Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Luận văn thạc sĩ VNU LS địa vị pháp lý của thẩm phán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 82 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN TH THU THY

Địa Vị Pháp Lý của Thẩm phán

LUN VN THC S LUT HỌC

HÀ NỘI - 2018

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN TH THU THY

Địa Vị Pháp Lý của Thẩm phán
Chuyờn ngnh : Lý lun và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Xuân Đức

HÀ NỘI - 2018


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và thanh
tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để cho tơi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Thu Thủy

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA

8

THẨM PHÁN

1.1.

Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán, sự phát triển địa vị

8

pháp lý của Thẩm phán qua các thời kỳ, vị trí vai trị của
Thẩm phán
1.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán

8

1.1.2. Sự phát triển địa vị pháp lý của Thẩm phán qua các thời kỳ

12

1.1.3. Vị trí, vai trị của Thẩm phán

20

1.2.

22


Nội dung địa vị pháp lý của Thẩm phán, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong hoạt động xét xử

1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán

22

1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán

24

1.3.

25

Phân loại địa vị pháp lý của Thẩm phán

1.3.1. Địa vị pháp lý của Thẩm phán hình sự

27

1.3.2. Địa vị pháp lý của Thẩm phán dân sự

27

1.3.3. Địa vị pháp lý của Thẩm phán hành chính

28


Chương 2:

THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN

30

THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

2.1.

Thực trạng địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử án hình sự

30

2.1.1. Những quy định pháp luật trong xét xử án hình sự

30

2.1.2. Những bất cập và hạn chế

39

2.2.

41

Thực trạng địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết, xét
xử các vụ việc dân sự

2.2.1. Những quy định pháp luật trong xét xử dân sự


41

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


2.2.2. Những bất cập và hạn chế

53

2.3.

54

Thực trạng địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử các vụ
án hành chính

2.3.1. Những quy định pháp luật trong xét xử án hành chính

54

2.3.2. Những bất cập và hạn chế

56

Chương 3:

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ

60


PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN

3.1.

Yêu cầu tăng cường địa vị pháp lý của Thẩm phán trong thời

60

kỳ mới
3.2.

Quan điểm hoàn thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giai

61

đoạn hiện nay
3.2.1. Hoàn thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán phải trên cơ sở thể chế

61

hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp
3.2.2. Hoàn thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán đảm bảo phù hợp

62

các quy định của Hiến pháp năm 2013
3.2.3. Đổi mới, kiện toàn đội ngũ Thẩm phán đáp ứng yêu cầu, phù

63


hợp với điều kiện kinh tế, xã hội mới
3.3.

Một số giải pháp hồn thiện địa vị pháp lí của Thẩm phán

3.3.1. Tăng thẩm quyền cho Thẩm phán trong việc quyết định các

63
63

vấn đề liên quan đến tố tụng
3.3.2. Bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán

64

3.3.3. Nâng cao trình độ chun mơn, đạo đức nghề nghiệp của

68

Thẩm phán
3.3.4. Tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất và chính sách đãi ngộ đối

69

với Thẩm phán
3.3.5. Đảm bảo bản án, quyết định của Thẩm phán được thực hiện

72


trong thực tiễn
KẾT LUẬN

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, thực hiện Nghị
quyết 48/NQ-TW, Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020. Nghị quyết đã xác định Tòa án giữ vai trò trung tâm trong hệ
thống tư pháp, hoạt động của Tòa án là trọng tâm của hoạt động tư pháp. Đây
là bước phát triển cả về nhận thức và lý luận trong lĩnh vực tư pháp.
Trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu
quả và hiệu lực cao, trước nhiệm vụ đó ngành Tịa án là trung tâm của cải
cách tư pháp, có thể nói đây là cơng tác có vai trị quyết định của hoạt động
cải cách tư pháp. Vấn đề quan trọng nhất trong hoạt động tố tụng nói chung
và cơng tác xét xử nói riêng vẫn là yếu tố con người mà cụ thể trong hoạt
động xét xử là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký. Trong những năm
qua, vai trò của Thẩm phán giữ vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng,
việc xác định địa vị pháp lý của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng có ý

nghĩa hết sức quan trọng, xét cả về góc độ lý luận và thực tiễn. Bởi điều đó
khơng những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động
tư pháp nói chung và hoạt động của các chức danh tư pháp nói riêng, mà cịn
góp phần vào xây dựng các văn bản pháp luật về Tòa án, Thẩm phán cũng
như việc hướng dẫn chỉ đạo hoạt động của Thẩm phán, chế định địa vị pháp
lý của Thẩm phán. Vì vậy có thể nói rằng, hiệu quả hoạt động của ngành Tịa
án phụ thuộc một phần khơng nhỏ vào việc xác định đúng đắn địa vị pháp lý
của Thẩm phán trong hoạt động xét xử.
Những yêu cầu được đặt ra đối với Thẩm phán trong giai đoạn hiện nay:

1

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Thứ nhất, trong khoa học pháp lý mơ hình lý luận về địa vị của thẩm
phán chưa được xây dựng một cách thống nhất còn nhiều bất cập, nguyên tắc
độc lập xét xử chưa được thực hiện đầy đủ vẫn còn nhiều vướng mắc trong
hoạt động tố tụng của Thẩm phán khi giải quyết các vụ án, làm cho hiệu quả
xét xử của Tịa án chưa cao.
Thứ hai, hồn thiện hệ thống các quy định điều chỉnh về Tòa án nhân
dân và Thẩm phán. Trên cơ sở học tập từ các nước những vẫn phải giữ bản
sắc, nét riêng đặc trưng riêng của pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, quán triệt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở
công cuộc cải cách hệ thống các cơ quan tư pháp, nhằm từng bước đổi mới cả
về mặt tổ chức và hoạt động
Thứ tư, trong giai đoạn hiện nay đứng trước u cầu đó địi hỏi mỗi
Thẩm phán phải ln cố gắng, nỗ lực, trau dồi đạo đức cách mạng, trình độ
chun mơn, nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết, xét xử
các vụ án. Mỗi cán bộ Thư ký, Thẩm phán phải vững về chính trị, giỏi về nghiệp

vụ am hiểu pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm, tự rèn
luyện học tập chuyên đề làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh suốt đời
phấn đấu cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư, làm người cơng bộc, tận tụy,
trung thành của nhân dân thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cùng với những thành tựu chung trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo. Hệ thống Tịa
án có nhiều thay đổi và đã có những đóng góp tích cực và hiệu quả trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ cán bộ, Thẩm phán Tịa án nhân
dân các cấp khơng ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng, từng bước
được chuẩn hóa, các chế độ, chính sách đối với Thẩm phán được Nhà nước
quan tâm ngày một tốt hơn.
Chính vì vậy tác giả đã chọn đề tài "Địa vị pháp lý của Thẩm phán"
làm luận văn thạc sĩ nhằm đi sâu vào tìm hiểu vị trí, vai trị, trách nhiệm,

2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


quyền hạn của Thẩm phán trong ngành Tòa án nhân dân nói riêng và trong hệ
thống tư pháp nói chung, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị
pháp lý của Thẩm phán, từ đó nâng cao vị thế của Thẩm phán và hiệu quả giải
quyết xét xử các vụ án của Tịa án.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến thời điểm hiện tại, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa
học liên quan đến địa vị pháp lý của Thẩm phán được triển khai. Những đề tài
nµy đã và đang là cơ sở khoa học cung cấp cho tác giả luận văn cơ sở lý luận,
cơ sở khoa học để tiến hành việc nghiên cứu đề tài. Cụ thể là:
Bùi Thị Huyền, Bàn về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của thẩm
phán trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật

Hà Nội, 2001.
Lê Thị Thúy Nga, Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm
phán trong tố tụng dân sự Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2012, do TS. Bùi Thị Huyền hướng dẫn.
Đỗ Gia Thư, Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ở
nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, 2006.
Bùi Văn Lương, Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình
sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2006.
Đặng Mai Hoa, Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự
trước yêu cầu cài cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học, 2010.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên cũng đã phân tích các yếu
tố lý luận xung quanh chủ đề về địa vị pháp lý của Thẩm phán, nhưng đều
hướng đến việc phân định vai trị đó trong các quy trình tố tụng độc lập ví dụ
như: dân sự hoặc hình sự… mà chưa đi nghiên cứu một cách hệ thống, khái
qt các quy định về vai trị, vị trí, nhiệm vụ của Thẩm phán nói chung và
trong các loại hình tố tụng nói riêng. Bên cạnh đó, phần lớn các cơng trình
khoa học nói trên được các tác giả tiến hành khi Pháp lệnh Thẩm phán còn

3

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


hiệu lực và Bộ luật Tố tụng dân sự chưa được thông qua. Thời điểm hiện tại,
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có hiệu lực, Pháp lệnh Thẩm phán đã hết
hiệu lực, do đó những quy định về Thẩm phán đã có nhiều điểm mới, những
điểm thay đổi. Từ đó, tác giả luận văn cho rằng việc tiến hành nghiên cứu các
quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Thẩm phán ở Việt Nam là
cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích
- Mục đích của luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về
địa vị pháp lý của Thẩm phán, cung cấp hệ lý luận cho việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về Thẩm phán.
- Đánh giá được những những nội dung tiến bộ và chưa phù hợp của
pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của Thẩm phán.
- Đưa ra những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
điều chỉnh pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán, góp phần thúc đẩy việc
nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu vận dụng quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải
cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vào việc
hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán.
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật về
địa vị pháp lý của Thẩm phán, khái niệm, vị trí vai trị của Thẩm phán, hoàn
thiện pháp luật về Thẩm phán theo yêu cầu cải cách tư pháp. Lịch sử hình
thành và phát triển pháp luật về Thẩm phán từ năm 1945 đến nay.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong
thực tiễn hiện nay, làm rõ những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong nhận thức
địa vị pháp lý của Thẩm phán.

4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


- Đề ra những quan điểm và giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong hoạt động xét xử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về địa vị pháp lý của Thẩm phán bao gồm địa vị pháp lý của Thẩm phán
theo tố tụng hình sự năm 2003, tố tụng dân sự năm 2013, tố tụng hành chính
và theo luật Tổ chức Tòa án năm 2012...
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của Thẩm phán, cụ thể:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về địa vị pháp lý của Thẩm
phán như khái niệm, vai trò, vị trí của Thẩm phán, các loại Thẩm phán và ý
nghĩa của việc nghiên cứu, quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán.
- Nghiên cứu lược sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam
về địa vị pháp lý của Thẩm phán để làm sáng tỏ quá trình thay đổi, phát triển
của các nội dung này trong hệ thống pháp luật.
Trong sự giới hạn về thời gian và phạm vi, đề tài không đi nghiên cứu
thực tiễn áp dụng pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ ở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về củng cố địa vị pháp lý của
Thẩm phán. Đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp theo
tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Tác giả luận văn tiến hành nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đề tài có sử dụng các phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống
như phương pháp phân tích để làm rõ các vấn đề lý luận, các quy định của
pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán; phương pháp khái quát, tổng hợp
để làm đưa ra những kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý
của Thẩm phán...
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình khoa học nghiên cứu và hoàn thiện địa vị của
Thẩm phán trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính của Tịa án nhân dân. Đề xuất một số giải pháp cụ thể để hoàn thiện
pháp luật, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và quan điểm của Đảng và
Nhà nước về địa vị pháp lý của Thẩm phán.
Đánh giá đúng thực trạng, tình hình và khó khăn, vướng mắc trong
hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính của Thẩm
phán, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
Đề xuất các giải pháp có tính khả thi và kiến nghị nhằm nâng cao địa
vị pháp lý của Thẩm phán trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới.
7. Ý nghĩa của luận văn
Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án hình sự,
dân sự, hành chính và làm tài liệu tham khảo có giá trị trong việc nghiên cứu
giảng dạy cho cán bộ cơng chức ngành Tịa án, đáp ứng u cầu của tiến trình
cải cách tư pháp.

6


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa quan trọng
trong việc nâng cao vai trị, địa vị pháp lý của Thẩm phán để thực thi có hiệu
quả trong thực tiễn giải quyết, xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán.
Chương 2: Thực trạng địa vị pháp lý của Thẩm phán theo pháp luật
hiện hành.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của
Thẩm phán.

7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán, sự phát triển địa vị
pháp lý của Thẩm phán qua các thời kỳ, vị trí vai trị của Thẩm phán
1.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán
Ở nước ta, các thiết chế tổ chức có chức năng phát hiện, điều tra, truy
tố xét xử người vi phạm là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân

dân. Theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013:
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp… Tịa án có
nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [17]
Xét xử được hiểu là hoạt động do Tòa án thực hiện để xem xét và giải
quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động, kinh tế với việc tuân
thủ nghiêm ngặt các đòi hỏi của pháp luật và trật tự pháp luật, có tính lập luận
cơng bằng và có ý nghĩa bắt buộc chung.
Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định việc xét xử sơ thẩm của Tịa
án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ
tục rút gọn. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
nghiêm cấm cơ quan tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm
phán, Hội thẩm. Theo quy định tại Điều 105 Hiến pháp 2013 thì việc bổ
nhiệm, phê chuẩn, miễn nhiệm, cách chức nhiệm kỳ của Thẩm phán... do
luật định. Vị trí độc lập của Thẩm phán được tiếp tục ghi nhận trong Điều 9
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Theo đó, Thẩm phán, Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân

8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức
nào. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi can thiệp vào việc xét xử của
Thẩm phán, Hội thẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật.

Việc nghiên cứu cũng cho thấy sự tách bạch và độc lập giữa Tòa án ra
khỏi hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp đã hình thành nên một đội
ngũ cán bộ mới trong bộ máy nhà nước làm nhiệm vụ xét xử từ trước đến nay
đó là Thẩm phán [10, tr. 16]. Theo đó, Thẩm phán là một chức danh thuộc bộ
máy tư pháp thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Kết quả
nghiên cứu cho thấy có nhiều định nghĩa về Thẩm phán, trong đó có cả định
nghĩa được các nhà nghiên cứu thực hiện trong các cơng trình nghiên cứu và cả
định nghĩa được thể hiện trong các văn bản pháp luật. Chẳng hạn như: "Thẩm
phán là một chức danh Nhà nước trong hệ thống Tòa án các cấp. Tác giả Đỗ
Gia Thư cho rằng: "Thẩm phán là người làm việc trong cơ quan Tòa án,
chuyên xét xử các vụ án và giải quyết các vụ việc theo thẩm quyền của Tòa
án, ra bản án, quyết định nhân danh Nhà nước" [25, tr. 17].
Theo luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định định nghĩa
"Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật này
được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử" [18]
Theo khái niệm này thì thẩm phán phải có đủ điều kiện và tiêu chuẩn
và được Chủ tịch nước bổ nhiệm theo thủ tục do pháp luật quy định. Điều này
có nghĩa là chức danh Thẩm phán phải do người đứng đầu Nhà nước bổ
nhiệm chứ khơng phải là người đứng đầu ngành Tịa án có thẩm quyền quyết
định, nhiệm vụ chính mà Thẩm phán được giao là xét xử.
Cũng theo luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì tương ứng với
ba cấp Tịa án có ba ngạch Thẩm phán tương ứng và thẩm quyền bổ nhiệm
đối với các ngạch Thẩm phán này cũng khác nhau và để được bổ nhiệm làm

9

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Thẩm phán thì cán bộ Tịa án phải đáp ứng những điều kiện và tiêu chuẩn về

bổ nhiệm Thẩm phán do pháp luật quy định
Theo Từ điển tiếng Việt "địa vị" là vị trí, chỗ đứng xứng đáng với vai
trị, tác dụng có được hay "địa vị là vị trí cá nhân trong quan hệ xã hội do
chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt được coi trọng ít hay nhiều; vị trí
trong quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị do vai trị tác dụng mà có" [29, tr. 305].
Bên cạnh đó, theo Từ điển Luật học thì "địa vị pháp lý" là "vị trí của
chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ
sở các quy định pháp luật, địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện một
cách tổng thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong
các hoạt động của mình" [32, tr. 244].
Như đã nói ở trên Thẩm phán trước hết phải hiểu đó là người - chuyên
hành nghề xét xử. Công việc xét xử của Thẩm phán được là một nghề - nghề
có tính đặc thù. Bởi lẽ, chỉ có Tịa án mới có chức năng xét xử. Tính đặc thù
nghề nghiệp của Thẩm phán được thể hiện ở chỗ: Nghề này có ảnh hưởng lớn
đến tính cơng minh của pháp luật, uy tín về nền cơng lý của một quốc gia, lao
động của Thẩm phán chính là lao động trí óc, đầy khó khăn phức tạp dưới sự
giám sát nghiêm ngặt của xã hội và công dân. Thẩm phán là người đại diện
cho Nhà nước trực tiếp áp dụng pháp luật, do vậy sự công bằng, khách quan
và độc lập khi tiến hành tố tụng là không thể thiếu được của người Thẩm
phán, hoạt động của Thẩm phán gắn liền với việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cơng dân, tổ chức. Thẩm
phán hoạt động theo một trình tự pháp lý chặt chẽ được quy định trong pháp
luật tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính; khi xét xử Hội
đồng xét xử nhân danh nhà nước để ra bản án hoặc quyết định.
Do đó địa vị pháp lý của Thẩm phán là những quy định pháp luật xác
định tư cách tố tụng và vị trí (chỗ đứng) của Thẩm phán so với các chủ thể
khác khi tham gia vào quá trình tố tụng nói chung và các quy trình tố tụng
chun ngành nói riêng.

10


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Các quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán tập trung tại các văn
bản như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; các nghị quyết của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; các thơng tư có liên quan.
Như vậy, địa vị pháp lý của Thẩm phán được hiểu là tổng thể các vị
trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được pháp luật tố tụng (tố tụng
hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính) trao cho họ khi thực hiện các
hoạt động tố tụng nhân danh Nhà nước và các hoạt động tố tụng khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án.
Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt địa vị pháp lý của Thẩm phán với tư
cách là một chức danh được nhân danh nhà nước với địa vị pháp lý của người
Thẩm phán khi họ với tư cách là một công dân, cán bộ, cơng chức nhà nước.
Dưới góc độ của một cơng dân, Thẩm phán cũng có đầy đủ các quyền
và nghĩa cơ bản của một công dân được pháp luật hiện hành quy định. Quyền
và nghĩa vụ này được quy định cụ thể trong Hiến pháp- văn bản có giá trị
pháp lý cao nhất.
Dưới góc độ là cán bộ, cơng chức nhà nước, Thẩm phán được hưởng
các quyền và phải chịu các nghĩa vụ của một cán bộ, công chức nhà nước
theo luật cán bộ công chức quy định. Tuy nhiên, không phải mọi quyền và
nghĩa vụ của cán bộ, công chức nhà nước đều được áp dụng cho Thẩm phán
vì xuất phát từ chính tính đặc thù của nghề nghiệp mà Thẩm phán đảm
nhiệm. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ
chức Tịa án nhân dân năm 2014 đã quy định quyền và nghĩa vụ riêng biệt
của người Thẩm phán phù hợp với nghề nghiệp của Thẩm phán. Ví dụ:
Thẩm phán khơng được "Tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người
tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác

không đúng quy định của pháp luật" (Khoản 2 Điều 77 Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014).

11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1.1.2. Sự phát triển địa vị pháp lý của Thẩm phán qua các thời kỳ
Sau một quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy các quy định về chế
định Thẩm phán ngày càng được khẳng định và hoàn thiện hơn nữa. Các quy
định về Thẩm phán ở các giai đoạn lịch sử là khác nhau, gắn với những dấu
mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Trong các giai đoạn lịch sử, từ khi giành
được chính quyền, pháp luật Việt Nam nói chung đều ln coi trọng việc quy
định về vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của Thẩm phán.
1.1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959
Ngày 24/01/1946, ngay sau khi dành được chính quyền, để phục vụ
xây dựng và củng cố chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
13/SL về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Sắc lệnh này được coi là
cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc tổ chức, vận hành các cơ quan tư pháp nói
chung và quy định chức năng, nhiệm vụ, vai trị của Thẩm phán nói riêng. Nội
dung Sắc lệnh khẳng định rõ: Tòa án được tổ chức theo địa giới hành chính
bao gồm: Tịa sơ cấp, Tịa đệ nhị cấp và Tịa Thượng thẩm. Ngồi ra, cịn có
Ban tư pháp xã, phường cũng nằm trong hệ thống các cơ quan xét xử - những
quy định này tồn tại đến năm 1960 (cụ thể là ngày 14/7/1960).
- Đối với Tòa sơ cấp (mỗi phủ, quận, huyện, châu có một Tịa sơ cấp)
có một Thẩm phán, một lục sự, một Thư ký giúp việc cho Thẩm phán (theo
Điều 9, Sắc lệnh 13). Nhưng điều đặc biệt là Tịa sơ cấp có thể ngày nào cũng
xử kiện ngay cả chủ nhật hay ngày lễ (Điều 10 Sắc lệnh số 13). Quy định này
cho thấy, Thẩm phán Tòa sơ cấp thời kỳ này có tần suất làm việc quá lớn.

- Đối với Tòa đệ nhị cấp được tổ chức ở mỗi tỉnh và các thành phố lớn
như Hà Nội, Hải Phịng, Chợ Lớn… (có thể nhận định tương đương Tịa án
cấp tỉnh hiện nay). Đối với Tịa này thì chỉ có án về dân sự và thương sự thì
mới một Chánh án xét xử một vụ việc (Điều 17 Sắc lệnh 13).
- Đối với Tòa thượng thẩm ở mỗi kỳ có 2 Tịa làm nhiệm vụ "phúc lại
các án tiểu hình và đại hình" (theo quy định của Điều 38, Sắc lệnh số 13).

12

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Trong Tòa này Thẩm phán tham gia xét xử phần lớn các vụ việc, đặc biệt đối
với việc hình, việc họ và thương mại sẽ do Chánh án và hai Hội thẩm quyết
nghị mà khơng có sự tham dự của Phụ phẩm nhân dân (Điều 43, Sắc lệnh 13).
- Đối với Ban tư pháp xã: Cơ quan này được tổ chức ở mỗi xã và làm
nhiệm vụ hòa giải tất cả các vụ việc về dân sự và thương sự.
Nhìn chung, các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm
phán lần đầu tiên được ghi nhận trong Sắc lệnh số 13. Giai đoạn này phần lớn
các tranh chấp chủ yếu phát sinh là tranh chấp về dân sự và thương sự thì đã
được thực hiện bởi Ban tư pháp xã. Thẩm phán trong giai đoạn này cũng đã
bắt đầu được định danh dưới "thân phận của người thực hiện việc xét xử hay
xử án. Sắc lệnh số 13 là văn bản lần đầu tiên khẳng định: "Các vị Thẩm phán
sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào
hoạt động tư pháp" [4, Điều 47], "Thẩm phán xử án quyết định theo pháp luật
và lương tâm của mình. Khơng quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay
gián tiến vào công việc xử án" [4, Điều 50]. Những quy định này cho thấy,
Thẩm phán là chủ thể giữ vị trí vơ cùng quan trọng. Để đảm bảo được tính
hiệu quả trong hoạt động của Thẩm phán, Sắc lệnh này cũng đã có những quy
định sơ khai về các tiêu chí tuyển chọn Thẩm phán ví dụ như: Thẩm phán Tòa

đệ nhị phải do Chủ tịch nước bổ nhiệm, Thẩm phán Tòa sơ cấp do Bộ trưởng
Bộ Tư pháp bổ nhiệm… khi thỏa mãn những điều kiện cụ thể. Sắc lệnh cũng
đã quy định về nguyên tắc làm việc của Thẩm phán tại Điều 80, Điều 83,
Điều 84, Điều 85. Ví dụ: "Các Thẩm phán phải tơn trọng Chính phủ và trung
thành với chính thể dân chủ cộng hịa" hay: "Trong đời tư cũng như đời công,
các Thẩm phán phỉ cư xử đúng mực và biết tự trọng để giữ thanh danh và
phẩm cách của một vị quan tòa"… Thời kỳ này, Sắc lệnh số 13 cũng đã ghi
nhận những quyền lợi của người Thẩm phán như được quyền ra các bản án,
quyết định để giải quyết một vụ việc cụ thể, Ban tư pháp xã là cơ quan thi
hành các mệnh lệnh của Thẩm phán cấp trên…

13

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Ngoài Sắc lệnh số 13, trong giai đoạn này, vị trí, vi trị của Thẩm phán
cũng được ghi nhận rõ ràng hơn trong Sắc lệnh số 51 được ban hành ngày
17/04/1946 có nội dung về " ấn định thẩm quyền các Tịa án và sự phân cơng
giữa các nhân viên trong Tòa án". Văn bản này đã bước đầu quy định khá cụ
thể về vị trí, vai trị của Thẩm phán trong các giai đoạn của quy trình tố tụng,
Ví dụ: Thẩm phán Tịa sơ thẩm có quyền chung thẩm các vụ dân sự, thương
sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định không quá 150 đồng và các
khoản lệ phí (Điều 6)… Đặc biệt, tại Điều 15, văn bản này có quy định, Thẩm
phán Tịa sơ cấp có thêm nhiệm vụ kiêm phụ trách "tư pháp cảnh sát trong nội
hạt mình dưới quyền chỉ huy của ơng Biện lý".
Xem xét Điều 17 của sắc lệnh này ta thấy: So với Sắc lệnh số 13 thì
Sắc lệnh này quy định quyền hạn giữa Chánh án và Thẩm phán Tòa đệ nhị
cấp được xác định cụ thể, rõ ràng hơn.
Văn bản thứ ba ghi nhận về địa vị của Thẩm phán trong giai đoạn này

ra đời vào ngày 9/11/1946 đó chính là Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nội dung của Hiến pháp 1946
cũng đã ghi nhận vị trí, vai trị của Thẩm phán tại Điều 64 "Các viên Thẩm
phán đều do Chính phủ bổ nhiệm" hay "Trong khi xét xử, các viên Thẩm
phán chỉ tuân thủ theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp"
(Điều 69, Hiến pháp 1946).
Bên cạnh ba văn bản trên, vào năm 1948 xuất hiện một văn bản ghi
nhận thẩm quyền của Tòa sơ cấp và Tòa đệ nhị cấp để khắc phục những khó
khăn trong giai đoạn chiến tranh, đó chính là Sắc lệnh số 185/SL được ban
hành ngày 25 tháng 05 năm 1948 theo đó, có lẽ có thể thấy đây là thời kỳ
Thẩm phán có quyền lực vơ cùng to lớn: "về dân sự Thẩm phán sơ cấp có
quyền ra mệnh lệnh áp dụng các biện pháp bảo thủ cần thiết, khơng có giới
hạn nào" trong điều kiện giao thông bị điều kiện khách quan là chiến tranh
làm gián đoạn.

14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Văn bản thứ năm được ban hành trong thời kỳ này liên quan đến
Thẩm phán đó là Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/05/1950 quy định về cải cách bộ
máy tư pháp và Luật tố tụng. Bên cạnh việc đổi tên Tịa án thì Thẩm phán cấp
huyện cịn có thêm nhiệm vụ: "Chấp hành các án hình về khoản bồi thường
hay bồi hồn và các án hộ, mà chính Tịa án huyện hoặc Tịa án trên đã tun"
dưới sự kiểm sốt của ông Biện lý (Điều 19 Sắc lệnh số 85).
Ngày 5/2/1952, Bộ Tư pháp đã thông qua Thông tư số 2P-4, thông tư
này khẳng định Thẩm phán là công chức, là người chuyên trách thường xuyên
ở Tòa án, gánh vác nhiệm vụ theo dõi và bao quát mọi hoạt động của quy
trình tố tụng. Thẩm phán phải cùng với Hội thẩm nhân dân chịu trách nhiệm

chung trước Chính phủ và nhân dân về kết quả hoạt động của Tịa án
Tóm lại, theo đánh giá của người nghiên cứu, với sáu văn bản có nội
dung trực tiếp quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán, các quy định pháp
luật của Việt Nam trong giai đoạn này đã bước đầu nhận diện và khẳng định
vị trí, vai trị quan trọng của cá nhân các Thẩm phán trong hoạt động xét
xử. Những quy định này đóng vai trị là quy định nền tảng để hồn thiện các
quy định tư pháp nói chung về quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán
hiện nay.
1.1.2.2. Giai đoạn từ 1960 đến 1980
Nhận định chung: Trong giai đoạn này có một số quy định khá mới
mẻ về Thẩm phán: Thông thường các vụ án hình sự, dân sự đều thuộc thẩm
quyền của Tịa án phải được giải quyết tập thể và quyết định theo đa số nhưng
do Hiến pháp năm 1959 chưa đưa ra các quy định cụ thể về nguyên tắc hoạt
động này nên Thẩm phán được độc lập xét xử trong một số vụ án, tính chất
nghiêm trọng khơng phức tạp hoặc giá trị tranh chấp nhỏ. Đặc biệt, Thẩm
phán cịn có vai trị quan trọng trong q trình điều tra, hịa giải, có quyền ra
quyết định cơng nhận hịa giải thành giữa các đương sự mà quyết định đó có
hiệu lực như bản án. Thẩm phán thời kỳ này cũng có thẩm quyền áp dụng các

15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


biện pháp khẩn cấp tạm thời mặc dù trong giới hạn phạm vi rất nhỏ nhưng
cũng là căn cứ cho thấy tầm quan trọng của chức danh này. Những quy định
mới mẻ và tiến bộ về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giai đoạn này được
cụ thể hóa trong các văn bản sau:
Thứ nhất, quy định trong Hiến pháp 1959 và Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 1960 hay Pháp lệnh về tổ chức Tòa án nhân dân tối cao và Tòa

án nhân dân địa phương năm 1961. Các văn bản này khẳng định Tịa án có vai
trò quan trọng trong việc bảo về chế độ, bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ tài sản
và quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân… Thẩm phán trong thời kỳ này phải
là những người trung thành với Tổ quốc, với chế độ dân chủ nhân dân, tôn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của những cá nhân khác. Văn bản thời kỳ này
quy định: Thẩm phán tuân thủ theo chế độ bầu "Tòa án nhân dân thực hành
chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm, Tòa án nhân dân
gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân" (Điều 12 Luật Tổ chức Tịa
án năm 1960). Tuy nhiên, như đã nói dù Luật Tổ chức Tòa án đã quy định,
nhưng chưa được ghi nhận trong Hiến pháp, do đó, Thẩm phán thời kỳ này có
tính độc lập tuyệt đối trong những vụ án nhỏ được ghi nhận trong chính Điều 12
Luật Tổ chức Tịa án.
Thứ hai, trong Thơng tư số 2421 ngày 29/12/1961 của Tòa án nhân dân
tối cao về hướng dẫn chế độ Hội thẩm nhân dân có nêu rõ: Nếu trường hợp
xét xử khơng có Hội thẩm nhân dân tham gia thì người ngồi xử chỉ là Thẩm
phán (thơng thường là những vụ án mà giá ngạch nhỏ nhặt, tình tiết rõ ràng).
Thứ ba, trong giai đoạn này, sự xuất hiện của Thơng tư số 39/NCPL
ngày 21/01/1972 của Tịa án nhân dân tối cao lại một lần nữa quy định về
thẩm quyền mới cho Thẩm phán trong giai đoạn thụ lý, điều tra hòa giải các
tranh chấp, đặc biệt là tranh chấp dân sự. Ví dụ: Nếu thấy đơn kiện đã rõ ràng,
thuộc thẩm quyền của mình thì Thẩm phán được thụ lý giải quyết, được triệu
tập các đương sự đến Tòa để điều tra, hòa giải… hay Thẩm phán phụ trách

16

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


việc điều tra, hịa giải có thể ra những quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm
thời và những quyết định này phải được chấp hành ngay.

Thứ tư, bên cạnh những văn bản trên, Thông tư số 06 ngày 25/02/1974
của Tòa án nhân dân tối cao cũng một lần nữa khẳng định về vị trí, vai trị,
trách nhiệm của Thẩm phán trong việc điều tra: "Về nguyên tắc Thẩm phán
phải trực tiếp thực hiện việc điều tra" với những vụ kiện không quan trọng,
không phức tạp…
Cuối cùng, trong giai đoạn này cịn xuất hiện Thơng tư số 25 của Tịa
án nhân dân tối cao ngày 30/11/1974 hướng dẫn về việc hòa giải. Văn bản
này đã nhấn mạnh vai trò của Thẩm phán đối với hoạt động hịa giải: Thẩm
phán chính là người ra quyết định cơng nhận hịa giải thành và quyết định này
có hiệu lực như bản án.
1.1.2.3. Giai đoạn từ 1980 đến 1989
Giai đoạn sau khi thống nhất đất nước, ở Việt Nam, nhà nước ban
hành Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, Luật
sửa đổi bổ sung Luật tổ chức Tòa án năm 1988. Về cơ cấu tổ chức khơng có
nhiều thay đổi mang tính đột phá. Điểm mới của giai đoạn này chính là
nguyên tắc xét xử lần đầu tiên được quy định tại Điều 132 Hiến pháp năm 1980:
"việc xét xử tập thể và quyết định theo đa số". Nguyên tắc này cũng được cụ
thể hóa tại Luật tổ chức Tòa án năm 1981 sửa đổi năm 1988. Các quy định về
việc xét xử sơ thẩm của một Thẩm phán khơng cịn được áp dụng.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật giai đoạn này vị trí, vai trị của
Thẩm phán đối với các loại việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tịa án khơng
được xác định rõ ràng. Nhưng bên cạnh đó, các quy định về vai trị của Thẩm
phán trong hoạt động điều tra, hòa giải theo hướng dẫn tại Thông tư số 06/TATC
ban hành ngày 25 tháng 02 năm 1074 vẫn được áp dụng.
Nhận xét: Nhìn chung các quy định trong giai đoạn này của pháp luật
Việt Nam đã bắt đầu cụ thể hóa vai trị, vị trí của Thẩm phán khi tiến hành các
hoạt động xét xử.

17


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1.1.2.4. Giai đoạn từ 1990 đến 01/01/2005
Ngày 29 tháng 11 năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự được ban hành. Những quy định về tố tụng dân sự lần đầu tiên được cụ
thể hóa. Tuy nhiên, pháp lệnh mới chỉ dừng lại ở việc quy định cụ thể chức
năng, quyền hạn của Tòa án mà khơng có những quy định phân định cụ thể
nhiệm vụ, vai trò của Thẩm phán. Pháp luật thời kỳ này vẫn cơng nhận quyết
định hịa giải thành của một Thẩm phán khi Thẩm phán được giao giải quyết
một việc không có tranh tụng.
Năm 1992, Hiến pháp mới được ban hành là cơ sở cho việc tổ chức và
hoạt động của Tịa án nhân dân. Hiến pháp năm 1992 cũng có những quy định
về nguyên tắc cụ thể trong việc tổ chức và hoạt động của Tòa án và Thẩm
phán. Trong khoảng thời gian này, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992
cũng ra đời. Ngày 14/05/1993, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp
lệnh Thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Trong những văn bản pháp luật này
khẳng định: "Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa
quân sự, các Tòa khác do Luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Hoạt động tố tụng của Tòa án tuân thủ các nguyên tắc như: Nguyên
tắc "Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số" (Điều 129 Hiến pháp năm
1992; Điều 4, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992) hay nguyên tắc "Khi
xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật"
(Điều 130 Hiến pháp năm 1992, Điều 5 Luật Tổ chức Tịa án).
Nhìn chung, những văn bản này vẫn chưa nhìn nhận được chính xác,
cụ thể vai trị, vị trí của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng.
Trong giai đoạn này chứng kiến sự ra đời của văn bản pháp luật đầu
tiên quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, chính là
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993. Lần đầu tiên khái

niệm về Thẩm phán được đưa ra: "Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo

18

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


quy định của pháp luật và để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án".
1.1.2.5. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay
Giai đoạn này có thể nói là giai đoạn có nhiều chuyển biến trong hoạt
động ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và xây dựng các
văn bản nhằm nâng cao vị trí, vai trị của Thẩm phán nói riêng. Tính đến năm
2003, mới chỉ có Bộ luật Tố tụng hình sự được ban hành và là văn bản duy
nhất quy định cụ thể về hoạt động tố tụng. Thực trạng này dẫn đến các hoạt
động tố tụng được tiến hành nhưng sai thẩm quyền. Ngày 15/06/2004, Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2004 được ban hành với nhiều quy định nhằm đề cao vai
trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng dân sự.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán đã được ghi nhận cụ thể tại Điều 41
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Để cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự, ngày 31/3/2005, Nghị quyết số 01/2005 ra đời nhằm hướng dẫn
thi hành các quy định của phần thứ hai "Những quy định chung" của Bộ luật
Tố tụng dân sự. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng hành chính
đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết để Thẩm phán thực hiện các hoạt động tố tụng
của mình.
Tuy nhiên qua thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã
bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế, đồng thời khơng còn phù hợp với sự phát triển
của kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, ngày 01/01/2012, Bộ luật Tố tụng dân sự
sửa đổi năm 2011 có hiệu lực.

Bên cạnh đó, ngày 06 tháng 01 năm 2014 nhằm cụ thể hóa những quy
định của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức Tòa án nhân dân, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 719/2014/UBTVQH13 hướng dẫn về việc thực
hiện Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 quy định một số điểm thi
hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cụ thể hóa

19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014. Trong văn bản mới này, nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán có hai
điểm mới: (1) Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các ngạch
thẩm phán tòa án các cấp; (2) việc bổ nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao phải có thêm thủ tục phê chuẩn của Quốc hội. Chánh án Tịa án nhân dân
tối cao trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao. Căn cứ vào quyết định phê chuẩn của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ
nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao [31, tr. 503].
Giai đoạn này cũng chứng kiến sự ra đời mạnh mẽ của những văn bản
quy phạm điều chỉnh hoạt động tố tụng hành chính đặc biệt là sự ra đời của
Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và mới đây nhất là Luật Tố tụng hành
chính năm 2015.
Nhận xét: Giai đoạn này, các quy định của pháp luật cho thấy Thẩm
phán giữ vai trò quan trọng và không thể thiếu trong giai đoạn xét xử của tất
cả các quy trình tố tụng. Với mong muốn, nỗ lực cho hoạt động cải cách tư
pháp các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 và sắp tới là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 đã quy định rất rõ vai trị, vị trí của chức danh
Thẩm phán trong việc giải quyết các vụ án hình sự, vụ việc dân sự và vụ án

hành chính. Qua đó, nâng cao vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng
và nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử, giải quyết các tranh chấp trong xã hội,
đảm bảo được yếu tố an ninh, trật tự, ổn định và hịa bình…
1.1.3. Vị trí, vai trị của Thẩm phán
Tịa án là cơ quan có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng trong hệ thống
các cơ quan tư pháp, là nơi tổng hợp các hoạt động của các cơ quan điều tra,
truy tố, xét xử… Tòa án cũng là cơ quan kiểm tra, xem xét, đánh giá cơng
khai, khách quan mang tính quyền lực nhà nước hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng. Do đó, khơng hề nói q khi nói Tòa án và "mỗi phán quyết

20

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×