Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài thu hoạch lớp CCLLCT môn QHQT vai trò và đóng góp của việt nam trong hiệp hội các quốc gia đông nam á (ASEAN)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.12 KB, 11 trang )

1

MỞ ĐẦU
Kể từ thời điểm năm quốc gia sáng lập ký Tuyên bố ASEAN (Tuyên bố
Bangkok), năm 1967, đến nay, ASEAN đã phát triển và mở rộng thành một
cộng đồng gồm mười thành viên, hướng tới mục tiêu đoàn kết tất cả các quốc
gia ở Đông Nam Á. Vượt qua những thách thức trong tiến trình phát triển suốt
50 năm, trải qua quá trình xây dựng cộng đồng kéo dài hàng thập kỷ, ASEAN
về căn bản đã hình thành một chương trình nghị sự và trở thành một trong
những tổ chức khu vực thành công nhất. Từ một cơ cấu đối thoại, hợp tác
lỏng lẻo, mang tính chất tiểu khu vực ở Đơng Nam Á là chính, Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã dần trở thành hạt nhân và đóng vai trị
trung tâm trong các cơ chế, cấu trúc an ninh, hợp tác khu vực ở châu Á - Thái
Bình Dương.


2

NỘI DUNG
1. Một số nét khái quát về ASEAN
8-8-1967, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái-lan ký
Tuyên bố Bangkok, thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
8-8-1967, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái-lan ký
Tuyên bố Bangkok, thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
1976, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ nhất, ký Hiệp ước Thân thiện và
Hợp tác ở Đông Nam Á ( TAC) và Tuyên bố về sự Hòa hợp ASEAN (Tuyên
bố Bali).
7-1-1984, Brunei gia nhập ASEAN.
1992, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4, ký Hiệp định Khung về tăng
cường hợp tác kinh tế ASEAN và thỏa thuận về Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN (AFTA).


1994, thành lập diễn đàn khu vực ASEAN (ARF)
1995, Việt Nam gia nhập ASEAN.
Sau 50 năm xây dựng và phát triển với nhiều thăng trầm, ASEAN đã
chuyển hóa căn bản về chất và chính thức thành lập Cộng đồng kinh tế vào
ngày 31/12/2015. Sự kiện này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với vai trò
trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Năm 2016, tổng GDP tồn khối đạt 2,55 nghìn tỷ USD, là nền kinh tế lớn
thứ năm thế giới; là thị trường lớn thứ tư thế giới và một điểm đến được các
nhà đầu tư ưu tiên lựa chọn, chiếm khoảng 7% tổng dịng vốn FDI tồn cầu
trong năm 2015; hơn một nửa dân số dưới 30 tuổi sẽ tiếp tục là động lực cho
những bước phát triển tích cực của khu vực; tỷ lệ người sống dưới mức chuẩn
nghèo quốc gia giảm một nửa trong hai thập kỷ; Tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong trong
ASEAN bằng một phần ba so với mức vào năm 1990; hịa bình và an ninh
được giữ vững.


3

Mục tiêu tổng quát của Cộng đồng ASEAN là xây dựng Hiệp hội thành
một tổ chức hợp tác liên Chính phủ liên kết sâu rộng hơn và ràng buộc hơn
trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN. Nhưng ASEAN không phải là
một tổ chức siêu quốc gia và không khép kín mà vẫn mở rộng hợp tác với bên
ngồi với ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN: cộng đồng chính trị an ninh
APSC, cộng đồng kinh tế AEC, cộng đồng văn hóa xã hội ASCC. Tạo dựng
một mơi trường hịa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực ĐNA thơng qua
việc nâng hợp tác chính trị - an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham
gia và đóng góp xây dựng của các đối tác bên ngồi; khơng nhằm tạo ra một
khối phịng thủ chung.
Quan hệ đối ngoại của ASEAN hiện nay thông qua các khuôn khổ:
ASEAN+1: ASEAN thiết lập quan hệ đối tác chính thức với 15 quốc gia

và tổ chức. Trong đó, bao gồm 10 đối tác đối thoại là Australia, Canada,
Trung Quốc, Liên hiệp châu Âu, Ấn Ðộ, Nhật Bản, New Zealand, Nga, Hàn
Quốc, Mỹ; một tổ chức quốc tế Liên hợp quốc; ba đối tác đối thoại theo lĩnh
vực gồm Pakistan, Thụy Sĩ và Na Uy; một đối tác phát triển là Đức.
Hợp tác ASEAN+3: giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc
Hội nghị cấp cao Ðông Á (EAS), Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN
(ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+).
Đối thoại thường xuyên với các tổ chức khu vực khác: Tổ chức Hợp tác
vùng Vịnh (GCC), Tổ chức Hợp tác các nước Nam Á (SAARC), Tổ chức Hợp
tác kinh tế Trung Á (ECO), Tổ chức các nước Nam Mỹ (MERCOSUR),…
2. Vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc châu Á-Thái Bình
Dương hiện nay
Với mục tiêu xây dựng cấu trúc Châu Á-Thái Bình Dương dựa trên các
nguyên tắc cơ bản của khối, trong đó ASEAN giữ vai trị trung tâm và là động
lực chính, các nước ASEAN thống nhất rằng, vai trò trung tâm của tổ chức


4

trong cấu trúc khu vực là điều kiện cần thiết để bảo đảm độc lập, chủ quyền,
duy trì mơi trường hịa bình, ổn định, phát triển cho các nước trong khu vực.
Để có thể phát huy vai trị trung tâm nói trên, ASEAN cần phải là một tổ
chức thống nhất, có thực lực và có tiếng nói chung mạnh mẽ.
2.1. Xây dựng thực lực ASEAN
Nằm ở trung tâm của khu vực trải rộng từ Thái Bình Dương tới Ấn Độ
Dương và là cầu nối giữa các cường quốc với các nước trong khu vực,
ASEAN có vị trí hết sức quan trọng trong các tiến trình hợp tác ở châu Á.
Nhưng bên cạnh đó, vẫn phải nhìn nhận rằng, tổ chức này là tập hợp của một
loạt những nước vừa và nhỏ mà tiếng nói của mỗi thành viên đều tương đối
hạn chế.

Để thực sự có được tiếng nói mạnh mẽ, có sức nặng trong khu vực,
ASEAN, một tập hợp tồn các nước nhỏ cần phải phát huy tối đa sức mạnh
tập thể bằng cách hòa quyện chặt chẽ với nhau, ln có ý thức trách nhiệm về
sự an nguy và thịnh vượng của nhau. Muốn thế, trước hết ASEAN cần phải
gắn kết chặt chẽ về kinh tế, đây là bước thiết yếu trong tiến trình xây dựng
một tổ chức đồn kết, có thực lực.
Nhìn vào thực tế, tiến trình hội nhập kinh tế của ASEAN được chính
thức khởi động từ đầu 1993 cho đến nay vẫn chưa đưa lại kết quả mong đợi.
Mặc dù buôn bán nội khối tăng lên, nhưng tỷ trọng buôn bán nội khối trong
tổng buôn bán quốc tế của ASEAN vẫn chỉ khoảng 25 %, tức là cao hơn
không đáng kể so với trước khi AFTA được xây dựng. Nếu tình hình trên
khơng được cải thiện, ASEAN có thể bị tụt hậu về kinh tế và mất vai trị chính
trị trong khu vực.
Trước nguy cơ đó, việc ASEAN xây dựng một cộng đồng kinh tế gắn kết
là vô cùng quan trọng. Việc Cộng đồng Kinh tế ASEAN chính thức ra đời sẽ
là động lực đáng kể trong nỗ lực biến ASEAN trở thành một khu vực hội nhập


5

và cạnh tranh thật sự. Nói cách khác, để hiện thực hóa tiềm năng của khối,
ASEAN chỉ có thể dựa vào nỗ lực hội nhập khu vực của chính mình.
Như cựu Tổng thống Philippines, Gloria Macapagal Arroyo đã từng
khẳng định: “Trong một thế giới bất ổn về an ninh và biến động liên tục về
kinh tế, chúng ta biết rằng, từng nước riêng rẽ Đông Nam Á, dù rộng lớn như
Indonesia hay tiên tiến về kinh tế như Singapore, không thể có hồ bình,
khơng thể phát triển, khơng thể hy vọng có thịnh vượng, khơng thể có niềm
tin vào tương lai, trừ khi chúng ta cùng sát cánh bên nhau, góp chung của cải,
chia sẻ ngày càng nhiều các mối quan tâm chung, tin tưởng lẫn nhau và ngày
càng nói chung một tiếng nói trên các diễn đàn của thế giới.”

2.2. Động lực của sự phát triển
Trong ba trụ cột, AEC được coi là quan trọng nhất. Sự phát triển của
AEC sẽ là tiền đề thúc đẩy việc thực hiện hai trụ cột cịn lại.
ASEAN có một thị trường tiềm năng to lớn, với dân số hơn 600 triệu.
Hiện thực hóa Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015 sẽ đưa
ASEAN là một khu vực thị trường lớn thứ 3 trên thế giới được hỗ trợ bởi một
số lượng dân số lớn thứ 3 (8% tổng dân số thế giới) trong thế giới sau Trung
Quốc và Ấn Độ. Với việc trở thành một thị trường chung, một không gian sản
xuất thống nhất, ASEAN sẽ phát huy được lợi thế chung của khu vực để từng
bước xây dựng một khu vực năng động, có tính cạnh tranh cao trên thế giới,
đem lại sự thịnh vượng chung cho nhân dân và các quốc gia trong khối. Hàng
hóa, dịch vụ, vốn, cơng nghệ và lao động có tay nghề sẽ được tự do lưu
chuyển trong ASEAN mà không chịu bất cứ hàng rào hay sự phân biệt đối xử
nào. AEC có thể tạo nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp ASEAN,
đóng góp vào việc xây dựng năng lực cạnh tranh của ASEAN với thế giới.
Ngoài ra, liên kết kinh tế ASEAN phát triển cịn giúp tạo tiền đề và mơi
trường thuận lợi cho việc khắc phục các bất đồng An ninh-Chính trị, các


6

vướng mắc lịch sử, những khó khăn kinh tế và những vấn đề văn hóa-xã hội.
Trong khi đó, thúc đẩy hợp tác văn hóa-xã hội vừa giúp tạo điều kiện cho hợp
tác kinh tế, vừa giúp đem lại sự hiểu biết lẫn nhau về chính trị. Hợp tác trong
hai lĩnh vực này đều tạo thêm những kênh quan hệ mới. Hơn nữa, chúng đều
có nhiều điều kiện thuận lợi để thực thi hơn và cũng ít động chạm hơn so với
hợp tác An ninh-Chính trị.
Có thể nói, tăng cường hội nhập kinh tế, thơng qua việc hình thành Cộng
đồng Kinh tế ASEAN là định hướng thiết thực nhằm xây dựng Cộng đồng
ASEAN vững mạnh. Việc xây dựng thành công AEC sẽ là tiền đề quan trọng

để đưa vai trò của ASEAN lên một tầm cao mới, với tư cách là một chủ thể có
quyền lực trong kiến tạo cấu trúc an ninh mới và định hình trật tự quyền lực ở
khu vực, đồng thời quá trình trên đang làm tăng nguồn “tài nguyên địa chính
trị”, sức mặc cả của ASEAN và các nước thành viên trong hợp tác và cạnh
tranh quốc tế, nhất là trong quan hệ với các nước lớn.
2.3. Thực trạng và thách thức
* Thực trạng ASEAN:
Khoảng cách phát triển giữa các nước cịn xa.
Ứng phó gia tăng bất bình đẳng và thích ứng với việc số hóa nền kinh tế.
Các vấn đề an ninh truyền thống trong khu vực: căng thẳng ở Biển Đông, bất
ổn ở Đông-Bắc Á, bán đảo Triều Tiên, biển Hoa Đông, vv…
Các mối đe dọa phi truyền thống như di cư không kiểm soát, chủ nghĩa
cực đoan và tội phạm xuyên biên giới.
Xu thế tồn cầu hóa hiện đang bị đe dọa từ chính những quốc gia từng khởi
xướng tiến trình này mạnh mẽ nhất do chủ nghĩa dân túy, bảo hộ trỗi dậy.
* Những thách thức đang chờ:
ASEAN đang tiến tới một thị trường thống nhất, rộng lớn, có tiếng nói
tập thể khá trọng lượng trong các vấn đề an ninh và hợp tác khu vực và là đối


7

tác khơng thể thiếu trong chính sách khu vực của các nước lớn. Tuy nhiên,
việc hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN đang vấp phải những thách thức đến từ
bên trong khối cũng như những nhân tố bên ngoài.
Theo đánh giá của các nhà phân tích, trở ngại lớn nhất đối với việc thực
hiện các mục tiêu của AEC là sự khác biệt khơng nhỏ về trình độ phát triển
kinh tế và chế độ chính trị giữa các nước thành viên. Một trở ngại khác là mơ
hình quản trị của ASEAN. Để thích ứng với việc tiếp tục khẳng định duy trì
ngun tắc bất hủ “tơn trọng độc lập, chủ quyền” của từng thành viên, các nhà

lãnh đạo ASEAN khẳng định, Cộng đồng ASEAN không phải là một tổ chức
siêu quốc gia. Trong quá trình hợp tác ngày càng cao, như việc hình thành
một thị trường ASEAN thống nhất hay quy chế dịch chuyển lao động tư do,
tất yếu sẽ nảy sinh khơng ít mâu thuẫn, nguy cơ an ninh. Một cơ chế đồng
thuận giúp dung hòa “chủ quyền” và “sự ràng buộc pháp lý của Cộng đồng
ASEAN” là cần thiết, bởi nếu chỉ trông cậy vào ý thức “chia sẻ” và “trách
nhiệm” của mỗi thành viên là chưa đủ, nhưng đây rõ ràng là một nhiệm vụ
không hề dễ.
Mặt khác, việc xây dựng một cộng đồng ASEAN vững mạnh không chỉ
phụ thuộc vào ý chí, hành động chiến lược của mỗi nước thành viên, mà còn bị
chi phối từ các nước lớn, nhất là từ cạnh tranh địa chính trị giữa Mỹ và Trung
Quốc.
Trước hết, thách thức bắt nguồn từ toan tính lợi ích chiến lược của các
nước lớn, nhất là từ tham vọng “Giấc mơ Trung Hoa” của Trung Quốc và
quyết tâm duy trì vị thế nổi trội, “Siêu cường duy nhất” của người Mỹ. Mặc
dù các nước lớn đều coi trọng ASEAN xây dựng cộng đồng, chấp nhận
ASEAN đóng vai trị trung tâm trong các diễn đàn khu vực, nhưng vì mục
tiêu và lợi ích chiến lược lâu dài, các nước lớn này thường tìm cách phân hố
và gây sức ép với ASEAN và các nước thành viên trên một số vấn đề có lợi


8

ích chiến lược, nhằm phục vụ chính sách khu vực của họ và tranh giành ảnh
hưởng giữa họ với nhau. Trong lúc ASEAN cịn tồn tại những khác biệt, thì
mọi sự tác động, lơi kéo từ bên ngồi có khả năng làm mất đồn kết, ly tâm
trong Hiệp hội. Vì lợi ích cục bộ, trước mắt, một số nước thành viên có thể
“đi đêm”, “đi riêng lẻ” với các nước lớn. Điều này được chứng minh khá rõ
trong vấn đề Biển Đông.
Tiếp đến, sự gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là

cặp Mỹ-Trung, sau đó là Trung-Nhật đang làm cho các mâu thuẫn, xung đột
địa chính trị của khu vực tăng nhanh, nhất là ở những khu vực nhạy cảm như
ở Biển Đông, hay Hợp tác Tiểu vùng sơng Mê Cơng, v.v... Kéo theo nó là làm
tăng chạy đua vũ trang. Xu hướng trên không chỉ làm cho nhiều nước ASEAN
phải tăng chi phí quốc phịng, làm ảnh hưởng đến phát triển và hội nhập kinh
tế, mà còn tạo điều kiện cho các nước can thiệp nhiều hơn vào khu vực, gia
tăng liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng có lợi cho họ nhằm thực hiện mục
tiêu địa chính trị của mình. Điều này đã và đang tác động mạnh mẽ đến tính
tương đối độc lập và trung lập của ASEAN trong quan hệ với các nước lớn, cụ
thể là đến chiến lược cân bằng ảnh hưởng mà ASEAN đang theo đuổi.
3. Việt Nam - thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm của
ASEAN
28-7-1995: Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN.
1995-1999: Việt Nam tích cực thúc đẩy kết nạp các nước Lào, Myanmar
và Campuchia vào ASEAN.
1998: Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6.
2000-2001: Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Ủy ban thường trực
ASEAN (ASC).
6-3-2008: Việt Nam phê chuẩn Hiến chương ASEAN.


9

2009: Đảm nhiệm vai trò điều phối viên quan hệ ASEAN-Trung Quốc nhiệm
kỳ 2009-2012.
2010: Việt Nam đảm nhiệm tốt năm Chủ tịch ASEAN, đẩy mạnh thực
hiện lộ trình xây dựng cộng đồng ASEAN trên cả ba trụ cột chính trị, an ninh,
kinh tế và văn hóa - xã hội
2011: Việt Nam, với vai trò điều phối viên quan hệ ASEAN-Trung Quốc,
cùng ASEAN thúc đẩy đàm phán với Trung Quốc, xây dựng và thông qua

Quy tắc hướng dẫn thực thi Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông
(DOC).
2012: Việt Nam đảm nhiệm vai trò điều phối viên quan hệ ASEAN –
EU, nhiệm kỳ 2012-2015.
2015: Đảm nhiệm vai trò điều phối viên quan hệ ASEAN-Ấn Độ, nhiệm
kỳ 2015-2018.
2016: Năm đầu tiên sau khi Cộng đồng ASEAN được thành lập, Việt
Nam tiếp tục tham gia đầy đủ, hoàn thành nghiêm túc các cam kết và đóng
góp hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN.
* Định hướng tham gia hợp tác ASEAN của Việt Nam trong giai đoạn tới:
Chủ động đề xuất các sáng kiến và ý tưởng mới, có tính khả thi, nhằm
thúc đẩy hợp tác và tăng cường liên kết nội khối ASEAN, mở rộng quan hệ
đối ngoại và củng cố vai trò trung tâm của Hiệp hội trong cấu trúc khu vực
đang định hình.
Tích cực cùng ASEAN chung tay giải quyết các vấn đề khó khăn, phức
tạp trong nội khối, các thách thức khu vực và tồn cầu, đe doạ đến hồ bình,
an ninh, ổn định khu vực, nhằm duy trì sức sống, giá trị và góp phần nâng cao
vị thế của Hiệp hội trong hồn cảnh mới;
Có trách nhiệm cùng ASEAN nỗ lực thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, hiệu
quả các thỏa thuận và cam kết đã đề ra, với ưu tiên hàng đầu hiện nay là xây
dựng thành công một Cộng đồng ASEAN vững mạnh, thống nhất và gắn kết.


10

KẾT LUẬN
Với tầm nhìn vượt qua những lợi ích riêng của mình, ASEAN đã và đang
thể hiện tiếng nói ngày càng mạnh mẽ, có trách nhiệm đối với những mối
quan tâm chung của cộng đồng quốc tế, đặc biệt trong các lĩnh vực hợp tác,
phát triển bền vững, chống khủng bố, ứng phó biến đổi khí hậu, giảm nhẹ

thiên tai, bệnh dịch... Việc gắn kết triển khai Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN
2025 với Chương trình nghị sự 2030 của LHQ về phát triển bền vững cho
thấy tuy chỉ là một Cộng đồng khu vực, nhưng ASEAN đã và sẽ tiếp tục
khẳng định tư duy và tầm nhìn chiến lược mang tính tồn cầu.
Nhờ những thành tựu kể trên, ASEAN đã nâng cao được vai trò của Hiệp
hội trong quan hệ với các đối tác, giữ vững vai trò chủ đạo của ASEAN trong
các cấu trúc khu vực đang định hình, được các nước đối tác cam kết hỗ trợ
thúc đẩy việc triển khai đồng bộ và hiệu quả các kế hoạch, chương trình hợp
tác trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN.
Hiện ASEAN đang xây dựng các Cộng đồng ASEAN và đang hướng tới
trở thành một cộng đồng hướng tới người dân, một khu vực phát triển năng
động nhất thế giới. Tuy nhiên, bối cảnh địa kinh tế, địa chiến lược của Đơng
Nam Á nói riêng và khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung đang thay
đổi rất sâu sắc, sự can dự và cạnh tranh giữa các nước lớn vào khu vực ngày
càng gay gắt, có nguy cơ gây chia rẽ, đối đầu trong khu vực, có nguy cơ phá
vỡ các cơ chế, diễn đàn mà ASEAN đã tạo dựng và dẫn dắt, thách thức vai trò
trung tâm của ASEAN.
Vì vậy ASEAN cần nhận thức rõ hơn, đồng thuận hơn về các cơ hội và
thách thức to lớn đang đặt ra, cả từ bên trong và bên ngồi để khơng ngừng
đổi mới, phát triển hơn nữa, đóng góp thiết thực hơn nữa cho hịa bình, ổn
định và sự phát triển của khu vực và trên thế giới.


11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập bài giảng Quan hệ quốc tế (Hệ cao cấp lý luận chính trị), Viện
Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2017.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn

quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.



×