Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

tu buc tranh canh ngay xuan cua nguyen du em hay cam nhan duoc ve dep nao trong cuoc song dang dien ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.33 KB, 4 trang )

Đề bài: Từ bức tranh Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du, em hãy cảm nhận
được vẻ đẹp nào trong cuộc sống đang diễn ra
Bài làm 1
Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy về ngôn ngữ trong việc miêu tả tâm lý nhân
vật mà còn là “họa sĩ” vẽ tranh bằng chữ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” trích
Truyện Kiều là một ví dụ điển hình. Người đọc phải khâm phục và ngưỡng mộ
khả năng quan sát cũng như những nét vẽ tài hoa của Nguyễn Du. Bức tranh
ngày xuân hiện lên với những nét đẹp tươi mới, tràn đầy sức sống nhất.
Có thể nói mùa xuân là đề tài bất tận trong thi ca, khơi nguồn cảm hứng cho rất
nhiều nghệ sĩ. Mỗi người có một cảm nhận riêng về mùa xuân. Đối với Nguyễn
Du, mùa xuân gắn với cảnh vật và con người, với những ngày lễ truyền thống
của dân tộc Việt Nam. Bao trùm lên cả đoạn thơ này là một bức tranh thiên
nhiên đẹp, hữu tình nhưng có nhuốm màu buồn khi ngày đã ngả về chiều hôm.
Những câu thơ đầu được sử dụng với chất liệu ngôn ngữ đẹp như tranh, sự
mượt mà của câu chữ đã tạo nên sự mượt mà của cảnh sắc thiên nhiên khi xuân
về:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chin chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Một không gian đầy chất thơ, thi vị và hữu tình biết bao nhiêu. Sự rộng lớn của
đất trời khi mùa xuân về được diễn tả một cách tinh tế và tràn ngập niềm vui.
Cánh én chính là báo hiệu cho mùa xuân về, một mùa gợi lên sự ấm áp, sự sống
căng đầy và niềm vui trọn vẹn. Với từ ngữ “đưa thoi” vừa gợi lên khung cảnh
bầu trời tràn ngập cánh én, vừa diễn tả sự trôi đi quá nhanh của thời gian. Có
phải chăng ý niệm về thời gian của Nguyễn Du có phần giống với Xn Diệu,
thời gian trơi đi nhanh, mùa xuân và tuổi trẻ cũng trở nên chông chênh hơn.
Đồng nghĩa với thời gian trôi đi, tuổi trẻ trôi đi thì đời người bỗng nhiên ngắn
lại.
Trong lúc đấy, chỉ với hai nét vẽ Nguyễn Du như vẽ lên trang giấy một bức
tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp tuyệt vời. NGhệ thuật điểm xuyết chấm phá đã


được sử dụng dứt điểm, khiến cho câu thơ trở nên mềm mại và căng tràn sức
sống hơn. Màu xanh của cỏ non tạo nên sự tươi mới và tinh khiết của đất trời.
Từ “rợn” vừa tả cái xa, vừa gợi cái rộng lớn của mùa xuân, của cảnh vật khi
xuân về. Nó làm cho câu thơ như được ngân dài ra, bứng sang lên sức sống tràn
đầy Trên nền xanh của cỏ, của bầu trời có điểm xuyết “một vài bơng hoa” trắng
tinh khiết. CHính sự điểm xuyết này khiến cho cả bài thơ như bừng lên một sức
sống mãnh liệt, khó có thể dập tắt.
Có thể nói với chỉ 4 câu thơ này, Nguyễn Du như người họa sĩ tài hoa vẽ nên
một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, có sự giao thoa và hịa quyện giữa đất và
trời. Khơng khí mùa xuân, hương sắc mùa xuân và cả ý vị mùa xuân cứ thế tràn
ra trong từng câu thơ đẹp như vậy.
Khơng khí mùa xn như tươi đẹp hơn với lễ hội tảo mộ tháng Ba:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Có lẽ khơng khí vui tươi, tưng bừng, phấn khởi của con người trong dịp đi tảo
mộ thật sự khiến cho người đọc như sống lại với khơng khí những ngày xuân
tươi mới nhất. Con người cũng hiện lên như tơ điểm thêm bức tranh ngày xn
tươi đẹp đó
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Mùa xuân là dịp để “tài tử giai nhân” được vui chơi, giãi bày tâm sự với nhau.
Có vẻ như mùa xn là thời điểm thích hợp cho chuyện tình yêu nảy nở, cho
những yêu thương còn bỏ ngỏ được phép căng trào ra. Hình ảnh “ngựa xe”, “áo
quần” gợi lên sự tấp nập, nhộn nhịp và huyên náo. Nguyễn Du đã rất tài tình
khi sử dụng một loạt hình ảnh có tính chất gợi hình, ảnh tả khiến cho người đọc
có cảm giác như đang bước vào khơng khí của mùa xn.

Ngổn ngang gị đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
Những phong tục tập quán khi mùa xuân về, khi được đi tảo mộ đã được
Nguyễn Du vẽ lên chân chất, mộc mạ, gợi nhớ và gợi thương. Đó chính là tấm
lịng thành kính hướng về quá khứ với một sự biết ơn chân thành nhất. Hai câu
thơ này thực sự khiến người đọc xúc động khi nhớ về những người đã khuất,
những người tạo dựng nên cuộc sống hiện nay của chúng ta.
Tuy nhiên những câu thơ cuối dường như cảnh vật và con người trở nên buồn
vã và đìu hiu hơn:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn phong khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nhịp thơ trở nên nhẹ nhàng, trầm bổng khiến cho tâm trạng của con người trở
nên nặng nề và buồn rầu hơn. Với từ láy “tà tà” đã phần nào gợi tả thời gian đã
xế chiều và không gian dường như tĩnh mịch và ảm đạm hơn. Mỗi bước chân
cũng trở nên nặng nề hơn khi màn đêm sắp buông xuống, con người cũng cảm
nhận được một nỗi buồn nào đó len vào trongt trái tim. Tâm sự của con người
như nhuốm vào cảnh sắc thiên nhiên, khiến cho nó trở nên tiêu điều và xơ xác
hơn.
Có thể nói dù cảnh trong thơ Nguyễn Du buồn hay vui thì vẫn mang phong vị
riêng của nhà thơ. Đoạn trích “Cảnh ngày xn” là một ví dụ điển hình như thế.
Bức tranh ngày xuân vui tươi, rộn rang, náo nức và có chút buồn phiền được
Nguyễn DU khắc họa thành công với sự cảm nhận tinh tế cũng như sự tài hoa
trong cách dụng công xây dựng ngôn ngữ.
Bài làm 2
Tuyệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không chỉ mang những giá trị xã hội
sâu sắc mà còn làm say lòng người đọc ở những đoạn thơ tả cảnh tuyệt bút.
Một trong số đó là đoạn trích “Cảnh ngày xn” (trích Truyện Kiều, sách Ngữ
văn 9, tập một - NXB Giáo dục, 2008).

Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Vào ngày Tết Thanh minh, chị em
Thúy Kiều đi tảo mộ. Thiên nhiên và con người ngày xuân hiện lên tươi tắn,
xinh đẹp đông vui nhộn nhịp dưới đôi mắt “xanh non biếc rờn” của những
chàng trai, cô gái tuổi đôi tám.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quan chín chục đã ngồi sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”…
Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang
bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh
bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy:
“Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi” có nghĩa là những ngày xuân tươi
đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng
ba.
Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát
của thảm cỏ trải ra bao la: “Cỏ non xanh tận chân trời”, sắc cỏ tháng ba là sắc
xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra “tận chân trời”
khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình
ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ
tuyệt bút này: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Trên nền xanh tươi, trong trẻo
ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là “vài bông” bởi
những bơng hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xn thì
người thiếu nữ cịn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ
sinh động, hài hoà. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đơng, đó là
bút pháp chấm phá.

Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên
tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh
mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bơng
hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu
nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non
trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh cùa cỏ non ấy điểm xuyết một vài
bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc khơng nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc
trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét
riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa
mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và
thanh khiết.
Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng,
nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.
Sáu câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang
phần mộ của người thân) và du xn (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh.
Khơng khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép
tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu,
gần xa, nơ nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên khơng khí đơng
đúc, vui tươi sơi nổi. Đó khơng chỉ là khơng khí lễ hội mà còn mang đậm màu
sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:
“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Nhưng hội họp rồi hội phải tan. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều
phải rời buổi du xuân trở về:

“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dịng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” …
Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu nhẹ của mùa xuân như ở những câu thơ trước,
khung cảnh mùa xuân đến đây đã mang một sắc thái khác với bức tranh lễ hội
rộn ràng, nhộn nhịp. Cảnh vật toát lên vẻ vương vấn khi cuộc du xuân đã hết.
Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa gợi tả sắc thái
cảnh vật vừa gợi ra tâm trạng con người. Dường như có cái gì đó đang mơ hồ
xâm lấn, cảnh vật đã nhuốm sắc thái vương vấn, man mác của tâm trạng con
người, ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mượn cảnh
vật mà diễn tả những rung động tinh tế trong tâm hồn những người , thiếu nữ.
Những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ đểu là những từ láy có tính giảm
nhẹ. “Tà tà” diễn tả bóng chiều đang từ từ nghiêng xuống; “thơ thẩn” lại diễn tả
tâm trạng bâng khng dịu nhẹ khơng rõ ngun nhân (nó gần với nỗi buồn
“tơi buồn khơng hiểu vì sao tơi buồn” của Xuân Diệu sau này) “thanh thanh”
vừa có ý nghĩa là sắc xanh nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa là thanh thoát, thanh
mảnh; từ “nao nao” trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng đồng
thời diễn tả tâm trạng nao nao buồn và từ “nho nhỏ” gợi dáng nhỏ xinh xắn,
vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để
phù hợp với tâm trạng con người: “ngọn tiểu khê” - dịng suối nhỏ, phong-cảnh
thanh thốt, dịp cầu “nho nhỏ” lại nằm ở “cuối ghềnh” ở phía xa xa,... Cảnh và
người như có sự tương liên để giao hịa trong bầu khơng khí bâng khng, lưu
luyến, khe khẽ sầu lay. Có thể mớ hồ cảm nhận được cảnh vật đang tạo ra dự
cảm về những sự việc sắp xảy ra.
Đoạn trích Cảnh ngày xn có bố cục cân đối, hợp lí. Mặc dù khơng thật rõ
ràng nhưng cũng có thể nói đến kết cấu ba phần: mở đầu, diễn biến và kết thúc.
Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo.

Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là miêu tả cảnh ngày xuân nhưng vẫn thấy sự
kết hợp với biểu cảm và tự sự (diễn biến cuộc tảo mộ, du xuân của chị em Thúy
Kiều, dự báo sự việc sắp xảy ra).
“Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức
tranh thiên nhiên trong sáng vơ ngần mà cịn cảm nhận được vẻ đẹp trong một
lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây,
Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh
ngụ tình tinh tế,... Với những điều đó, “Cảnh ngày xn” sẽ ln sống lại trong
lịng người u thơ vào mỗi dịp đầu năm khi chúa xuân về với đất trời.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí



×