Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích đặc điểm hoạt động của Thẩm phán. Từ đó đưa ra mục đích, yêu cầu của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.93 KB, 12 trang )

ĐỀ BÀI
Phân tích đặc điểm hoạt động của Thẩm phán. Từ đó đưa ra mục đích,
yêu cầu của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán.
BÀI LÀM
I. KHÁI NIỆM VỀ THẨM PHÁN
1. Khái niệm Thẩm phán
Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà
án.1
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Nhiệm vụ của Thẩm phán được quy định tại Điều 11, Điều 13, Điều 15 Pháp
lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 (sửa đổi bổ sung 2011).
Ta có thể kể đến một vài nhiệm vụ như:
- Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử theo sự phân công của Chánh án Toà án nơi
mình công tác hoặc nơi mình được biệt phái đến.
- Thẩm phán phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật,...
- Không được làm những việc mà pháp luật cấm.
Quyền hạn của Thẩm phán được quy định tại Điều 12 Pháp lệnh TP và HT:
“Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành những quyết
định có liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác theo quy định
của pháp luật.”
3. Tiêu chuẩn của Thẩm phán
Tiêu chuẩn chung của TP được quy định tại Điều 5 Pháp lệnh TP và HT
TAND và Điều 37 Luật tổ chức Tòa án như sau: “Công dân Việt Nam trung thành
với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm
chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử,
có thời gian công tác thực tiễn, có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của
Pháp lệnh này, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.”
Ngoài ra một số tiêu chuẩn cụ thể được quy định tại Điều 20, 21, 22 Pháp lệnh
TP và HT năm 2002 (sửa đổi 2011).


Khi đáp ứng các điều kiện để trở thành Thẩm phán, các cá nhân được bổ nhiệm
theo quy định tại Điều 31 Pháp lệnh 2002.
II. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG CỦA THẨM PHÁN
Thẩm phán là một trong những người hoạt động nhân danh nhà nước, nhân
danh pháp luật và công lý. Lấy quy tắc ứng xử đạo đức nghề thẩm phán làm chuẩn
1

Điều 1 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002.

1


mực cho hành vi ứng xử nghề nghiệp. Căn cứ vào dấu hiệu cơ bản của một nghề
thì nghề thẩm phán có các đặc điểm hoạt động sau:
1. Về đối tượng lao động: Thẩm phán là nghề buộc phải tiếp xúc với con
người trên cả hai phương diện, sinh mệnh và chính trị-pháp luật và các bảo đảm vật
chất, bảo đảm sự sinh tồn đối với cuộc sống bình thường của cá nhân con người
trong điều kiện trung của xã hội. Tính chất của việc tiếp xúc giữa người hành nghề
thẩm phán với đối tượng của nghề nghiệp (hiểu theo nghĩa một hoạt động của
người thẩm phán) ở trạng thái rất đặc biệt, đó là gây ra các ảnh hưởng khác nhau
đến sinh mệnh và điều kiện sinh tồn của đương sự hoặc bị cáo.
2. Về mục đích lao động: Thẩm phán là nghề vừa có mục đích nhận thức đối
tượng, túc là tìm ra sự thật có liên quan đến đối tượng hoạt động nghề nghiệp thẩm
phán, vừa có mục đích biến đổi đối tượng theo cả nghĩa cải tạo giáo dục người
phạm tội và đem lại công bằng cho người có quyền và lợi ích hợp pháp. Mục đích
của nghề thẩm phán luôn được thể hiện trên hai bình diện là bảo vệ quền và lợi ích
của cá nhân cũng như của xã hội.
3.Về công cụ lao động: Nghề thẩm phán là nghề mà công cụ lao động hoàn
toàn khác so với các nghề khác trong xã hội. Công cụ lao động của ngề thẩm phán
là pháp luật. Thông qua hoạt động sử dụng viện dẫn áp dụng pháp luật dựa vào

pháp luật để tác động tới các quan hệ xã hội phát sinh giữa con người với nhau
hoặc các tổ chức. Toàn bộ hoạt động lao động nghề ngiệp của nghề thẩm phán
được bảo vệ được thúc đẩy và diễn ra trong khuôn khổ pháp luật với trình tự thủ
tục do pháp luật quy định.
4.Về điều kiện lao động: Thẩm phán là nghề gắn với môi trường bảo vệ, thực
thi “quyền lực tư pháp” của nhà nước. Cùng với công cụ pháp luật, người hành
nghề thẩm phán đòi hỏi phải tuân thủ quy tắc đạo đức, nghề ngiệp nghiêm ngặt với
chắc năng nghề ngiệp là bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức và xã hội, lợi ích nhà nước, bảo vệ công lý, công bằng xã hội.
Môi trường lao động của nghề thẩm phán gắn với môi trường chính trị pháp lý và
luôn chịu sự kiểm soát của pháp luật cũng như sự giám sát của nhân dân.
5. Về sản phẩm lao động: Sản phẩm lao động của nghề thẩm phán cũng vô
cùng đặc biệt so với sản phẩm lao động của các nghề nghiệp khác. Đó là nhân danh
nhà nước, nhân danh pháp luật để ra các bản án chứa đựng những phán quyết về
việc giải quyết vụ án theo hướng có tội hay không có tội và đúng hay sai. Phán
quyết của thẩm phán có tác động trực tiếp tới sinh mệnh và sự nghiệp của một
người nên nếu thẩm phán phán quyết sai thì hậu quả tổn hại về tài sản, tính mạng
danh dự, nhân phẩm của cá nhân và tập thể là rất to lớn và không thể bù đắp.
2


Với các đặc điểm cơ bản nêu trên có thể thấy nghề thẩm phán là nghề nghiệp
đặc thù trong hệ thống nghề ngiệp xã hội thuộc nhóm nghề luât (luật sư, thẩm
phán, kiểm sát viên..) trong đó người hành nghề phải đáp ứng các tiêu chí nghề
nghiệp nhất định và được đào tạo, bổ nhiệm theo phương thức, trình tự thủ tục đặc
thù chú không thể dựa vào ý chí và sự lựa chon của người hành nghề.
III. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRONG
HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CỦA THẨM PHÁN
1. Kỹ năng xây dựng mối quan hệ.
a. Mục đích

Xây dựng mối quan hệ là kỹ năng mà một thẩm phán không thể thiếu Kỹ năng
này giúp cho Thẩm phán có thể thành công trong giai đoạn hòa giải trước khi
chuẩn bị xét xử hay trong giai đoạn xét xử.
Xây dựng mối quan hệ nhằm vừa tạo sự gần gũi, sự thoải mái cho đương sự
nhưng vẫn toát lên vẻ uy nghiêm, công minh, trang trọng , nghiêm túc cho dù là ở
giai đoạn nào.
b. Yêu cầu
Thẩm phán cần tạo ấn tượng ban đầu cho các đương sự khi gặp mặt. Dù là ở
giai đoạn nào thì một thẩm phán cũng cần phải đạt được một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, về khâu chuẩn bị cho cuộc gặp mặt.
Trước tiến hành phiên hòa giải, thẩm phán phải có những thông tin cơ bản của
các đương sự, về vụ án hay vụ việc. Đây là yêu cầu bắt buộc của thẩm phán khi
tiến hành hòa giải vì nếu không biết được thông tin cơ bản của đương sự hay của
vụ việc, thẩm phán sẽ không thể nắm bắt được nội dung mà các bên nói, tranh luận
cũng như không thể định hướng cho các đương sự tiến tới một kết quả tốt đẹp là
hòa giải thành.
Trang phục của thẩm phán cần phải nghiêm chỉnh, không có màu sắc quá lòe
loẹt hay quá diêm dúa. Không khí buổi hòa giải có trang nghiêm hay không, đương
sự cảm thấy được tôn trọng hay không hoặc thẩm phán được tôn trọng như thế nào
đều tùy thuộc vào trang phục của thẩm phán đang mang trên người.
Thứ hai, các kỹ năng xã giao của thẩm phán cũng cần có những yêu cầu nhất
định. Từ cách bắt tay, mời nước, lắng nghe, xưng hô… đều phải thể hiện sự uy
nghiêm nhưng không xa cách đối với các đương sự.
Thứ ba, khi bắt đầu tiến hành hòa giải, thẩm phán là người tuyên bố tiến hành
phiên hòa giải, sau khi kiểm tra thông tin đương sự và tóm tắt vụ việc, ra quyết
định mở phiên hòa giải, thẩm phán phải là người duy trì cuộc thỏa thuận giữa các
bên,tận dụng cơ hội để hướng các bên tranh chấp tới một kết quả đẹp nhất là hòa
3



giải thành. Khi thấy không thể hòa giải được, tp nên kết thúc đúng lúc để không tạo
cảm giác chán, mệt mỏi giữa các bên. Ngoài ra, cần có các thao tác bắt tay, kết
thúc một cách lịch sự- một yêu cầu tối thiểu cho phong cách một thẩm phán.
Dù là trong hòa giả hay khi xét xử, câu nói của thẩm phán cần đơn giản, ngắn
gọn nhưng vẫn truyền tải được nội dung của ý muốn truyền đạt, không biểu lộ sắc
thái tình cảm hay thái độ thiên vị bên nào. Sắc mặt hay cử chỉ phải trang nghiêm,
thể hiện sự chí công vô tư, tạo cho đương sự cảm giác công bằng và được tôn
trọng.
2. Kỹ năng nghe.
a. Mục đích
Kỹ năng lắng nghe thể hiện ở chỗ người nghe biết điều chỉnh mình, dừng nói,
dừng nghĩ, tập trung vào các từ ngữ mà đương sự nói ra mà không xem xét các mối
quan hệ khác. Có kỹ năng nghe tốt sẽ giúp cho thẩm phán nắm bắt được thông tin
cần thiết về vụ việc khi các đương sự trình bày trong quá trình xét hỏi, lấy thêm
thông tin cho việc xét xử.
b. Yêu cầu
Khi lắng nghe, thẩm phán cần phải có những kỹ năng sau: biết kiên nhẫn chờ
đợi đương sự trình bày, lọc những thông tin quan trọng nhất trong quá trình đương
sự trả lời; tập trung lắng nghe, không bận tâm với việc khác… Vội vàng rút ra kết
luân, có thành kiến trước với đương sự hay thiếu sự đồng cảm, có thái độ tiêu cực
với đương sự và vấn đề của họ là những yếu tố khiến cho thẩm phán không có quá
trình nghe tốt nhất, có thể khiến cho đương sự thất vọng khi không được coi trọng
hay không có được hướng giải quyết vụ án sau khi đã qua phần xét hỏi và tranh
luận.
Thẩm phán cần tạo cho mình cách nghe đúng khi giao tiếp, kết hợp với các
phương tiện phi ngôn ngữ khác như ánh mắt, gật đầu… để tạo được kết quả tốt
nhất trong mọi hoàn cảnh.
3. Kĩ năng hỏi.
a. Mục đích:
Kĩ năng đặt câu hỏi đối với thẩm phán là vô cùng quan trọng. Đặt câu hỏi là

việc đưa ra những thông điệp nhất định tác động đến đối tượng để họ cung cấp
thông tin cần thiết, do đó việc đặt câu hỏi giúp điều khiển quá trình cung cấp thông
tin ở các đương sự. Mục đích của kĩ năng hỏi đó chính là khai thác thông tin một
cách hiệu quả hơn. Như chúng ta đã biết trong quá trình giải quyết vụ án thì đương
sự chỉ trình bày những vấn đề có lợi cho họ còn những tình tiết không có lợi thì họ
sẽ không tự giác cung cấp. Vì vậy để có thể xác định đúng đắn vụ án thì thẩm phán
4


phải sử dụng kĩ năng hỏi. Thông qua việc hỏi các đương sự sẽ trình bày những tình
tiết liên quan đến vụ án.
b. Yêu cầu:
Để làm được điều này thì thẩm phán phải biết đặt câu hỏi để làm sáng tỏ, diễn
biến tính chất sự việc liên quan đến mặt pháp lí và những nội dung mà đương sự
quan tâm. Chẳng hạn tại phiên tòa xử vụ án tranh chấp về từa kế quyền sử dụng đất
thì thẩm phán phải hỏi các đương sự về việc có di chúc về việc chia di sản hay
không, nếu có di chúc hợp pháp thì chia theo di chúc nếu không có thì chia theo
pháp luật, các chứng cứ mà các đương sự chứng minh quyền của mình, lí do tranh
chấp...Trong quá trình đưa ra câu hỏi thẩm phán phải biết sử dụng các câu hỏi hợp
lí sao cho câu trả lời sau có thể kiểm tra câu trả lời trước của các đương sự. Biết sử
dụng những câu hỏi để điều khiển giao tiếp trong việc thu thập thông tin.Tùy vào
mục đích hỏi và trường hợp cụ thể mà có cách hỏi khác nhauKhi hỏi phải tạo ra
bầu không khí phù hợp không nên tạo ra bầu không khí quá căng thẳng với khuôn
mặt lạnh như tiền và sử dụng liên tục những câu truy vấn”tại sao”.Ngoài ra trong
quá trình hỏi thẩm phán phải biết kết hợp giữa việc sử dụng ngôn ngữ và các
phương tiện phi ngôn ngữ trong việc đặt câu hỏi như cử chỉ,nét mặt,giọng điệu...
4. Kĩ năng phản hồi.
a. Mục đích.
Mục đích của việc sử dụng kĩ năng phản hồi của thẩm phán là việc sử dụng
ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ khác nhằm tác động đến bị cáo cung cấp

thái độ tâm lý và thu thập thông tin hiệu quả. Trong hoạt động nghề nghiệp của
mình không phải lúc nào thẩm phán cũng chỉ lắng nghe các đương sự, người có
liên quan trình bày mà trong quá trình đó thẩm phán phải sử dụng kĩ năng phản
hồi. Chẳng hạn khi gặp trường hợp đương sự trình bày dài dòng không đi vào chủ
đề thì thẩm phán yêu cầu trả lời đúng vấn đề không được nói lan man. Hay trong
trường hợp thẩm phán nghi ngờ lời khai của các đương sự thì thẩm phán có thể sử
dụng các câu hỏi phản hồi để xác minh như: “đây có phải là sự thực không”...
b. Yêu cầu:
Để phản hồi thông tin có hiệu quả Thẩm phán cần: Phản hồi một cách cụ thể,
rõ ràng; thông tin trung thực, chính xác: Thẩm phán xem xét tất cả các tình tiết vụ
án bằng tư duy tổng thể tức thẩm phán dựa vào quan điểm của các nhân trên cơ sở
quy định của pháp luật để nhận định, đánh giá về các tình tiết, sự kiện của vụ án và
phải xem xét quan điểm của Cơ quan điều tra cũng như Viện kiểm sát cuối cùng,
sau khi đã nghiên cứu, đánh giá đầy đủ các tình tiết của vụ án. Trên cơ sở lắng
nghe những ý kiến của luật sư, kiểm sát viên, bị cáo, người làm chứng…Thẩm
5


phán đưa ra nhận định, ý kiến phản hồi. Ý kiến phản hồi phải cụ thể, rõ ràng, chính
xác. Để nâng cao hiệu quả xét xử, mỗi lần phản hồi Thẩm phán nên xoáy vào
những điểm mấu chốt, trọng tâm, tránh lan man… Trong phản hồi, Thẩm phán nên
thăm dò nhu cầu và tâm lý của người nhận phản hồi, kiểm tra xem họ có hiểu đúng
ý phản hồi của mình không. Trong quá trình phản hồi cũng nên chú ý tới việc sử
dụng ngôn ngữ, điều chỉnh thái độ phù hợp.
Với tư cách là người nhận phản hồi, Thẩm phán nên lắng nghe và tóm tắt
các ý kiến phản hồi chính, nếu cần nên hỏi lại cho rõ để đảm bảo mình hiểu đúng
ý phản hồi của người tham gia tố tụng. Xử lý thông tin và ghi nhận hoặc giải
trình, đưa tiêu chí để nhận được những phản hồi rõ và cụ thể cũng là một việc quan
trọng mà thẩm phán cần lưu ý trong quá trình phản hồi.
5. Kỹ năng thuyết phục

Thuyết phục là đưa ra tình tiết, sự kiện, phân tích, giải thích làm cho người
khác thấy đúng, thấy hay mà tin theo, làm theo.
Kỹ năng thuyết phục là một trong những kí năng quan trọng và cần thiết cho
một thẩm phán. Thuyết phục người khác là một công việc không hề đơn giản bởi
có thể thấy bất kì ai, khi đã có quan điểm ý kiến về một vấn đề nào đó, cũng có
niềm tin nhất định vào ý kiến của mình và không muốn tiếp thu ý kiến của người
khác. Thêm vào đó, không phải ai cũng biết cách thuyết phục người khác, thay đổi
suy nghĩ ban đầu của họ. Thẩm phán muốn thực hiện tốt công việc của mình và có
những phán quyết thuyết phục thì cần phải có một kỹ năng tốt để đưa ra những lập
luận chặt chẽ. Để thuyết phục có hiệu quả, thì thẩm phán cần chú ý các vấn đề sau:
Thứ nhất, tạo không khí bình đẳng là điều cần chú ý bởi nó làm cho người đối
thoại cảm thấy thoải mái, được tôn trọng, làm giảm sự đề phòng và phản kháng của
họ. Nhiều người vẫn có suy nghĩ sai lầm rằng phải dùng hết sức mạnh uy quyền
của mình để khuất phục người đối thoại và buộc họ thay đổi ý kiến quan điểm , lập
trường của mình. Thực chất, cách thuyết phục đó sẽ gặp khó khăn rất lơn bởi người
đối thoại sẽ cố hết sức để phòng thủ, chóng trả và nếu có thay đổi quan điểm cũng
luôn cảm thấy bị chèn ép, bấy mãn và không được lâu bền.
Thứ hai, tôn trọng và lắng nghe người đối thoại: khi cho người đối thoại có cơ
hội được trình bày quan điểm, ý kiến của mình, người nghe nên lắng nghe thật bình
tĩnh từ đó tìm ra những sơ hở trong quan điểm của họ vì thiếu thông tin hay cân
nhắc chưa thấu đáo. Dựa vào đó thẩm phán có thể làm họ mất tự tin và có thể dễ
dàng đưa ra ý kiến của mình làm thuyết phục mọi người.
Thứ ba, lời nói cần phải nhã nhặn, ôn tồn, lịch sự đồng thời phải có sơ sở căn
cứ rõ ràng. Khi muốn người khác thừa nhận mình, tạo ra được uy thế và làm ời nói
6


có trọng lượng hơn cần phải tỏ thái độ bình tĩnh, điềm đạm, lịch sự,nhã nhặn và
cân nhắc từ nhữ khi dùng.
Thứ năm, cần phải tác động đồng thời đến cả nhận thức, tình cảm và ý chí của

người đối thoại. Hành động của con người không chỉ bị chi phối bởi nhận thức, ý
chí mà còn bời cảm tính. Trong nhiều trường hợp, ý chí là chưa đủ mạnh để từ bỏ
cái sai. Bởi vậy, trong thuyết phục, ngoài việc đưa ra lý lẽ, phân tích, chứng minh
cho người đối thoại thấy rõ đúng sai mà còn phải gợi lên những tình cảm nhất định
để động viên, khích lệ họ.
6. Kỹ năng thuyết trình
Thuyết trình hay còn gọi là diễn thuyết, là nói chuyện trước nhiều người về
một vấn đề nào đó một cách có hệ thống. Thuyết trình là một kỹ năng mà thẩm
phán sử dụng rất nhiều trong hoạt động của mình như khi hòa giải, khi tuyên án.
Thông thường bài thuyết trình bao gồm phần mở đầu, phần nội dung và kết
thúc. Phần mở đầu thẩm phán cần giới thiệu bản thân, nói rõ chủ đề và mục đích.
Phần nội dung bao gồm vấn đề trình bày những ý chủ yếu cần nói, tóm tắt và kết
luận. Phần kết thúc sẽ là giải đáp câu hỏi và từ biệt.
Để có thể thuyết trình hay nói chuyện trước đám đông một cách tự tin, đường
hoàng và dễ đi vào lòng người cần phải có sự chuẩn bị chu đáo trước đó, thẩm
phán phải là người hiểu và nắm rõ nội dung của buổi gặp mặt để có thể tìm hiểu
thông tin liên quan, nắm chắc kiến thức về vấn đề sẽ được đưa ra trong buổi gặp
mặt hay phiên tòa đó. Hơn nữa, cũng cần phải lựa chọn ngôn ngữ thích hợp, rõ
ràng,ngắn gọn nhưng chặn chẽ, có logic, có lập luận chắc chắn và có căn cứ. Bên
cạnh đó, thẩm phán cũng nên tạo ấn tượng tốt thông qua một số vấn đề như: ăn
mặc nghiêm túc, lịch sự và phù hợp với hoàn cảnh; phong thái tự tin đường hoang,
đĩnh đạc; nói to, rõ ràng, đủ để đủ để người xa nhất cũng có thể nghe thấy, cần chú
ý đến tốc độ và nhọ nói; trong quá trình trình bày nên thường xuyên đưa mắt nhìn
xuống người nghe. Bao quát tất cả những người có mặt trong phòng.
IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN KĨ NĂNG GIAO TIẾP
CỦA THẨM PHÁN HIỆN NAY
1. Nhận xét hiệu quả làm việc của Thẩm phán hiện nay.
a. Những điểm đạt được
Thứ nhất: Hiện nay, đội ngũ thẩm phán Việt Nam có kiến thức cơ bản vững
chắc về luật pháp Việt Nam và hệ thống luật pháp trong nước. Nhìn chung, thẩm

phán trình độ chuyên môn ngày càng được nâng lên. Trình độ và năng lực của các
Thẩm phán hiện nay 100% có trình độ Đại học luật hoặc tương đương. Theo đánh
giá hàng năm thì số Thẩm phán hoàn thành nhiệm vụ chiếm trên 90%. Số lượng vụ
7


án xét xử oan sai ngày càng giảm. Như vậy, về số lượng và chất lượng Thẩm phán
đều được nâng lên một bước cơ bản so với trước đây.
Thứ hai: Hầu hết các thẩm phán đều đã có các phẩm chất chính trị – tư tưởng,
đạo đức như: Có lập trường tư tưởng vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của Đảng, sống và làm việc theo pháp luật, có lối sống lành mạnh, có tinh thần
trách nhiệm cao, công bằng, khách quan, vô tư và trung thực trong xét xử, có ý
thức tự lực, tự cường vượt qua khó khăn trở ngại để hoàn thành nhiệm vụ. Đây là
những phẩm chất, năng lực cũng như những tiêu chuẩn cần thiết để nâng cao hiệu
quả kĩ năng giao tiếp nghề luật của thẩm phán để hoàn thành nhiệm vụ xét xử, đảm
bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tạo niềm tin của mọi người vào
cán cân công lí, góp phần vào cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tình trạng
phạm tội chung. Các quyết định áp dụng pháp luật được ban hành hầu như luôn
gắn liền với các quyền của con người, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Nhà
nước.
Thứ ba: Hầu hết thẩm phán đều tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp nghiêm
ngặt, thực hiện tốt chức năng nghề nghiệp là bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, tổ chức, pháp nhân, nhà nước, bảo vệ công lý, công bằng
xã hội.
Thứ tư: Một số thẩm phán đã thực hiện tốt kĩ năng phản hồi khi tham gia xét
xử tại phiên tòa: Các thẩm phán đã cảm thông và chia sẻ trước đau thương và mất
mát của một số bị cáo, người bị hại, nhưng vẫn giữ được sự công bằng, không thể
hiện sự yếu mềm và thiên vị; đã lên án và căm thù những hành vi phạm tội tàn ác
nhưng lại không được phép định kiến, ghét bỏ những con người đã thực hiện
những hành vi phi nhân tính đó.

b. Những hạn chế
Bên cạnh những mặt tốt đã đat được trong hoạt động nghề nghiệp thẩm phán ở
nước ta nêu trên thì còn có nhiều điểm hạn chế như sau:
Thứ nhất: Về kĩ năng hỏi, nhiều thẩm phán đã hỏi những câu hỏi đề cập quá
nhiều đến đời tư của các bị cáo, đã xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của họ. Bên
cạnh đó, một số thẩm phán còn áp đặt ý chí, suy nghĩ của bản thân về hành vi của
các bị cáo, qua đó dùng những câu hỏi áp đặt ý chí đối với các bị cáo.
Thứ hai: Văn hóa ứng xử của một số thẩm phán hiện nay còn kém. Có một số
thẩm phán sử dụng ngôn ngữ chưa đúng với chuẩn mực, không phù hợp với hoàn
cảnh, điều kiện và đối tượng giao tiếp như cách xưng hô không đúng, quát tháo bị
cáo và các đương sự tại toà, văn phong không dứt khoát, dài dòng, thậm chí còn sử

8


dụng quá nhiều từ ngẫu hứng, cảm thán. Đó là sự yếu kém trong kĩ năng phản hồi
của các thẩm phán.
Ví dụ: trong phiên tòa xét xử, thẩm phán nói bị cáo “Làm sao, sự thật rõ ràng
nói rõ ra chứ?” hoặc “trời ơi! Sao nói dài thế, ngắn thôi!” hay “Tội rành rành ra thế
mà còn chối à, khai đi may còn được khoan hồng”… Điều đó thể hiện kỹ năng
thuyết phục của thẩm phán còn chưa được cao. Chuyện HĐXX quát tháo, lớn tiếng
xỉ vả bị cáo là “quân lừa đảo”, “đồ dã man”, xưng hô kiểu “mày tao chi tớ”, thậm
chí cắt ngang hay bảo các bị cáo “câm ngay!” đôi khi vẫn xảy ra.
Thứ ba: Về kĩ năng nghe, một số thẩm phán đã thực hiện không tốt vai trò là
một chủ tọa của mình. Điển hình là bức ảnh nói về việc thẩm phán Đặng Thị
Bích Loan đã nghe điện thoại, phớt lờ những trình bày của luật sư, đương sự trong
phiên tòa xử nguyên nhà báo Phạm Đình Huy cưỡng đoạt tài sản tại TAND huyện
Phúc Thọ (Hà Nội). Ngoài ra, một ví dụ nữa là trong phiên tòa sơ thẩm xét xử Bùi
Tiến Dũng (nguyên Tổng giám đốc PMU 18) khi phiên tòa bước sang phần tranh
tụng, luật sư đang trình bày phần bào chữa của mình, vị thẩm phán ngắt lời luật sư

nhiều lần và hạn chế thời gian bào chữa của luật sư, quát lên: “Không được nói
nữa, ngồi xuống”. Do thẩm phán có thái độ thiếu tôn trọng luật sư thậm chí coi
thường luật sư nên luật sư bức xúc đã đứng dậy, rũ áo bỏ về.
Tất cả những khiếm khuyết trên về phẩm chất, năng lực, quan hệ, văn hoá ứng
xử trong hoạt động xét xử của người thẩm phán ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả kĩ
năng giao tiếp trong hoạt động nghề nghiệp của thẩm phán.
2. Một số ý kiến đề xuất.

Qua một số lý luận và thực tiễn nêu trên, nhóm xin đưa ra các biện pháp khắc
phục những hạn chế như sau:
Thứ nhất: cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo không bị mâu
thuẫn, chồng chéo giữa các lĩnh vực hay chế định khác nhau.
Thứ hai: xây dựng đội ngũ Thẩm phán “có tâm và có tầm” thông qua chế
độ tuyển cử thẩm phán thi tuyển và thẩm phán bổ nhiệm đủ tiêu chuẩn theo yêu
cầu được qui định trong luật để trở thành thẩm phán suốt đời như:
- Sức khỏe và tinh thần trách nhiệm cao, có niềm tin nội tâm vững chắc;
- Phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp;
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ (phải hiểu biết pháp luật sâu);

9


- Kinh nghiệm thực tế đã trải qua các kỳ sát hạch trong thời gian công tác trong
lĩnh vực luật;
Thứ ba: Nhà nước đảm bảo về đời sống vất chất “cần đủ” cho đội ngũ thẩm
phán suốt đời để tăng “đề kháng” trước cám dỗ vật chất; tăng cường biện pháp
thưởng phạt nghiêm minh và có chế độ đãi ngộ đặc biệt cho thẩm phán tận tụy,
liêm chính có công lao đóng góp cho nền tư pháp Việt Nam.
Thứ tư: cần áp dụng việc bổ nhiệm thẩm phán suốt đời sau khi tổ chức thi
và tuyển chọn một cách khách quan, nghiêm túc. Các cuộc thi vào ngạch thẩm

phán do do hội đồng quốc gia tổ chức. Hội đồng phải gồm những thẩm phán và hội
thẩm nhân dân, các luật sư giỏi, có đạo đức và có kinh nghiệm công tác.
Thứ năm: cần có chế tài áp dụng riêng dành cho các thẩm phán theo nguyên
tắc khoa học, chế độ trách nhiệm rõ ràng, thể hiện rõ nguyên tắc dân chủ và bình
đẳng, đảm bảo cả chất và lượng hoạt động, về uy tín của hệ thống tư pháp trong
nhà nước XHCN để ngăn cản hiện tượng tiêu cực.
Cuối cùng, đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử cũng
cần được chú trọng như một giải pháp nâng cao tính độc lập của thẩm phán.Tính
độc lập của Thẩm phán trong xét xử không phải là một vấn đề mới. Tuy nhiên, để
hoàn thiện các định chế đảm bảo cho nguyên tắc hiến định này được thực hiện
không phải là vấn đề đã được giải quyết trọn vẹn.
KẾT LUẬN
Như vậy ta thấy mỗi ngành nghề có một đặc điểm thù riêng, phù hợp với từng
kĩ năng riêng. Thông qua bài tìm hiểu về đặc điểm hoạt động và kĩ năng giao tiếp
của thẩm phán này, chúng ta đã biếtt được phần nào về những đặc trưng riêng của
nghề thẩm phán, qua đó có những biện pháp, phương hướng ứng xử sao cho phù
hợp. Nhóm cũng xin đưa ra những biện pháp khắc phục giúp nâng cao hơn nữa
hiệu quả làm việc cũng như giao tiếp được tốt hơn đối với các Thẩm phán.

10


MỤC LỤC

TRANG
1
1

ĐỀ BÀI
BÀI LÀM

I. KHÁI NIỆM VỀ THẨM PHÁN
1. Khái niệm Thẩm phán
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
3. Tiêu chuẩn của Thẩm phán
II. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG CỦA THẨM PHÁN
III. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA KỸ NĂNG GIAO TIẾP

1
1
1
1
2
3

TRONG HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CỦA THẨM PHÁN
1. Kỹ năng xây dựng mối quan hệ.
2. Kỹ năng nghe.
3. Kĩ năng hỏi.
4. Kĩ năng phản hồi.
5. Kỹ năng thuyết phục
6. Kỹ năng thuyết trình
IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN KĨ

3
4
4
5
6
7
7


NĂNG GIAO TIẾP CỦA THẨM PHÁN HIỆN NAY
1. Nhận xét hiệu quả làm việc của Thẩm phán hiện nay.
2. Một số ý kiến đề xuất.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

7
9
10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng Kỹ năng giao tiếp nghề
luật, Hà Nội, 2012.

11


2. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002 sửa
đổi bổ sung năm 2011
3. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
4. Báo cáo về việc trà lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội ngày 20 tháng 3
năm 2013 của TANDTC
5. />6. />
12




×