Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Định vị hệ thống ngân hàng Việt Nam so với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.53 KB, 10 trang )

1




Định vị hệ thống ngân hàng Việt Nam so với các nền
kinh tế trong khu vực và trên thế giới

Lê Thu Hằng
và Đỗ Thị Bích Hồng
1


Trong 10 năm trở lại đây, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có
nhiều bước phát triển nhanh chóng và đáng ghi nhận, góp phần quan
trọng với sự phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, xét trong mối tương
quan so với các nước trong khu vực và thế giới thì hệ thống ngân hàng
Việt Nam vẫn còn rất yếu so với các nước cả về mức độ cạnh tranh lẫn
tính lành mạnh và an toàn hệ thống.

Để đánh giá và so sánh sự phát triển của hệ thống ngân hàng giữa các
quốc gia trên thế giới, mỗi tổ chức có thể đưa ra những tiêu chí khác nhau.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi lựa chọn 2 tiêu thức phổ biến nhất để
định vị hệ thống ngân hàng Việt Nam so với các nền kinh tế trong khu vực
và trên thế giới là: Mức độ phát triển và đóng góp của hệ thống ngân hàng
đối với nền kinh tế; tính lành mạnh và năng lực của hệ thống ngân hàng.
MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN VÀ ĐÓNG GÓP CỦA KHU VỰC NGÂN
HÀNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
Độ sâu tài chính
Theo một đánh giá toàn diện của một nghiên cứu thực nghiệm của
Demirgü-Kunt và Levine (2008), các bằng chứng được kiểm nghiệm cho


thấy độ sâu tài chính, được đo bằng các chỉ số như: tỷ lệ của các khoản nợ
có tính thanh khoản trên GDP, tỷ lệ tín dụng ngân hàng trên GDP có ảnh
hưởng tích cực đến tăng trưởng. Sự gia tăng của độ sâu tài chính, thể hiện
qui mô tương đối của hệ thống tài chính so với GDP, thường được xem như
là một trong nhiều bằng chứng của sự phát triển của khu vực tài chính trong
một quốc gia.
Hình 1 thể hiện mối quan hệ so sánh về độ sâu tài chính của các khu
vực kinh tế trên thế giới.

Hình 1: Tín dụng ngân hàng tính trên GDP

1
Viện Chiến lược Ngân hàng, NHNN
2

Đơn vị: %

Nguồn: ADB tính toán dựa trên dữ liệu của Beck, Demirgüç-Kunt, và
Levine
(2010) và Công ty dữ liệu CEIC (cập nhật đến 30/6/2010).

Sử dụng chỉ số tín dụng/GDP để so sánh về độ sâu tài chính của Việt
Nam, có thể thấy độ sâu tài chính của Việt Nam đã được cải thiện nhanh
chóng, từ 35% GDP năm 2000 lên 90%GDP năm 2008 và 107% năm 2009.
Năm 2010, dự kiến đạt 115%, ngang mức bình quân của khu vực Đông Nam
Á như Thái Lan và Malaysia. Hình 2 sẽ cho thấy sự so sánh về xu thế tăng
trưởng tín dụng của Việt Nam so với các nước Đông Nam Á khác trong
vòng 10 năm qua.

Hình 2: Xu thế tín dụng ngân hàng của Việt Nam và các nước Đông

Nam Á
N







Nguồn: Ngân hàng phát triển châu Á, Chỉ số phát triển châu Á 2008

Khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng và mức độ cạnh tranh
3

Số lượng các tổ chức tài chính/chi nhánh/phòng giao dịch/điểm giao
dịch tính trên một số lượng đầu người nhất định trả lời cho vấn đề về mức độ
dễ dàng tiếp cận vào các dịch vụ tài chính trong một quốc gia. Điều này có ý
nghĩa quan trọng vì: Thứ nhất, nó hỗ trợ cải thiện tình trạng đói nghèo, vì
trên thực tế, hạn chế tín dụng ngăn cản những người nghèo hoặc những
người không có tài sản thế chấp tham gia vào việc kinh doanh có lợi nhuận.
Thứ hai, nó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nguồn vốn hạn chế tiếp
cận nguồn tài chính để sáng tạo và áp dụng các công nghệ mới, do đó, thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. (Beck, Demirgü-Kunt, và Peria 2007).

Hình 3: Mức độ truy cập vào hệ thống tài chính năm 2008 của
OECD và một số nước trong khu vực

Nguồn: ADB đánh giá dựa trên số liệu của Beck, Demirgüç-Kun, and Peria (2007); Quỹ
tiền tệ quốc tế (Financial Access online database ); Ngân hàng thế
giới World Bank. (World Development Indicators online database) cập nhật 31 Tháng

tám 2010

Hình 3 cho thấy mức độ tiếp cận tài chính được đo bằng số lượng các
chi nhánh ngân hàng và các máy rút tiền tự động trên 100.000 người dân. Ở
Việt Nam, tính đến 2009, hệ thống các tổ chức tín dụng bao gồm 5 ngân
hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) với 1.405 chi nhánh, 38 ngân hàng
thương mại (NHTM) cổ phần với 1.830 sở giao dịch, chi nhánh và văn
phòng giao dịch. Như vậy tỷ lệ chi nhánh, phòng giao dịch trên 100.000
người dân trung bình vào khoảng 3,72. Con số này mặc dù khá tương đồng
với Philippines (khoảng xấp xỉ 4) nhưng vẫn thấp hơn Thái Lan và Indonesia
và là một khoảng cách khá xa so với các nước OECD (xấp xỉ 27).
Xu hướng tiếp cận các dịch vụ tài chính không qua trụ sở hay chi
nhánh của các định chế tài chính cũng trở nên phổ biến gần đây. Nó thể hiện
4

qua các chỉ số về số lượng ATM và POS tính trên một số lượng đầu người
dân nhất định. Bảng 1 cho thấy mối quan hệ so sánh về số lượng ATM và
POS tính trên 1 triệu người dân tại những nước phát triển, Trung Quốc và
Việt Nam.


Bảng 1: Số ATM và POS/triệu dân ở một số nước
Quốc gia
ATM POS
Bỉ 1.442 11.640
Canada 1.799 18.855
Pháp 832 21.469
Đức 968 7.221
Italia 922 22.490
Nhật Bản 1.090 13.361

Singapore 413 17.337
Anh 1.041 17.838
Mỹ 1.336 17.020
Trung Quốc 160,8 1.803,4
Việt Nam 116 430
Nguồn: BIS và tổng hợp của tác giả

Tại Việt Nam, từ năm 2005 đến nay, số lượng máy ATM mặc dù tăng
hơn 8 lần (từ 1.200 máy lên tới hơn 10.000 máy); số thiết bị chấp nhận thẻ
(POS) tăng 3,7 lần (từ 10.000 POS lên tới 37.000 POS hiện nay), hiện tương
đương với Philippines và Indonesia, và cách khá xa so với Thái Lan và
Trung Quốc.
So với các nước trong cùng khu vực, năm 2009, Chỉ số cạnh tranh
toàn cầu (GCI) của Việt Nam nâng lên 59 trên tổng số 139 nước năm 2010
(thay vì 75 trong năm 2009), tuy nhiên con số này vẫn còn cách xa Malaysia
(xếp thứ 24), Thái Lan (xếp thứ 36) và Indonesia (xếp thứ 54). Bên cạnh đó,
nếu xét về khả năng tiếp cận tín dụng cũng như tính sẵn có của các dịch vụ
tài chính hay mức độ lành mạnh của hệ thống ngân hàng, thì Việt Nam vẫn
còn kém hơn nhiều so với các nước trong cùng khu vực (hình 4).

Hình 4: Xếp hạng chỉ số cạnh tranh, mức độ dễ dàng tiếp cận nguồn vốn
vay, tính sẵn sàng của các dịch vụ tài chính và sự lành mạnh của khu
vực ngân hàng Việt Nam so với các nước trong khu vực năm 2009
5


Nguồn: Tổng hợp

Kết quả là, mặc dù chỉ số tín dụng/GDP của Việt Nam phát triển khá
nhanh, nhưng Việt Nam vẫn là một nước có mức độ thâm nhập ngân hàng

thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á, dưới 30% dân số tiếp cận dịch vụ
ngân hàng. Ước tính có khoảng 25 triệu tài khoản tiết kiệm trên 85 triệu dân.
Vẫn còn một bộ phận lớn dân chúng chưa gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng,
nên có một số lượng nguồn vốn tiết kiệm lớn chưa được sử dụng tại Việt
Nam. Trong khi đó, để duy trì mức tăng trưởng kinh tế nhanh của Việt Nam
yêu cầu một tỷ lệ đầu tư tương đối cao, trung bình khoảng 35% GDP trong
suốt giai đoạn 2000 - 2006 và hơn 40% GDP giai đoạn sau đó. Song không
giống như các nước Đông Nam Á khác như Indonesia, Maylaysia và
Philippines, tỷ lệ huy động tiền gửi của Việt Nam thấp hơn đáng kể và Việt
Nam đang phải đối mặt với sự thiếu hụt ngày càng tăng về nguồn vốn đầu tư
tương đương hơn 10% GDP, như miêu tả trong hình 5.

Hình 5. Thâm hụt về nguồn vốn đầu tư so với tiết kiệm nội địa của Việt
Nam
6



TÍNH LÀNH MẠNH VÀ NĂNG LỰC CỦA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG

Rủi ro thị trường và mức độ bảo vệ các nhà đầu tư
Dưới đây cho thể hiện thêm chỉ số so sánh về mức độ bảo vệ các nhà
đầu tư của Việt Nam so với các nước khác trong khu vực (hình 6).
Hình 6. Xếp hạng chỉ số lành mạnh của các ngân hàng và mức độ bảo
vệ các nhà đầu tư

Dù được xếp hạng khá cao về quy mô thị trường và khả năng sáng
tạo, Việt Nam vẫn bị đánh giá khá thấp về mức độ bảo vệ nhà đầu tư và sự
lành mạnh hệ thống ngân hàng. Trái phiếu phát hành vào đầu năm 2010 có

lãi suất cao so với các nước lân cận (lợi tức của trái phiếu Việt Nam cao hơn
khoảng 100 điểm cơ bản so với các đợt phát hành trái phiếu vừa qua của các
nước Indonesia, Philippines và Malaysia), do đó Việt Nam phải chịu chi phí
7

vay cao trong ngắn hạn, đồng thời trong mắt các nhà đầu tư, Việt Nam được
xem như có độ rủi ro cao hơn so với nhiều quốc gia lân cận.
Việc NHNN ban hành Thông tư 13 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10
năm 2010 (với những nội dung chính như tỷ lệ an toàn vốn cho các ngân
hàng được nâng lên từ 8,0% đến 9,0%; hạn chế cho vay kinh doanh khoán
và kinh doanh bất động sản; yêu cầu vốn tối thiểu từ 3 nghìn tỷ đồng (tương
đương 158 nghìn USD) vào cuối năm 2010) sẽ là những khung pháp lý ban
đầu đảm bảo năng lực quản lý rủi ro, và chất lượng của danh mục đầu tư vay
vốn của các ngân hàng.
Về quy mô vốn của một ngân hàng
Bảng 2 cho thấy mối quan hệ so sánh về quy mô vốn của một NHTM
trung bình và lớn trong khu vực.

Bảng 2: Quy mô vốn điều lệ của một số NHTM của các quốc gia
trong khu vực
Đơn vị: Triệu
USD
Quốc gia Vốn Quốc gia Vốn
INDONESIA MALAYSIA
Bank Mandiri 2.122

Maybank 4,102

Bank BNI 1.499


Public bank (PBB) 2,382

Bank central Asia 1.304

Commerce Asset - Holding

1,695

Bank Rakyat Indonesia 1.070

AMMB Holding 1,476

Bank Danamon
Indonesia 807

RHB Bank Berhad 1,179

Panin Bank 363

Hong Leong Bank 1,128

VIETNAM

THAILAND
Vietinbank 577

Bangkok Bank 3,178

BIDV 724


Siam Commercial Bank 2,189

Vietcombank 621

Kasikornbank 1,996

Agribank 1062

Krung Thai Bank 1,837

Sacombank 344

Siam City Bank 853

ACB 401

Thai Military Bank 802

Techcombank 355

Bank of Ayudhya 771

PHILIPINES SINGAPORE
Bank of Philippine
Islands 975

DBS Bank 9,623

Metropolitan Bank Et 704


United overseas Bank 6,297

8

Trust Company
Equitable PCI Bank 464

Oversea - Chinese Banking
Corporation 5,589

Nguồn: www.thebanker.com/top1000

Như vậy, có thể thấy quy mô vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam
còn quá nhỏ so với các ngân hàng trung bình trong khu vực. Tính đến thời
điểm cuối năm 2009, 4 NHTM có số vốn điều lệ vượt 10.000 tỷ đồng (tương
đương hơn 500 triệu USD), 15 ngân hàng có vốn điều lệ đạt 3.000 tỷ đồng
(tương đương gần 160 triệu USD), số còn lại thấp nhất là 1.000 tỷ đồng
(tương đương hơn 50 triệu USD) đang tiếp tục thực hiện kế hoạch tăng vốn
lên 3.000 tỷ đồng vào 2010.
Những ngân hàng có quy mô vốn lớn nhất toàn hệ thống như
Agribank, Vietcombank hay BIDV cũng chỉ có khoảng trên 800 triệu USD,
thấp xa so với những ngân hàng lớn của một số quốc gia trong khu vực (như
Ngân hàng Băng Cốc Thái Lan: hơn 3 tỷ USD, Ngân hàng DBS của
Singapore: hơn 9 tỷ USD, Ngân hàng Mandiri của Indonesia hơn 2 tỷ USD,
Ngân hàng Maybank của Malaysia hơn 4 tỷ USD và Ngân hàng Philippines
hơn 900 triệu USD). Hiện nay, mức vốn bình quân của 10 ngân hàng lớn của
Philipines cũng đã vào khoảng hơn 400 triệu USD; Indonesia hơn 800 triệu
USD; Malaysia và Thái Lan khoảng hơn 1000 triệu USD.
Những con số này phù hợp với nhận định về hệ thống ngân hàng Việt
Nam hiện nay là số lượng ngân hàng quá lớn, trong khi quy mô của từng

ngân hàng là nhỏ, nếu so sánh về quy mô trung bình của nhóm các ngân
hàng lớn ở các quốc gia phát triển nhất trong khu vực như Thái Lan,
Malaysia và Singapore và Indonesia.
Về chất lượng hoạt động
Mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn thấp so với hệ
thống ngân hàng trong khu vực.
Sự lớn mạnh của quy mô vốn, tài sản và tốc độ tăng trưởng của
nguồn vốn dần đáp ứng được tốc độ tăng trưởng của tài sản đã góp phần cải
thiện tỷ lệ an toàn vốn qua từng năm. Hiện nay, tỷ lệ này của Việt Nam trên
thực tế đã đáp ứng đủ yêu cầu về an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn mực quốc
tế Basel II (8%). Mặc dù vậy, nếu so sánh với mức bình quân 13,1% của các
ngân hàng khu vực châu Á Thái Bình Dương (gồm 52 ngân hàng thuộc 10
nước) và với tỷ lệ 12,3% của các ngân hàng của các nước châu Á mới nổi
(gồm 14 ngân hàng Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines) thì tỷ lệ của
hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp hơn rất nhiều (giữ ở
9

mức trên 10% với các NHTM lớn, riêng khối các NHTMNN vẫn chỉ đạt
9,6%).
Việc phân loại tín dụng, trong danh mục tài sản của ngân hàng, chiếm
tỷ trọng lớn vẫn là hoạt động tín dụng trong khi chất lượng tín dụng là thấp
trong khu vực. Với tỷ lệ nợ xấu ở mức 2,1% so với tổng dư nợ vào cuối năm
2008 và 2,2% vào cuối năm 2009, thì không chênh lệch quá nhiều so với các
nước trong khu vực tương đương Ấn Độ và Trung Quốc, nhưng được tính
theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) ít nghiêm ngặt hơn so với các tiêu
chuẩn quốc tế (IFRS) nên khó có thể so sánh và đánh giá chính xác (bảng 3).

Bảng 3: Tỷ lệ nợ xấu của một số nước Châu Á năm 2008
Đơn vị: %
Quốc gia Tỷ lệ nợ xấu (NPL)

tính trên % tổng dư nợ

Trung Quốc 2,4
Hồng Kông 0,9
Hàn Quốc 1,1
Ấn Độ 2,3
Malaysia 1,9
Indonesia 3,2
Singapore 1,4
Việt Nam 2,2
Nguồn: ADB


Hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả năng sinh lời
Hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả năng sinh lời của hệ thống
ngân hàng Việt Nam chưa tương xứng với mức độ gia tăng rủi ro và quy mô
hoạt động, đồng thời ở mức thấp so với các ngân hàng trong khu vực. Cùng
với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lợi nhuận khu vực ngân hàng Việt
Nam liên tục tăng. Tính đến cuối năm 2009, lợi nhuận toàn hệ thống ngân
hàng Việt Nam đạt 29.241 tỷ VND, tăng khoảng 3,7 lần so với năm 2005
(7.984 tỷ VND). Chi phí hoạt động của khu vực ngân hàng cũng tăng lên
tương ứng (hơn 90% năm 2009).
10

Sự tăng lên tương ứng giữa thu nhập và chi phí phản ánh sự ổn định
về lợi nhuận của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, nếu như tốc độ gia tăng của
chi phí vẫn được duy trì trong khi cơ sở hạ tầng hoạt động của khu vực ngân
hàng không có những thay đổi lớn thì đây là vấn đề đáng lưu ý bởi nó chứng
tỏ năng suất lao động trong khu vực ngân hàng thấp, do đó ảnh hưởng làm
giảm thu nhập và giảm năng lực tài chính của khu vực ngân hàng.

Về hiệu quả hoạt động, tỷ lệ bình quân lợi nhuận ròng sau thuế so với
tổng tài sản (ROA) mặc dù tăng đều qua các năm (lên tới 1,2% cuối 2009),
nhưng vẫn còn thấp so với một số nước châu Á mới nổi (Indonesia trung
bình khoảng 2%; Malaysia trung bình khoảng 1,5%; Philippines khoảng
1,5% và Singapore khoảng 1,4%).

KẾT LUẬN
Qua những số liệu so sánh tương đối ở trên, có thể rút ra một số kết
luận sau đây về khu vực ngân hàng Việt Nam:
Thứ nhất, tốc độ phát triển hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính
của Việt Nam là tương đối nhanh, qua đó cải thiện đáng kể của độ sâu tài
chính. Tuy nhiên, sự tăng trưởng về số lượng không tương đồng với chất
lượng tăng trưởng.
Thứ hai, số lượng ngân hàng lớn, nhưng quy mô của hầu hết các
NHTM Việt Nam là nhỏ hơn so với các ngân hàng có quy mô trung bình của
khu vực. Hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả năng sinh lời của hệ thống
ngân hàng Việt Nam hiện là thấp hơn so với mức bình quân của khu vực
ngân hàng các quốc gia dẫn đầu của khu vực.
Thứ ba, mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn thấp so
với hệ thống ngân hàng trong khu vực, xét trên 2 chỉ số: Tỷ lệ an toàn vốn
thấp, tỷ lệ nợ xấu còn nhiều vấn đề đáng lo ngại.

/>784/le+thu+hang.doc?MOD=AJPERES&CACHEID=55b6ce00455fa6b09b
e5db8f2d23f784


×