt động đối ngoại quan trọng đầu tiên của đối ngoại đảng trong thời
đại Hồ Chí Minh. Ở từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam,
công tác đối ngoại đảng ln có một vị trí, vai trị đặc biệt và có những đóng góp quan
trọng, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chiến lược của sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Đảng ta đã có nhiều văn bản quan trọng nhằm đề ra định hướng và các biện
pháp cụ thể liên quan đến công tác đối ngoại đảng.
Ngày 18-2-2019, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW, “Về tăng cường và
nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại đảng trong tình hình mới”, là dấu mốc quan trọng
thể hiện sự phát triển về tư duy, lý luận, khẳng định vai trò quan trọng của đối ngoại
đảng. Chỉ thị nhấn mạnh, “tăng cường đối ngoại Đảng là định hướng chiến lược đối
ngoại quan trọng hàng đầu” và “là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó lực
lượng làm cơng tác đối ngoại là nịng cốt”; đề ra nhiệm vụ mở rộng và đưa các mối
quan hệ đối ngoại Đảng đi vào chiều sâu, tạo nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ
song phương, tranh thủ sự ủng hộ và tạo thêm sự hỗ trợ về mặt chính trị cho quan hệ
nhà nước cũng như đối ngoại nhân dân...
Trong tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ, đối ngoại phải giữ vai trị
tiên phong trong tạo dựng và gìn giữ mơi trường hịa bình, ổn định, huy động các
nguồn lực bên ngồi để phát triển, nâng cao uy tín, vị thế của đất nước. Đây khơng chỉ

là nhận thức mới, mà cịn là yêu cầu cao hơn đối với đối ngoại nói chung và đối ngoại
đảng nói riêng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Tại Hội nghị Đối ngoại
toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII lần đầu tiên được Trung ương


5

Đảng tổ chức (tháng 12-2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo đối ngoại
đảng cùng với ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân cần triển khai sáng tạo, hiệu
quả các hoạt động đối ngoại, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt về phương
pháp, sách lược, xong cần vượt ra khỏi khuôn khổ những tư duy cũ, những lĩnh vực
quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và
quốc tế.
Nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí và nhiệm vụ trong giai đoạn mới của đất nước,
bám sát tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chỉ thị số 32-CT/TW, ngày 182-2019, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại
đảng trong tình hình mới”, cơng tác đối ngoại đảng năm 2021 đã được triển khai tích
cực, chủ động có trọng tâm, trọng điểm, đạt được những kết quả quan trọng, đóng góp
vào thành tựu chung của công tác đối ngoại nước nhà.
1.3. Quan điểm đường lối đối ngoại của Việt Nam:
Trong thời kỳ đổi mới, đối ngoại luôn thực hiện nhiệm vụ bao trùm và thường
xun là giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi
cho công cuộc đổi mới và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước. Nhiệm vụ này
được nhận thức ngày càng sâu sắc qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng. Nghị quyết 13 Bộ
Chính trị khóa VI (năm 1988) khởi đầu quá trình đổi mới tư duy và đường lối đối
ngoại, đề ra nhiệm vụ tranh thủ ủng hộ quốc tế và xu thế quốc tế hóa để phát triển đất
nước. Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng khẳng định rõ nhiệm vụ của đối ngoại gồm
ba thành tố an ninh, phát triển và vị thế đất nước.
Từ chủ trương "thêm bạn, bớt thù", Đảng đã phát triển thành hệ thống quan điểm,
phương châm chỉ đạo xuyên suốt đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới là nhất quán
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát

triển; đa phương hóa, đa dạng hóa; "là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế"; nắm vững hai mặt đối tác - đối tượng, vừa hợp tác, vừa
đấu tranh; kiên định nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, nhưng linh hoạt, khôn khéo về
sách lược, "dĩ bất biến, ứng vạn biến"... Cơ chế thực hiện đối ngoại là phối hợp chặt
chẽ, nhịp nhàng giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân dưới
sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lý tập trung của Nhà nước.
Với nhận thức Việt Nam là một bộ phận của thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế (Đại
hội IX) được triển khai mạnh mẽ, sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khác và hình
thành chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế (Đại hội XI). Chủ trương này là
định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sự nghiệp của tồn dân
và cả hệ thống chính trị. Nhận thức về quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc


6

tế ngày càng sâu sắc, trong đó nhất quán kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, nội lực là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng.
1.3.1. Hồn cảnh lịch sử và q trình hình thành đường lối.
a. Tình hình thế giới từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX.
Đầu thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX, trước những sự kiện, những nhân tố chính
trị, kinh tế, xã hội diễn ra với nhịp độ dồn dập, tính chất phức tạp và với một quy mô
to lớn chưa từng thấy, tất cả đang đặt ra yêu cầu bức thiết là cần phải có sự phát triển,
bổ sung lí luận cho phù hợp mà trước tiên phải có cách nhìn mới, nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội. Đây chính là cơ sở khách quan của đường lối đổi mới, cải cách mà
nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tiến hành, trong đó có Việt Nam.
Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại là sự phát triển "kiểu dòng thác"
chưa từng có trong lịch sử lồi người đó chính là thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ được tiến hành từ giữa thế kỉ
XX đã tạo ra những lực lượng sản xuất to lớn và mới về chất, góp phần thúc đẩy nhiều
q trình hiện đại của xã hội lồi người như: cấu trúc lại các nền kinh tế, thay đổi,

chuyển hướng các kết cấu hạ tầng của sản xuất, tăng cường xu thế tồn cầu hóa trên
nhiều lĩnh vực quan trọng của các quốc gia, ảnh hưởng to lớn đến các thiết chế xã hội,
đến văn hóa, lối sống các dân tộc … Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã
đẩy nhanh q trình quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống kinh tế thế giới. Các quốc gia
lần lượt bị cuốn hút vào quá trình phân cơng lao động, hợp tác hóa quốc tế và thị
trường thế giới…
Sau hơn 70 năm tồn tại, đến cuối thập niên 80 của thế kỉ XX, toàn bộ hệ thống xã
hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc. Đứng trước sự thủ thách,
nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã tìm cách thốt ra khỏi cuộc khủng hoảng bằng nhiều
cách khác nhau. Trước hết, phải kể đến công cuộc “cải cách, mở cửa” với những thành
tựu rõ rệt của Trung Quốc - một nước xã hội chủ nghĩa láng giềng và cuộc “cải tổ” ở
Liên Xô - một cường quốc xã hội chủ nghĩa đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới với những diễn biến phức tạp, đầy sóng gió.
Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế theo hướng thị trường mở cửa từ năm 1978.
Những thành tựu của Trung Quốc đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nước trong
đó có Việt Nam. Tiếp đó, cơng cuộc cải tổ khơng thành cơng dẫn tới sụp đổ chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là bài học phản diện cho Việt Nam những kinh nghiệm
không thể cải tổ theo kiểu “phủ định sạch trơn”, giải quyết không biện chứng mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị.


7

Bên cạnh đó, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, thế giới đang đứng trước những vấn
đề toàn cầu và việc giải quyết những vấn đề đó địi hỏi phải có sự nỗ lực chung của
tồn nhân loại, ở các quốc gia với những chế độ chính trị khác nhau. Đó là vấn đề bảo
vệ hịa bình, chống chiến tranh hạt nhân hủy diệt, đó là vấn đề bảo vệ tài ngun thiên
nhiên mơi trường, phịng chống bệnh hiểm nghèo, vấn đề bùng nổ dân số, sự nghèo
đói...Trước tình hình đó, mỗi quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn con đường phát
triển của mình khơng thể khơng quan tâm đến những vấn đề chung, vì "giải quyết

những vấn đề đó chính là điểm hội tụ, nơi gặp gỡ của các dân tộc vì số phận và tương
lai của chính mình cũng như của tồn nhân loại".
Xu thế chạy đua vũ trang được thay thế bằng chạy đua phát triển kinh tế, các nước
đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế, tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ mọi nguồn
lực phát triển đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã
nhận định: “Hịa bình hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn
biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn
giáo, sắc tộc, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật
đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội
phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thơng, sinh
học, mơi trường … cịn tiếp tục gia tăng.”
Cũng trong thời gian này, thành công của các nước công nghiệp mới (NIC) như
Singapore ở Đông Nam Á đã đưa ra những gợi ý hết sức quan trọng về cách thức và
giải pháp phát triển đối với những nước xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp và có
kiểu quan hệ xã hội, văn hóa Phương Đơng. Động lực để phát triển của các nước này
là phát huy nội lực, huy động mọi tiềm năng của đất nước, thực hiện cơ chế thị trường,
mở cửa, hướng vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương lúc này là khu vực tương đối ổn định, có nhiều tiềm lực lớn và năng động
về phát triển kinh tế, tuy tồn tại những bất ổn như tranh chấp lãnh thổ, biển đảo nhưng
hịa bình và hợp tác trong khu vực vẫn là xu thế chung.
b. Tình hình trong nước.
Khác với quan điểm của các Đảng Cộng sản ở các nước Đông Âu và Liên Xô, thái
độ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đánh giá tình hình là “nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Tuy nhiên, do tính phức tạp và nhạy cảm
của vấn đề, nên khi rút ra những kết luận về thực trạng đất nước, Đảng đã rất thận
trọng, chắc chắn, không phiến diện, cực đoan, khơng nóng vội, hồ đồ, dẫn đến thổi
phồng, tuyệt đối hóa một mặt, một khía cạnh nào đó. Bởi vậy, tại Đại hội VI (năm
1986), một mặt, Đảng đã đánh giá đúng mức những thành tựu đạt được trong công



8

cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975 - 1986), trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ an ninh chính trị và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, cho rằng những thành tựu đó
“đã tạo cho sự nghiệp cách mạng nước ta những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên”; mặt
khác, Đảng đã chú trọng kiểm điểm những mặt yếu kém, chỉ rõ những biểu hiện và
nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế - xã hội, dù lúc đó cụm từ “khủng hoảng kinh tế
- xã hội” chưa được sử dụng chính thức trong văn kiện Đại hội.
Đảng cũng nhận thức sâu sắc rằng, khơng có sai lầm nào đáng sợ bằng sai lầm
khơng dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật như chỉ huấn của Bác Hồ, một
Đảng mà không dám nhận khuyết điểm, sai lầm của mình là một Đảng hỏng. Bởi vậy,
một trong những thành công của Đảng tại Đại hội VI là đã dũng cảm, thẳng thắn thừa
nhận sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động của Đảng và Nhà nước. Đó là những sai
lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc
biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan... Đó là tư tưởng tiểu
tư sản vừa “tả” khuynh vừa “hữu” khuynh. Những sai lầm và khuyết điểm đó bắt
nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ.
Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Những lời tự phê bình nghiêm khắc của
Đảng tại Đại hội VI không chỉ là sự quán triệt và thực hiện nghiêm túc những lời dạy
của V.I. Lê-nin, Hồ Chí Minh đối với Đảng Cộng sản khi phạm phải sai lầm, khuyết
điểm, mà cịn góp phần quan trọng trong việc tạo dựng niềm tin của quần chúng nhân
dân đối với Đảng trước biến động phức tạp của thời cuộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã tiến hành công cuộc Đổi mới từ năm
1986 mà chủ trương đột phá đầu tiên là xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, thực hiện
chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Là một quốc gia mà tiềm
lực kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách khai
mở trong nông nghiệp, đồng thời vạch định xu thế phát triển cho các thành phần kinh

tế, cho các hoạt động khoa học và cơng nghệ, giáo dục và văn hóa. Kết quả là, chỉ sau
một thời gian ngắn, từ chỗ thiếu lương thực, ln phải đương đầu với nạn đói, Việt
Nam đã có thể giải quyết căn bản vấn đề lương thực và trở thành một trong những
quốc gia giàu tiềm năng về lương thực, có khả năng xuất khẩu một lượng lớn nông
phẩm ra thị trường thế giới. Cùng với dầu thô và các nguồn nông phẩm, lúa gạo trở
thành hàng xuất khẩu quan trọng, đem lại nguồn ngoại tệ cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, ổn định đời sống cho hơn 80% dân số nông thôn đồng thời góp phần xây dựng
một số ngành cơng nghiệp, kinh tế mới của Việt Nam.
c. Yêu cầu nhiệm vụ của đối ngoại.


9

Vấn đề cấp bách là giải tỏa tình trạng đối đầu, thù địch, chuyển sang đối thoại và
hợp tác với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ đối
ngoại nhằm tạo môi trường thuận lợi để tập trung phát triển kinh tế.
Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt. Để thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong
nước, cần phải tranh thủ các nguồn lực bên ngồi đưa đất nước thốt khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, trong đó việc mở rộng và tăng cường hợp tác kinh tế với các
nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
1.3.2. Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối.
a. Giai đoạn 1986 - 1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa đa
phương hóa quan hệ quốc tế.
Đại hội VI (1986), trên cơ sở nhận thức đặc điểm nổi bật của thế giới là cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa
lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận định: “Xu thế mở rộng phân công hợp tác giữa các
nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện
quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng đã đề yêu
cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống XHCN, với các

nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên
tắc bình đẳng, cùng có lợi với chủ trương “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại trong điều kiện mới.” Để thực hiện chủ trương trên, tháng 12 - 1987, “Luật
Đầu tư nước ngoài” tại Việt Nam được ban hành.
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình
hình mới”: chủ trương chuyển hướng chiến lược đối ngoại “kiên quyết chuyển từ đối
đầu sang đối thoại và hợp tác trên nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình”. Nghị quyết số 13
thể hiện sự đổi mới tư duy về nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực đối ngoại, quan hệ chính trị
quốc tế, mục tiêu đối ngoại, an ninh và phát triển, đoàn kết quốc tế và tập hợp lực
lượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Nghị quyết này đánh dấu sự đổi mới tư
duy quan hệ quốc tế và chuyển hướng toàn bộ chiến lược của Đảng ta, đặt nền móng
hình thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ quốc tế.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (3/1989): Đảng nêu rõ yêu cầu cần
chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính
trị - kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước.


10

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991): đề ra chủ trương hợp tác bình
đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác
nhau trên cơ sở những ngun tắc cùng tồn tại hịa bình; thực hiện chính sách đa dạng
hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên
ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi với phương châm
đối ngoại “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển.” Trong đó, Đảng đề ra chủ trương đổi mới chính
sách đối ngoại với các đối tác trong quan hệ quốc tế. Với Lào và Campuchia: Đổi mới
phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh thần bình đẳng. Với Trung Quốc:

Thúc đẩy bình thường hóa quan hệ, từng bước mở rộng quan hệ hợp tác Việt - Trung.
Với các nước trong khu vực: Phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á và các
nước châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đơng Nam Á hịa bình, hữu nghị
và hợp tác. Đối với Hoa Kỳ: Thúc đẩy q trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (1991): được Đại hội VII của
Đảng thông qua xác định quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng
Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa VII (6 -1992): tiếp tục cụ thể hóa quan điểm
về lĩnh vực đối ngoại. Đảng nhấn mạnh yêu cầu đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế; mở cửa để tiếp thu vốn, cơng nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngồi, tiếp
cận thị trường thế giới trên cơ sở bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi
trường, hạn chế tối thiểu những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.
Hội nghị tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994): chủ trương triển khai mạnh
mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa
phương hóa quan hệ đối ngoại. Như vậy, quan điểm, đường lối đối ngoại rộng mở đã
hình thành đường lối đối ngoại của Việt Nam.
b.
Giai đoạn 1996 - 2016: Bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại theo phương
châm chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996): Đảng đề ra chủ trương là tiếp tục
mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính
trị khu vực và quốc tế; xây dựng nền kinh tế mở, đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới. Nhiệm vụ đối ngoại lúc này là củng cố mơi trường hịa bình, tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần tích
cực vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ


11


và tiến bộ xã hội. Với chủ trương và nhiệm vụ như trên, Đảng đã đưa ra các quan điểm
đối ngoại với các đối tác cụ thể: Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các
nước trong tổ chức ASEAN; không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền
thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị
trên thế giới; đồn kết anh em với các nước đang phát triển, với phong trào không liên
kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn
quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001): với chủ trương: Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực; xây dựng quan hệ
“đối tác” nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Phương châm đối ngoại
lúc này là Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hịa bình độc lập và phát triển. Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị
(11-2001) “Về hội nhập kinh tế quốc tế” đề ra các nhiệm vụ và biện pháp tổ chức quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
(1 - 2004): Nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để gia nhập
WTO.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006): Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở,
đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, “chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011): Chủ trương triển khai đồng
bộ và toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực và chủ động hội nhập quốc
tế với phương châm đối ngoại: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016): Ban hành Nghị quyết về “Thực hiện
có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội
trong bối cảnh nước ta tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”.
1.3.3. Quan điểm đường lối đối ngoại hội nhập quốc tế:
a. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo rộng đối ngoại và hội nhập quốc tế để tạo
thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

Tư tưởng chỉ đạo trong đường lối hội nhập quốc tế dựa trên các nguyên tắc
sau: Hội nhập phải bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng
của Việt Nam, giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đơi với đẩy mạnh đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.


12

Hợp tác phải nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, tránh
trực diện đối đầu, tránh bị đẩy vào thế cô lập. Việt Nam cần mở rộng quan hệ với mọi
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi
trọng quan hệ hịa bình, hợp tác với khu vực; chủ động tham gia các tổ chức đa
phương, khu vực và tồn cầu.
Trong q trình hội nhập đất nước cần giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội;
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập
quốc tế, phát huy tối đa nội lực đi đơi với thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lực
bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi
thế so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế.
Nhà nước cần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với các
hoạt động đối ngoại và phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao
nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và
ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
b.
Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập
quốc tế trong thời gian tới
Trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết Hội
nghị Trung Ương 4 khóa X (02/2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn như:
Bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi, thực hiện nhất qn đường lối đối ngoại độc lập, tự

chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ đi vào
chiều sâu, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác đối ngoại, chủ động và tích
cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương. Kiên quyết đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của đất nước.
Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; đổi
mới nội dung, phương pháp và nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền đối ngoại;
chăm lo đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác đối
ngoại. Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước
đối với các hoạt động đối ngoại.


13

1.4. Các yếu tố tác động đến đường lối đối ngoại Việt Nam:
Việc hoạch định chính sách đối ngoại của một quốc gia là q trình phức tạp, địi
hỏi các cơ quan hoạch định chính sách phải xem xét và cân nhắc đồng thời nhiều yếu
tố tác động từ cả bên trong lẫn bên ngoài, phù hợp với từng thời điểm. Mỗi quốc gia
với thể chế chính trị khác nhau lại có cách cấu tạo bộ máy hoạch định chính sách đối
ngoại khác nhau. Nhìn chung, các nhân tố chủ chốt quyết định chính sách đối ngoại
của một quốc gia bao gồm: lợi ích quốc gia - dân tộc, thế và lực của quốc gia trên
trường quốc tế, cục diện thế giới và khu vực.
Thứ nhất, lợi ích quốc gia - dân tộc. Phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc ngày càng
trở thành nguyên tắc tối thượng cho mọi chính sách đối ngoại và hoạt động đối ngoại
của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Lợi ích quốc gia là kim chỉ nam,

là nguyên tắc chỉ đạo việc hoạch định chính sách đối ngoại, chính vì vậy, mọi chính
sách và hoạt động đối ngoại của Việt Nam đều phải tính đến và phù hợp với lợi ích
quốc gia - dân tộc.
Đường lối đối ngoại đổi mới được Đảng ta đề xướng từ năm 1986, liên tục được
bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ đại hội, trong đó đều khẳng định vai trị đặc biệt
quan trọng của lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại của đất nước. Hội nghị
Trung ương 3 khóa VII (tháng 6-1992) khẳng định, mục tiêu “hịa bình và phát triển”
trở thành chuẩn mực trong hoạt động quốc tế của Việt Nam, phục vụ cho lợi ích cao
nhất của dân tộc là “nhanh chóng ra khỏi khủng hoảng, giữ vững tăng cường ổn định
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, bảo vệ vững chắc
độc lập và tự do của Tổ quốc”. Trên tinh thần đó, “cơng tác đối ngoại phải phục vụ lợi
ích đó của dân tộc..., và coi lợi ích dân tộc là cao nhất và thiêng liêng nhất”. Hội nghị
Trung ương 8 khóa IX (tháng 7-2003) tiếp tục khẳng định: “Kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hịa bình, ổn định
để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc”. Đại hội XI của Đảng (năm 2011)
khẳng định mục tiêu của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ mới là “vì lợi ích quốc gia,
dân tộc” và “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Văn kiện Đại hội
XII đã đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất về mục tiêu đối ngoại, đó là “bảo đảm lợi ích
tối cao của quốc gia  - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,
bình đẳng và cùng có lợi”. Như vậy, lợi ích quốc gia ln đóng vai trị trọng tâm trong
việc xác định đường lối đối ngoại, hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta.


14

Bên cạnh vị thế quốc gia, thực lực hay sức mạnh tổng hợp của quốc gia cũng là
một nhân tố quan trọng cần tính đến khi hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam
trong thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao

là cái tiếng; chiêng có to thì cái tiếng mới lớn”. Sức mạnh quốc gia hay sức mạnh dân
tộc là tổng hòa các sức mạnh, tiềm lực của một quốc gia, dân tộc trên các khía cạnh vật
chất lẫn tinh thần, như sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, tri thức, hệ tư
tưởng, thể chế chính trị, đường lối, chính sách,.... Như vậy, sức mạnh quốc gia của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay là sức mạnh tổng thể của Nhà nước và nhân dân, của sự
lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng, là sức mạnh tổng hợp cả “sức mạnh cứng”
lẫn “sức mạnh mềm” của quốc gia, là sự kết hợp hài hòa các yếu tố truyền thống và
hiện đại, và vị thế ngày càng gia tăng của Việt Nam ở khu vực và thế giới. Thế và lực
mới tiếp tục tạo thuận lợi cho Việt Nam triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa
dạng hóa, đa phương hóa trong thời kỳ mới.
Thứ ba, cục diện thế giới và khu vực: Bên cạnh các nhân tố bên trong, các yếu tố
bên ngoài, như cục diện thế giới và khu vực cũng có ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ
đến quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của mọi quốc gia trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Khơng một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển hoàn
toàn biệt lập với thế giới bên ngoài, ngược lại, mọi quốc gia đều chịu sự tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp từ các nhân tố bên ngoài và mơi trường xung quanh. Trong thời đại
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, sự liên kết giữa các
quốc gia ngày càng trở nên chặt chẽ, hợp tác ngày càng gia tăng, sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng.


15

CHƯƠNG 2: THÀNH TỰU TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI
CỦA VIỆT NAM TRONG HƠN 30 NĂM ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
(1986 – 2021)
2.1. Thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1986 – 1996
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ Quốc, đất nước ta rơi vào tình
trạng khủng hoảng nghiêm trọng, sản xuất đình đốn, lạm phát phi mã. Bởi vậy, đời
sống nhân dân rơi vào tình trạng vơ cùng khó khăn và đất nước rơi vào tình thế bị bao

vây, cấm vận nặng nề. Trên cơ sở đó, Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã phân tích một
cách khách quan những sai lầm, nguyên nhân và khuyết điểm của cuộc khủng hoảng
và đưa đến quyết định lịch sử là tiến hành đổi mới đất nước tồn diện và đối ngoại
cũng nằm trong số đó. Đại hội VI đã nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là “tranh thủ điều
kiện quốc tế thuận lợi cho sự kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc” và
“cần hịa bình để phát triển kinh tế”. Chủ trương của nghị quyết là chuyển hướng
chính sách ngoại giao, đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới,
thi hành chính sách hữu nghị, hợp tác, tồn tại hịa bình để phát triển.
Thực hiện theo chính sách đối ngoại mở rộng theo đường lối đổi mới của Đảng,
nhiệm vụ của ngoại giao lúc này là phá “tảng băng” bao vây, cấm vận. Bởi vậy, ngay
sau khi Đại hội VI diễn ra, Đảng ta đã tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng đàm phán với
Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hóa quan
hệ giữa hai nước. Sau khi trải qua nhiều vòng đàm phán cùng sự cố gắng của 2 phía,
mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã chính thức được bình thường hóa vào năm
1991 trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình.


16

Đến ngày 11/07/1995, Tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố Hịa Kỳ chính thức
bình thường hóa quan hệ đối với Việt Nam. Đậy được coi là một thắng lợi quan trọng
của Ngành Ngoại giao Việt Nam, phản ánh được xu thế phát triển hiện nay của tình
hình quốc tế, góp phần tích cực hơn vào sự nghiệp hịa bình và ổn định phát triển ở
Đông Nam Á cũng như trên thế giới. Kể từ khi bình thường hóa quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ, sự hợp tác song phương được mở rộng một cách vững chắc trên nhiều lĩnh
vực.
Ngày 28/07/1995. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 tại
Brunei Darussalam, Việt Nam đã chính thức gia nhập ASEAN và trở thành thành viên
thứ 7 của tổ chức. Việc gia nhập này đã tạo cơ hội và tạo đà cho Việt Nam hội nhập
khu vực đến hội nhập quốc tế, đồng thời giúp Việt Nam tăng cường và nâng cao vị thế

hình ảnh của mình, mở rộng hợp tác với các nước không chỉ trong khu vực mà với cả
các nước đối tác lớn và các ước trong cộng đồng quốc tế. Không chỉ vậy, Việt Nam
cũng gia nhập diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) tại Bangkok, Thái Lan vào ngày
01/03/1996.
Nhìn lại chặng đường đầu tiên trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng phát
động kể từ sau Đại hội VI, có thể thấy đó là chủ trương hồn tồn đúng đắn. Chỉ trong
vịng chưa đầy 4 năm thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở theo lối tư duy mới đã
giúp đất nước thoát khỏi khủng hoảng và sự bao vây cấm vận của các lực lượng thù
địch, giải tỏa những bế tắc trong quan hệ với các nước láng giềng (ngồi Đơng Dương)
và hầu hết với các nước lớn, các tổ chức và liên khu vực. Quan hệ giữa nước ta với các
nước ASEAN được khai thông và tạo điều kiện thuận lợi cho việc Việt Nam gia nhập
ASEAN và hội nhập khu vực sau đó. Đặc biệt trong đó là việc bình thường hóa quan
hệ với Trung Quốc và từng bước cải thiện quan hệ với Mỹ và tiến đến việc bình
thường hóa, thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Đây được coi là bước đột phá
cực kỳ quan trọng về mặt ngoại giao, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới về mặt kinh tế nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến lược của nhân dân ta sau 30
năm chiến tranh và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2.2. Thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2021
2.2.1. Giai đoạn 1996-2010: Mở rộng quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế
Bước vào giữa thập niên 1990, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, tạo ra tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Các xu thế hịa
bình, tồn cầu hóa, dân chủ hóa của thời đại ngày càng được củng cố và tăng cường.


17

Các nước lớn, nhỏ, có chế độ chính trị-xã hội khác nhau tham gia ngày càng nhiều vào
quá trình hợp tác và cạnh tranh, vào các liên kết khu vực và quốc tế.
Đất nước có khơng gian phát triển thuận lợi do nằm trong khu vực châu Á-Thái

Bình Dương đang phát triển năng động với tốc độ cao. Các đặc điểm và xu thế nêu
trên đã làm thúc đẩy thêm tính chất đa phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế và chính
sách đối ngoại của các nước.
Trong sự chuyển biến của thế giới và khu vực đó, Đại hội VIII (1996) đã khẳng
định tính đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa
dạng hoá các quan hệ đối ngoại. Tư duy đối ngoại tiếp tục được đổi mới với quan điểm
mới về đối tác - đối tượng, về hợp tác và đấu tranh trong Nghị quyết Trung ương 8
khóa IX (2003). Đây là cơ sở để Việt Nam hóa giải điểm bất đồng, gia tăng điểm song
trùng lợi ích trong trong quan hệ quốc tế. Một hướng đột phá mới trong giai đoạn này
là chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tại Đại hội VIII, Đại hội IX (2001) và Đại hội X
(2006).
Chúng ta đã xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế. Việt
Nam đã tham gia Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA) và ký Hiệp định
thương mại song phương với Mỹ năm 2001.
Việt Nam gia nhập một loạt các cơ chế đa phương quan trọng như Diễn đàn Hợp
tác Á-Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương
(APEC) năm 1998, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007. Việt Nam đã
đăng cai các hội nghị cấp cao của Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp (1997),
ASEAN (1998), ASEM (2005), APEC (2006) và là Uỷ viên không thường trực của
Hội đồng Bảo an (HĐBA) Liên hợp quốc (LHQ) khóa 2008-2009.
2.2.2. Giai đoạn 2011-nay: Đưa quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế toàn
diện
Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn,
tuy nhiên đứng trước nhiều thách thức từ cạnh tranh nước lớn gia tăng, kinh tế thế giới
khủng hoảng và phục hồi chưa bền vững. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ, Cách mạng công nghiệp 4.0 một mặt tạo ra động lực mới cho tăng trưởng sáng
tạo, chuyển đổi số, mặt khác gia tăng nguy cơ tụt hậu nếu không bước được lên “con
thuyền” của kỷ nguyên số. Thế và lực của đất nước được nâng lên đáng kể sau hơn hai
thập kỷ đổi mới. Vị thế địa chiến lược của Việt Nam tiếp tục gia tăng trong chính sách
của các nước lớn với khu vực.

Trong bối cảnh đó, Đại hội XI (2011) đã nâng tầm từ hội nhập kinh tế sang “chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế” một cách toàn diện. Nghị quyết số 22 của Bộ


18

Chính trị năm 2013 đã thống nhất nhận thức trong tồn Đảng, tồn dân về hội nhập
quốc tế trong tình hình mới.
Đại hội XII (2016) có quyết sách chính trị quan trọng về tiếp tục mở rộng phạm vi,
lĩnh vực và mức độ hội nhập. Các nội dung này đã được cụ thể hóa và kế hoạch hóa
trong Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030. Tư duy đối ngoại
đa phương có bước chuyển quan trọng với Chỉ thị 25 của Ban Bí thư năm 2018 chuyển
mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia” và phát huy vai trò “nòng cốt”, dẫn dắt
của Việt Nam.
Công tác đối ngoại được triển khai ngày càng đồng bộ giữa các binh chủng đối
ngoại với các định hướng công tác, phối hợp trong Chỉ thị số 04 của Bộ Chính trị năm
2011 về đối ngoại nhân dân và Chỉ thị số 32 của Bộ Chính trị năm 2019 về quan hệ đối
ngoại Đảng.
Kết quả là chúng ta đã xây dựng được mạng lưới 30 đối tác chiến lược và đối tác
tồn diện, trong đó có tất cả các nước lớn, 17/20 thành viên G-20, toàn bộ các nước
ASEAN. Việt Nam chủ động đàm phán nhiều FTA, trong đó có 2 FTA thế hệ mới là
Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA và ký Hiệp định RCEP.
Việt Nam đã và đang tích cực tham gia q trình xây dựng cộng đồng ASEAN,
thực hiện sứ mệnh gìn giữ hịa bình (PKO). Chúng ta cũng đảm nhiệm vai trò chủ tịch
ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ 2020-2021. Từ 2016 tới
nay, các địa phương đã rất chủ động triển khai hội nhập quốc tế, phát huy thế mạnh
từng vùng miền, từng ngành hàng. Kết quả hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực chính trị,
quốc phịng, an ninh, xã hội, văn hóa, khoa học cơng nghệ… được thúc đẩy mạnh mẽ
và có những kết quả thực sự tích cực.
2.2.3. Các thành tựu và bài học đối ngoại

Như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”.
Trước hết, công tác đối ngoại đã xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước
láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác.
Thứ hai, trong tâm thế và khát vọng phát triển, vươn lên của dân tộc, đối ngoại
Việt Nam đã sáng tạo, linh hoạt, tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi, thu hút nguồn lực
phục vụ phát triển và nâng cao vị thế đất nước. Trong đó người dân, doanh nghiệp địa
phương trở thành trung tâm.
Thứ ba, cơng tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ bảo vệ vững
chắc chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc, góp phần “giữ nước sớm, từ xa, từ khi
nước còn chưa nguy”.


19

Thứ tư, công tác đối ngoại, nhất là đối ngoại đa phương, đã góp phần nâng cao vị
thế, uy tín, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Các thành tựu trên có được nhờ đường lối, chủ trương đối ngoại đúng đắn của
Đảng qua các thời kỳ, trên cơ sở đánh giá đúng thời cuộc và sự tiếp thu, đúc rút các bài
học của đối ngoại Việt Nam. Trước hết đó là kiên định và phát huy cao nhất lợi ích
quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và
cùng có lợi.
Tiếp theo là bài học kinh nghiệm về đối ngoại luôn xuất phát từ đối nội, phục vụ
đối nội và dựa vào đối nội, là tầm quan trọng của sự phát huy sức mạnh tổng hợp của
các binh chủng đối ngoại bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại
nhân dân, giữa Đối ngoại - Quốc phòng - An ninh. Các mục tiêu đối ngoại luôn bám
sát mục tiêu phát triển của đất nước. Đối ngoại là cánh tay nối dài của đối nội, là công
cụ hiệu quả để hiện thực hóa các khát vọng phát triển.
Hơn nữa, hiệu quả hoạt động đối ngoại dựa rất lớn vào tiềm lực và uy tín của đất
nước mà sự đánh giá rất cao của quốc tế đối với nỗ lực chống dịch Covid-19 của Việt

Nam là ví dụ điển hình. Bên cạnh đó, chúng ta có bài học quan trọng về chuyển hóa
thế thành lực, tranh thủ mạng lưới quan hệ đối ngoại, địn bẩy chính trị, vị thế của đất
nước để đạt được những kết quả vượt ra khỏi giới hạn sức mạnh cứng của quốc gia.
2.2.4. Công tác đối ngoại giai đoạn tới
Thời gian tới, bối cảnh quốc tế và khu vực sẽ tiếp tục biến chuyển nhanh chóng
với nhiều yếu tố bất định. Hồ bình, hợp tác và phát triển, tồn cầu hóa và hội nhập
vẫn là xu thế lớn nhưng gặp nhiều trở ngại, thách thức từ cạnh tranh chiến lược nước
lớn và dịch Covid-19. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương có vị trí trọng yếu trên thế
giới, là động lực quan trọng của kinh tế toàn cầu. Song khu vực vẫn tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định, trong đó có tình hình Biển Đơng và Mekong. Sau 35 năm đổi
mới, thế và lực của Việt Nam đã lớn mạnh. Chính trị - xã hội ổn định, đồng thời quy
mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên.
Chúng ta sẽ đặt ra các mục tiêu phát triển dài hạn, đầy tham vọng tới năm 2030 và
2045 nhưng trong bối cảnh quốc tế phức tạp nhất từ trước tới nay. Do đó, sứ mệnh của
đối ngoại thời gian tới là hết sức nặng nề với nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu là toàn tâm,
toàn lực hiện thực hóa khát vọng phát triển, xây dựng Việt Nam trở thành đất nước
hạnh phúc, phồn vinh.
Dự thảo báo cáo cáo chính trị tại Đại hội XIII đã thể hiện tầm quan trọng, vai trò
tiên phong của đối ngoại, mặt trận có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Nền tảng quan trọng để thực hiện nhiệm vụ là tiếp tục "xây dựng nền


20

ngoại giao toàn diện, hiện đại" ngày càng vững chắc và sự triển khai đồng bộ, toàn
diện của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.


21


CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN CHUNG
3.1. Ý nghĩa
Thành tựu đối ngoại và ngoại giao góp phần khẳng định tính đặc sắc và độc đáo
của đường lối đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, dựa trên nền tảng tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc dân tộc “cây tre Việt Nam”, như đồng chí Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng khái quát rất sâu sắc tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc năm
2021; đồng thời, tiếp tục làm phong phú và sâu sắc hơn các bài học quý báu về đối
ngoại trong cơng cuộc đổi mới. Đó là bài học về xử lý đúng đắn, hài hòa mối quan hệ
giữa độc lập, tự chủ và đoàn kết, hợp tác quốc tế, giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và
nghĩa vụ, trách nhiệm quốc tế; bài học về kiên định nguyên tắc, nhưng linh hoạt, sáng
tạo trong sách lược, “dĩ bất biến ứng vạn biến”; bài học về tăng cường tình đồn kết,
sự đồng thuận trong tồn Đảng, tồn dân và toàn quân để triển khai đường lối đối
ngoại ngày càng đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả; bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt
đối của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước; bài học về kết hợp nhuần nhuyễn
giữa thế và lực, giữa đa phương và song phương, giữa toàn cầu và khu vực, giữa ngoại
giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; bài học về ngoại giao tâm
cơng thủy chung, chân thành, tin cậy, có lý, có tình trong xử lý các vấn đề đối ngoại;
bài học về tăng cường xây dựng tổ chức và cán bộ đối ngoại ngang tầm với yêu cầu
nhiệm vụ,...
Nền ngoại giao Việt Nam với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và
đối ngoại nhân dân luôn đặt dưới lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý
tập trung của Nhà nước. Dù có vị trí, chức năng, vai trò và lợi thế khác nhau, nhưng ba
trụ cột đối ngoại có quan hệ rất chặt chẽ và bổ trợ lẫn nhau bởi cùng thực hiện đường
lối đối ngoại của Đảng với mục tiêu chung vì lợi ích quốc gia- dân tộc. Điều này phản
ánh bản chất nền ngoại giao Việt Nam là sự tổng hịa, thống nhất giữa tính đảng, tính
quốc gia- dân tộc và tính dân chủ- nhân dân. Việc triển khai đồng bộ, phối hợp chặt
chẽ và nhuần nhuyễn đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân sẽ
phát huy thế mạnh của từng trụ cột đối ngoại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền
ngoại giao Việt Nam. Đây vừa là truyền thống và bài học quý báu, vừa là nghệ thuật
“tập hợp lực lượng” độc đáo của đối ngoại cách mạng Việt Nam cần tiếp tục gìn giữ và

phát huy trong giai đoạn mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra những kết quả nổi bật mà Việt Nam đã
đạt được trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta về công tác đối
ngoại trong 35 năm qua, đặc biệt là trong nhiệm kỳ khóa XII gần đây.


22

3.1.1. Từ phá thế bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng
vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho
cơng cuộc đổi mới.
Đối ngoại đã góp phần củng cố mơi trường hịa bình, tranh thủ điều kiện quốc tế
thuận lợi để phát triển đất nước. Thông qua thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì
lợi ích quốc gia-dân tộc, ngành ngoại giao đã khơi thông, mở rộng và đưa quan hệ với
nhiều đối tác ngày càng đi vào chiều sâu.
Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc,
trong đó có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, bao gồm 5
nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ Nhóm các nước
cơng nghiệp phát triển hàng đầu (G7) và tất cả các thành viên ASEAN. Đảng ta đã
thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ
với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ
với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngồi.
Đối ngoại nhân dân đã tích cực thực hiện chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ đối ngoại, tăng cường tình hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau và thúc đẩy hợp tác
với nhân dân các nước; thiết lập quan hệ hợp tác với hàng nghìn tổ chức quốc gia, khu
vực và quốc tế, chú trọng củng cố, phát triển theo chiều sâu quan hệ với nhân dân các
nước láng giềng, các đối tác quan trọng, các nước bạn bè truyền thống và mở rộng
quan hệ với các đối tác mới. Đối ngoại nhân dân tích cực bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc thông qua các hoạt động vận động, đấu tranh phản bác những thông tin sai trái về

quyền con người ở Việt Nam, vận động bạn bè quốc tế ủng hộ hịa bình, ổn định ở
Biển Đơng, chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hịa bình, trên cơ
sở luật pháp quốc tế, trong đó có Cơng ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
3.1.2. Việt Nam tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được các
nguồn lực từ bên ngoài để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển
kinh tế-xã hội.
Từ một nước có nền kinh tế kế hoạch tập trung, bị bao vây, cấm vận, đến nay nước
ta đã trở thành một nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa liên
kết kinh tế sâu rộng. Chúng ta đã tham gia và có quan hệ tốt đẹp với nhiều tổ chức, cơ
chế hợp tác kinh tế-phát triển hàng đầu, đặc biệt, chúng ta đã tham gia 15 Hiệp định
thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA “thế hệ mới” như Hiệp định Đối tác tồn
diện và tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực
(RCEP).


23

Nếu cách đây 30 năm, Việt Nam mới có quan hệ kinh tế-thương mại với gần 30
nước và vùng lãnh thổ thì đến nay đã có quan hệ kinh tế-thương mại với 230 nước và
vùng lãnh thổ; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đến nay đã đạt khoảng 600 tỷ USD, gấp
khoảng 120 lần so với những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Chúng ta đã thu hút được
hơn 400 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó đã giải ngân được
khoảng 250 tỷ USD…
Cơng tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt nhiều kết quả quan trọng, thể hiện
rõ chủ trương đại đoàn kết dân tộc cũng như tình cảm, trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước trong việc chăm lo cộng đồng, phát huy mạnh mẽ nguồn lực của kiều bào.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên thế giới và trong nước,
công tác ngoại giao y tế, ngoại giao vaccine được kịp thời và hiệu quả, có trách nhiệm,
góp phần quan trọng vào phịng, chống và thích ứng an tồn với dịch bệnh. Đến nay,

Việt Nam nhận được trên 151 triệu liều vaccine và nhiều trang thiết bị y tế, góp phần
quan trọng cho cơng tác phịng, chống dịch đi đôi với phục hồi và phát triển kinh tế-xã
hội. Việt Nam cũng đã viện trợ vật tư y tế và tài chính cho trên 50 quốc gia và tổ chức
quốc tế, thể hiện rõ vai trị “thành viên có trách nhiệm” trong cộng đồng quốc tế.
3.1.3. Đối ngoại đóng vai trị tiên phong trong việc giữ vững mơi trường hịa bình,
ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Chúng ta đã cơ bản xây dựng được đường biên giới trên bộ hịa bình, hữu nghị,
hợp tác với các nước láng giềng. Trên biển, kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán và các lợi ích chính đáng của đất nước; kiên trì giải quyết tranh
chấp bằng biện pháp hịa bình, tơn trọng luật pháp quốc tế.
Ngoại giao đã đi đầu tạo lập và củng cố mơi trường hịa bình, ổn định, đồng thời
cùng quốc phòng, an ninh và các cấp, các ngành góp phần bảo vệ vững chắc chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Ngành ngoại giao phối hợp chặt chẽ với các
ngành, địa phương liên quan nỗ lực đàm phán, xây dựng đường biên giới hịa bình,
hữu nghị và phát triển với các nước láng giềng; bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo
của Tổ quốc.
Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Thứ trưởng Quốc phòng: "Thực hiện đường lối
đối ngoại của Đảng và Nhà nước, công tác đối ngoại quốc phòng đã được Quân ủy
Trung ương, Bộ Quốc phòng tích cực, chủ động lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai đồng bộ,
tồn diện, linh hoạt, hiệu quả trên cả bình diện song phương và đa phương. Quan hệ
hợp tác quốc phòng đã phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Đến nay, nước ta đã thiết lập
quan hệ hợp tác quốc phòng với trên 100 nước trên thế giới trong đó đầy đủ 5 nước là


24

Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tất cả các nước lớn với nhiều
lĩnh vực, cơ chế hợp tác thực chất, hiệu quả".
3.1.4. Vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng

được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững
hịa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới.
Đến nay, Việt Nam là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực
và toàn cầu. Việt Nam đã 2 lần làm Chủ tịch ASEAN (2010, 2020); làm Chủ tịch Tổ
chức Liên nghị viện ASEAN (AIPO, 2002), Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện ASEAN
(AIPA) (2010, 2020), 2 lần trúng cử với số phiếu ủng hộ rất cao để trở thành Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009 và 20202021), 2 lần là nước chủ nhà Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương
(APEC) (2006 và 2017); đăng cai thành công Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về
ASEAN năm 2018; tổ chức tốt Cuộc gặp cấp cao Mỹ-Triều Tiên lần thứ 2 (2019).
Chúng ta tích cực tham gia vào hoạt động gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc.
Việt Nam tích cực tham gia các diễn đàn đa phương chính đảng, như: Cuộc gặp
quốc tế các đảng cộng sản và công nhân (IMWCP), Ủy ban thường trực Hội nghị quốc
tế các chính đảng châu Á (ICAPP); tích cực thúc đẩy hợp tác qua các kênh ngoại giao
nghị viện như: AIPA, Liên minh Nghị viện thế giới (IPU); tham gia tích cực Diễn đàn
Nhân dân ASEAN.
Ngoại giao văn hóa, thơng tin đối ngoại quảng bá mạnh mẽ hình ảnh Việt Nam
giàu bản sắc, đổi mới thành công; vận động Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
của Liên hợp quốc (UNESCO) cơng nhận nhiều di sản của đất nước là di sản văn hóa
thế giới, qua đó góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và thúc đẩy phát triển kinh
tế-xã hội.
3.2. Nguyên nhân
Sau hơn 30 năm Đổi mới, đất nước đã có thế và lực, uy tín và tiềm năng chưa từng
có trong lịch sử. Quy mơ và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, quan hệ đối ngoại và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng. Kết quả đạt được sau hơn 30 năm đổi mới là tiền đề và cơ
sở vững chắc để Việt Nam tiếp tục phát triển theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Để có được thành tựu trong lĩnh vực Đối ngoại của Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới
Đất nước (1986-2021) là nhờ:
Thứ nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận
dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - LêNin, kế thừa và phát
huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn



×