Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

dien tich dien co trong kieu o lau ngung bich

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.38 KB, 16 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Điển tích điển cố trong Kiều ở lầu Ngưng Bích?
Câu hỏi: Điển tích điển cố trong Kiều ở lầu Ngưng Bích?
Trả lời
- Điển cố trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là:
- sân lai: sân nhà lão lai tử (minh chứng của lòng hiếu thảo) ở đây ý chỉ sân nhà cha mẹ
kiều
- gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói
cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng quanh nhà).
- Hiệu quả sử dụng:
+ Bộc lộ được lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ, ngầm so sánh Kiều với những tấm
gương chí hiếu xưa.
+ Khiến lời thơ trở nên trang trọng, thiêng liêng hơn, phù hợp với việc ca ngợi tình cảm
hiếu thảo hiếm có của Kiều.
Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 1
Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có “con mắt nhìn
thấu cả sáu cõi, tấm lịng nghĩ suốt cả nghìn đời”. “Truyện Kiều” là tác phẩm thành cơng
nhất của ơng; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ “Truyện Kiều” diễn tả
tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh vật.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc vào phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Trích
đoạn là khúc tâm tình đầy xúc động của cơ gái trẻ lần đầu bước ra khỏi chốn “êm đềm
trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ như bản đàn nhiều cung
bậc tâm trạng của nàng. Đó là nỗi cơ đơn, buồn tủi, là tấm lịng thủy chung, hiếu thảo
nàng dành cho người yêu và cha mẹ.
Dù đang miêu tả bức tranh tâm cảnh, là cảm xúc chủ đạo nhưng lí trí của nhà thơ vẫn
sáng suốt khi xây dựng một kết cấu khá khoa học và chặt chẽ. Phần đầu là quang cảnh ở
lầu Ngưng Bích; phần hai, trong nỗi nhớ nhung, cô đơn, sầu tủi, nàng nhớ về Kim Trọng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

và cha mẹ; và phần cuối là tâm trạng đau khổ khi nghĩ đến tương lai nhiều tai ương, sóng
gió sẽ ập đến trong cuộc đời nàng.
Quang cảnh trong những vần thơ đầu đem đến cảm giác hoang vu, vắng lặng đến
buồn thảm. Đứng trên lầu cao, nhìn ra phía xa là những dãy núi, nhìn lên cao là vầng
trăng cô đơn giữa trời. Bốn bề xung quanh cũng chỉ là cồn cát bay mịt mù. Tất cả như tô
đậm thêm nỗi quạnh vắng, cô quạnh đang xâm lấn trong tâm hồn nàng.
Trước lầu Ngưng Bích khóa xn
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Cảnh buồn khiến lòng người thêm lẻ loi, hiu quạnh hay lòng người vốn nặng trĩu ưu
tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lịng.
Một từ láy “bẽ bàng” nhưng đã diễn tả được thật chân xác nỗi lịng nàng Thúy Kiều.
Đó hẳn là tâm trạng vừa buồn tủi, vừa ngượng ngùng, vừa ê chề, vừa cay đắng, xót xa.
Và chính tâm trạng ấy bắt gặp cảnh vật ngồi kia đã làm cõi lịng như càng thêm quặn
thắt. Thiên nhiên khơng cịn là những sự vật vơ tri, vơ giác nữa mà như sống động, có
hồn bởi nó là tấm gương phản chiếu tâm trạng cơ đơn, sầu tủi của nàng Kiều.
Từ trong nỗi cô đơn, phiền muộn, nàng hướng về quê hương, gia đình, những người
thân quý. Nỗi nhớ đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. Có lẽ bởi trước đó nàng bán mình
chuộc cha để làm trịn chữ hiếu với cha mẹ, chỉ có chữ duyên với Kim Trọng, nàng phải
trao lại cho em, nên hẳn trong lòng còn nhiều băn khoăn, day dứt khi để duyên ai phải lỡ
làng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nhịp thơ như nhịp trái tim yêu đang thổn thức, rỉ máu. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha, nồng
cháy. Nỗi nhớ trào lên khiến hình ảnh đêm thề nguyền, đính ước hiện ra chân thật, sống
động ngay trước mắt nàng. Đó là hiệu quả diễn đạt vượt trội của từ “tưởng” mà Nguyễn
Du đã khéo léo sử dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ của nàng Kiều. Mới
hôm nào, lứa đôi cùng thề nguyền, hẹn ước dưới trăng, vầng trăng cịn đó mà giờ đây đã
đôi người đôi ngả. Nàng tưởng tượng chàng Kim vẫn ngày ngóng đêm trơng tin nàng
trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng, rồi lại nghĩ đến thân phận của mình, bơ vơ,
lưu lạc nơi chân trời góc bể, đất khách quê người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung
thủy của nàng dành cho chàng Kim phai nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ nàng mới bớt đau khổ,
dằn vặt.
Xót người tựa cửa hơm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ơm
Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, nàng càng xót xa khi nghĩ về cha mẹ. Khơng
xót xa sao nổi khi nghĩ đến cảnh cha già, mẹ héo tựa cửa nhìn xa, ngóng trơng tin con
mịn mỏi. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ yên giấc, khi trời giá lạnh, biết
ai ấp ủ chăn ấm cho cha mẹ nằm. Các thành ngữ và điển cố “tựa cửa hôm mai”, “quạt
nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “gốc tử” để thể hiện nỗi xót xa, lo lắng, bồn chồn của người con
có hiếu dù đang trong hồn cảnh éo le, vẫn đau đáu nghĩ về cha mẹ trong niềm nhớ
thương khôn nguôi.
Nỗi nhớ đầy vơi nàng dành cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với

cảnh ngộ của chính mình. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên trong
lòng nàng một nỗi buồn thê lương. Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng xuống đáy
sâu của vực thẳm đau khổ.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bằng lối điệp ngữ liên hồn “Buồn trơng”, khổ thơ cuối như bức tranh cảnh buồn
khơng hoang vắng, cơ liêu như ban đầu mà nó như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về một
tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng tầm mắt ra xa mn dặm, tới cửa biển lúc
hồng hơn, có cánh buồm của ai đó nhưng chỉ “thấp thống” mờ mịt, xa xơi. Cánh buồm
ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt mù khói sóng chiều hơm như là hình ảnh con người cơ
đơn giữa biển đời, lữ thứ, nhiều sóng gió, ba đào. Cùng với nỗi nồi ấy, nàng hướng nhìn
tới ngọn nước mới “sa”, mới đổ xuống, một cánh hoa rụng, mỏng manh, yếu đuối bị sóng
gió đưa đẩy dập dồn, không biết sẽ trôi dạt về phương nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trơi
dạt theo con con nước dữ hay là hình ảnh người con gái bị quăng vào cuộc đời khi còn
quá trẻ, quá yếu đuối. Rồi nội cỏ cũng nhuốm màu xanh “rầu rầu” ảm đạm, u buồn, héo
hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời. Màu
không gian hay màu tâm trạng đang hắt hiu, tàn lụi, hết khát khao, hi vọng sống. Những

cơn gió thủy triều trào lên mặt biển, tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập
đến “kêu quanh ghế ngồi”. Tiếng sóng gió ngồi biển xa mà đổ dội vào chân nàng thì có
lẽ nỗi sợ hãi, lo lắng về thân phận, cuộc đời mình khơng cịn là nỗi lo lắng mơ hồ, nỗi
buồn quạnh vắng mênh mang nữa mà nó đã biến thành nỗi kinh hồng khiến tâm hồn
nàng hoảng loạn. Tiếng sóng gầm lên “ầm ầm” như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi,
nuốt chửng cánh hoa mỏng manh, bé nhỏ, muốn cuốn phăng đi nội cỏ, và dập vùi nàng
xuống tận đáy sâu đau khổ, tuyệt vọng.
Mỗi vần thơ là một giọt tâm hồn nhà thơ nhỏ xuống để cảm thương cho số phận
người con gái tài hoa, bạc mệnh Thúy Kiều. Cùng với đó, là tài năng nghệ thuật: tả cảnh
ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ
tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) Nguyễn Du đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc,
buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Có lẽ người đọc sẽ cịn khắc ghi mãi ấn tượng về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu
cùng bức tranh tâm cảnh. Tất cả được vẽ nên bởi một tài năng trác việt, một tấm lòng
nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì thế, đoạn trích đã góp phần làm nên sức sống bất tử
của kiệt tác “Truyện Kiều”.
Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 2
Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ơng có thể coi là chuẩn
mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà cịn
giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ơng, hai yếu tố tình và cảnh không
tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút
pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn

thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cơ đơn, buồn tủi, là tấm lòng
thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.
Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí. Phần đầu tác giả giới thiệu
cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cơ đơn buồn tủi, nàng
nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự
cảm về những bão tố cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.
Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp.
Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng
như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vơ tận, lác đác
như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xn
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Có thể hình dung rất rõ một khơng gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều.
Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán,
buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và
cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lịng. Bức
tranh thiên nhiên khơng khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều
những ngày cơ đơn ở lầu Ngưng Bích.

Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những
người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguyễn Du miêu tả rất xúc
động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn
câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng
Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được
xốy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu!
Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang
ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng
với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi
hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời
chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt
Kiều liên tưởng đến thân phận: Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son
gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm
thía tình cảnh cơ đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ khơng bao giờ có
thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

chàng Kim cũng sẽ khơng bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm
lưu lạc.
Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc cỏ,
quyết đền ba xn, cứu được cha và em thốt khỏi vịng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ,

bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lịng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ
già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc
cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai,
quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn
khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình.
Trong hồn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một
người con rất mực hiếu thảo.
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuối cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ
của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con
mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc
lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngịi bút bậc
thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc
đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:
Buồn trơng cửa bể chiều hơm,
Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?
Buồn trơng ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con
mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

buồn. Buồn trơng là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trơng ngóng một cái gì

đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng
cánh buồm chỉ thấp thống, xa xa khơng rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa.
Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sơng chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu
bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu
rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi
buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hồng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa,
như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.
Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ
liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều
từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thống, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc
họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu
Ngưng Bích.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một
bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi
theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản
ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã
thực sự hiểu nỗi lịng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của
nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.
Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 3
Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa, một đại thi hào của dân tộc ta. Ơng đã để lại
cho kho tàng văn học Việt Nam ta một kiệt tác của nền văn học trung đại - tác phẩm
Truyện Kiều. Ngoài hai giá trị lớn và giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, truyện Kiều
còn rất thành công về mặt nghệ thuật. Chỉ xét riêng về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân
vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch
sử bằng trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích miêu tả thành cơng cảnh ngộ cơ đơn, buồn tủi
và tấm lịng thủy chung, hiếu thảo của Kiều.
Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nằm trong phần "Gia biến và lưu lạc". Đoạn thơ
dài 22 câu, khơng chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc
mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình với ngơn ngữ độc


Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

thoại nội tâm để biểu đạt nỗi lịng và tâm trạng của Kiều. Cảnh ngộ của Kiều ở lầu
Ngưng Bích vơ cùng cơ đơn, buồn tủi:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xn,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lịng.
Bằng nét bút tả cảnh ngụ tình điêu luyện, Nguyễn Du đã miêu tả thành công nội tâm
của Kiều. Từ ngữ "khóa xn" đã cho thấy tình cảnh Kiều lâm vào cảnh cá chậu chim
lồng, bị giam lỏng nơi lầu cao, khóa kín tuổi xn của nàng. "Khóa xn" ở đây khơng
phải nói tới những cơ gái cịn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng
Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mơng, khơng gian hoang vắng trong hồn cảnh
tha hương, cô đơn, giờ lại bị đày vào chốn lầu xanh ô nhục. "Lầu Ngưng Bích" vốn là
một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh hữu tình, thơ mộng được mở ra cả ba chiều
cao, xa và rộng qua các từ ngữ "non xa", "trăng gần", "cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia".
Thế nhưng "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!", trong tình cảnh giam cầm Kiều khung
cảnh thật buồn thảm, vắng lặng, nhìn trăng nàng chỉ thấy vầng trăng đơn cơi, nhìn mặt
đất thì bên là cồn cát nhấp nhơ lượng sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm hoang
vu, vắng lặng. Lầu Ngưng Bích chỉ là là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa
mênh mang trời nước. Trong cái không gian quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vịng
tuần hồn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm tuổi xuân mơn mởn của tuyệt sắc
giai nhân, sự sống của Kiều như bị những bàn tay tàn bạo bóp nghẹt. Từ đó khắc sâu

thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngán, buồn tủi, không ai chia sẻ
nàng chỉ biết là bạn với mây, với đèn, với cảnh vật hoang vu, nhạt nhịa.
Trong nỗi cơ đơn tuyệt đối ấy, Kiều cảm thấy xa cách, hoang vắng, một mình một
bóng bơ vơ, bị giam cầm cách biệt nơi đất khách quê người, xa quê hương, xa người yêu
của mình:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Tin sương luống những rày trơng mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng trước, đó là một nét bút đặc sắc, độc
đáo và phù hợp với tâm lí, thể hiện tấm lịng chung thủy của Kiều. Các từ ngữ "tưởng",
"trông", "chờ" trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm bật lên nỗi nhớ Kim
Trọng khôn nguôi của nàng. Kiều càng nhớ về lời thề đôi lứa, lời hẹn ước trăm năm ở
vườn Thúy lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề như còn đây mà nay mỗi
người như mỗi ngả khiến nàng ân hận, xót xa như kẻ phụ tình. Nàng tưởng tượng Kim
Trọng đang hướng về mình, "rày trơng mai chờ" uổng cơng vơ ích khiến nàng càng thêm
xót xa, càng thấp thỏm lo âu. Dù cho mỗi người một phương nhưng tình cảm, tấm lịng
son của nàng dành cho Kim Trọng là mãi mãi, không thể phai mờ. Càng nghĩ Kiều càng
lo lắng, khiến nàng bật lên câu hỏi tu từ không biết trên bước đường trơi dạt nơi "bên trời
góc bể", bao giờ nàng mới có thể gột rửa sạch những hoen ố của tấm lịng son chung thủy
để có thể đáp lại tình u của Kim Trọng dành cho nàng. Ở nơi lầu cao ấy, nàng cũng
không nguôi nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ của mình:
Xót người tựa cửa hơm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Với ngôn ngữ độc thoại, kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng ngổn ngang của Kiều hiện
lên thật rõ nét. Các từ ngữ "hôm mai", "cách mấy nắng mưa" chỉ nỗi nhớ mong cha mẹ
dài theo năm tháng của nàng. Kiều xót thương cha mẹ mình ngày đêm lo lắng, "tựa cửa
hơm mai" mong ngóng tin nàng, sợ cha mẹ già yếu ở nhà, khơng ai chăm sóc, phụng
dưỡng. Thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", cùng với điển tích "Sân Lai", "Gốc tử" đã nói lên
tâm trạng nhớ thương, tấm lịng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ mình. Nàng lo sợ ở nơi
quê hương, mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day
dứt, áy náy vì chưa làm trịn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của người con. Từ đó tấm
lịng vị tha và hiếu thảo của Kiều đã hiện lên thật rõ nét. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi
lầu Ngưng Bích, lưu lạc nơi chân trời góc bể, Kiều là người đáng thương nhất. Thế nhưng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

với tâm hồn cao đẹp của mình, nàng luôn hi sinh bản thân, quên đi cảnh ngộ của bản thân
để lo lắng, nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ của mình. Nỗi nhớ của Kiều rất thực và có
chiều sâu, từ đó cho thấy Kiều là một đứa con hiếu thảo, một người tình thủy chung và là
một con người giàu lòng vị tha.
Tâm trạng buồn tủi của Kiều đã thể hiện rõ nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật
là một nét riêng nhưng đều diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của Kiều. Cánh buồm
trên biển giữa mênh mơng trời chiều hồng hơn thật cô độc, lẻ loi:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Khung mở ra vào thời điểm chiều hôm, thời điểm của những lưu luyến khó tả. "Cửa
bể chiều hơm" gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên
mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu

sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về
ngày tháng êm đềm xưa kia. Các từ ngữ "thấp thoáng", "xa xa" gợi sự lẻ loi, đơn độc như
chính niềm hi vọng mỏng manh, leo lét của Kiều. Một mình bơ vơ ở nơi đó, Kiều chỉ
mịn mỏi nhớ về q hương, nhớ về cha mẹ, chờ mong một con thuyền đến cứu, thế
nhưng những chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở xa rồi mất hút về phía chân trời. "Thuyền
ai" lênh đênh rồi mất hút về phía chân trời xa như cuộc đời Kiều, chẳng biết đến bao giờ
có thể về được quê nhà, báo hiếu cho cha mẹ.Ánh nhìn của Kiều vẫn ở mặt nước nhưng
đã gần hơn:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Cánh hoa mỏng manh, dập dìu trong dịng nước, bé nhỏ, chẳng thể nào chống chọi
được sức của "ngọn nước mới sa" như chính thân phận nàng Kiều nhỏ bé trong dịng đời
đẩy đưa. Thân phận Kiều giờ đây lạc lõng, lẻ loi, tả tơi trơi theo dịng đời vơ định "biết là
về đâu" như chính bơng hoa kia. Nhìn cánh hoa bị vùi dập tả tơi ấy, nàng Kiều lại càng
nhớ thương Kim Trọng, càng buồn tủi, xót xa vì số phận bèo dạt mây trôi, chẳng biết sẽ
đi về nơi nao của mình. Khơng chỉ có mặt nước mênh mang chất chứa bao nỗi buồn mà
cả cỏ cây cũng sầu thảm:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Ngược với cái tên xanh biếc hi vọng của "Ngưng Bích" sắc xanh nối tiếp của trời đất
qua đôi mắt buồn tủi của Kiều trở nên thật sầu thảm. Từ láy "rầu rầu" gợi nên hình ảnh
của một bãi cỏ tàn úa, xơ xác đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất tàn úa, héo
hon, vô vị, tẻ nhạt như chính số phận bị giam lỏng trên lầu cao của Kiều. Tuổi thanh xuân
tươi đẹp của Kiều, tài sắc vẹn tồn của nàng rồi sẽ phai tàn, vơ vị như màu xanh héo úa

kia. Màu xanh vốn là màu của hi vọng nay đã tàn úa như chính niềm hi vọng đang cạn
dần và nỗi xót xa, dằn vặt ngày càng dâng cao trong lòng Kiều. Quang cảnh đang im lặng,
bỗng dậy sóng:
Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Âm thanh của tiếng sóng "ầm ầm" trong cảnh "gió cuốn mặt duềnh" như chính là
những bão tố phong ba đang chờ Kiều ở phía trước. Nàng lo lắng không biết khi nào tai
họa sẽ ập đến như tiếng sóng dồn dập ngồi xa. Tiếng sóng ầm ì như chính tiếng của tai
họa sắp ập tới, những cạm bẫy của cuộc đời ập đến "kêu quanh ghế ngồi" khiến cho nàng
Kiều sợ hãi.
Điệp ngữ "buồn trông" đặt ở bốn đầu câu lục bát trong đoạn thơ như tiếng thở dài
cùng với nhịp thơ chầm chậm và những thanh bằng đã nhấn mạnh nỗi buồn cứ càng lúc
càng dâng lên mãi trong lòng Kiều cùng hòa với cảnh vật càng lúc càng mênh mang,
vắng vẻ hơn. Những từ láy "xa xa", "thấp thoáng", "man mác", "rầu rầu", "xanh xanh",
"ầm ầm" như những con sóng dằn vặt, buồn tủi dâng tràn trong lòng Kiều.
Đoạn thơ "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong
Truyện Kiều cũng như văn học trung đại Việt Nam. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm về Kiều,
một người tình chung thủy, một đứa con hiếu thảo và lịng một con người giàu lòng vị tha,
khiến ta căm hận xã hội phong kiến bất công tàn bạo đưa đẩy con người tài hoa vào kiếp
lầu xanh tủi hổ.
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật kết hợp bút
pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện đã làm nổi bật cảnh ngộ của Kiều và chứng tỏ được tài
năng và trái tim biết sẻ chia, biết yêu thương của Nguyễn Du đối dành cho nhân vật và
cho cuộc đời. Chính hồn thơ ấy, trái tim ấy đã đi vào tâm tưởng bao thế hệ, đưa chúng ta
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí


đến bao cảm xúc khác nhau, khiến ta chẳng thể nào quên như nghĩa tình đậm đà của nhà
thơ Tố Hữu đối với đại thi hào này:
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân,
Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều.
Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 4
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, cũng là người đã mang văn học của Việt Nam vươn
xa ra thế giới qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm là lời phản ánh sâu sắc hiện thực xã
hội phong kiến với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị, là tiếng kêu đau thương của
những số phận bị áp bức trong thời kì ấy. Và thơng qua đó, ta có thể thấy được lịng
thương cảm, tình u thương con người sâu sắc của tác giả. Đoạn trích "Kiều ở lầu
Ngưng Bích" là một trong những đoạn trích hay nhất được trích từ tác phẩm này.
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc". Sau khi biết mình bị lừa vào
chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà sợ mất vốn, bèn lựa lời khuyên giải, cho
người mua thuốc thang và hứa hẹn khi nàng bình phục, sẽ gả nàng cho một người đàn
ông tốt nhưng thực chất là giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích, chờ thời cơ thực hiện âm
mưu mới. Đoạn trích là những lời tự bộc bạch, là nỗi lịng cơ đơn, buồn tủi của Kiều khi
nhớ về người yêu, khi nghĩ về số phận đớn đau của đời mình.
Sáu câu thơ đầu gợi tả thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với khơng gian và thời gian:
"Trước lầu Ngưng Bích khóa xn
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lịng"
Khung cảnh thiên nhiên được nhìn dưới con mắt của Thúy Kiều. Lầu Ngưng Bích, nơi
giam lỏng nàng chính là nơi khóa tuổi xn của Kiều lại. Hai chữ "khóa xuân" mà
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập

miễn phí

Nguyễn Du dành cho Kiều sao mà đớn đau, buồn bã đến thế! Một mình nơi lầu Ngưng
Bích bao la, rộng lớn, Kiều chỉ có đám mây cùng với ngọn đèn bầu bạn. Nghệ thuật đối
lập: "non xa" - "trăng gần" gợi một không gian rợn ngợp, không một bóng người, chỉ có
mình Kiều với nỗi cơ đơn, trống trải. Những cồn cát vàng gối đầu lên nhau, những bụi
hồng ở xa kia dù biết Kiều đang chơi vơi, trơ trọi nhưng cũng không thể nào đến gần, bầu
bạn với nàng được. Trước khung cảnh đượm buồn của buổi chiều tà, Kiều cảm thấy lịng
mình như chia đơi, diễn tả nỗi chua xót, đau đớn của Kiều trong một vịng tuần hồn
khép kín của "mây sớm đèn khuya". Ngày nào cũng như vậy, vẫn những cảnh vật đó
khơng hề thay đổi, chỉ có lịng người ngày càng buồn hơn.
u:

Chính trong hồn cảnh cơ đơn nơi đất khách q người, Kiều càng thấy nhớ người

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ"
Nhớ người yêu, Kiều nhớ đến khi nàng cùng Kim Trọng uống chén rượu thề dưới ánh
trăng, nguyện ở bên nhau đến trọn đời. Ấy vậy mà giờ đây, tất cả chỉ còn là q khứ.
Nàng khơng thể ở bên người mình u, cũng không thể cùng chàng thực hiện lời nguyện
ước. Ở bên ngồi kia, Kim Trọng vẫn ln chờ đợi nàng, chàng đâu hề hay biết lời hứa
năm nào đã tan thành mây khói, mà vẫn ngóng trơng tin tức về Thúy Kiều. Càng thương
Kim Trọng, Kiều càng đau xót cho thân phận của chính mình, bởi lẽ tấm lịng thủy chung,
son sắt của nàng giờ không thể nào gột rửa được:
"Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"
Sau khi nhớ người yêu, nàng nhớ tới cha mẹ của mình:
"Xót người tựa cửa hơm mai
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ơm"
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Ở đây, người đọc có thể cảm thấy một điều vơ lí, rằng tại sao Kiều lại nhớ đến người
yêu trước khi nhớ về cha mẹ của nàng? Ta có thể hiểu được khi Kiều phải bán mình
chuộc cha, hy sinh chữ "Tình" để làm trịn chữ "Hiếu" thì hẳn là ở đây, Kim Trọng là
người đau đớn hơn cả. Do đó, Kiều nhớ tới Kim Trọng trước tiên, là áy náy, cảm thấy có
lỗi đối với chàng. Khi nhớ về cha mẹ, Nguyễn Du cho Kiều được thể hiện sự đau xót của
nàng "Xót người tựa cửa hơm mai". Kiều đau đớn bởi vì nàng khơng thể phụng dưỡng
cha mẹ, chăm sóc cha mẹ khi về già. Ở nơi q nhà, khơng biết đã có ai thay Kiều quạt
cho cha mẹ những khi trời nóng, chăm sóc cha mẹ khi ốm đau hay chưa? Một loạt thành
ngữ "quạt nồng ấp lạnh", "cách mấy nắng mưa" cùng điển cố "Sân Lai", "gốc tử" cho
thấy tài năng tuyệt vời của tác giả.
Sau khi nhớ tới người thân, Kiều nghĩ về thân phận của mình. Tám câu thơ cuối là
bức tranh thiên nhiên mang âm hưởng trầm buồn:
"Buồn trông cửa bể chiều hơm
Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
Điệp từ "buồn trơng" được lặp lại bốn lần ở các câu thơ sáu chữ như trở thành điệp
khúc, diễn tả nỗi buồn như đang dâng lên thành từng đợt, tạo thành con sóng lịng của
Kiều. Nàng nhìn ra cửa bể, thấy thấp thống một bóng người bên cánh buồm của họ.

Bóng người cơ độc giữa non sông rộng lớn giống như sự đơn côi một mình của Kiều nơi
lầu Ngưng Bích này. Chỉ có điều, nếu Kiều phải ở mãi nơi đây một mình, chưa biết ngày
mai, thì người ngư dân đó đang bận rộn trở về đồn tụ với gia đình sau một ngày làm việc
vất vả. Hướng tầm mắt lại gần, Kiều trông thấy những cánh hoa đang trôi dạt, như là lênh
đênh, là vô định trước cuộc đời. Những cánh hoa kia y hệt như cuộc đời của Kiều vậy.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Cảnh vật cũng như buồn hơn dưới con mắt của Kiều, nàng nhìn đâu đâu cũng thấy bóng
dáng những sự vật đơn độc, lẻ loi...
Hai câu thơ cuối là tâm trạng hoang mang, lo lắng, là khi những đợt sóng lịng của
nàng trở nên dữ dội hơn:
"Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
Âm thanh của tiếng sóng dồn đến như cơn bão táp của nội tâm, là cực điểm cảm xúc
trong lòng Kiều. Kiều sẽ phải làm gì với cuộc đời phía trước đây? Tám câu thơ cuối quả
thực là tám câu thơ rất hay, mở ra một bức tranh thiên nhiên đối sóng với tâm trạng của
Kiều, qua đó thấy được tài năng tả cảnh cũng như miêu tả tâm lí của nhà thơ.
Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" với đoạn mở đầu là bức tranh thiên nhiên, kế
đến là lời độc thoại của nhân vật và kết thúc lại bằng một bức tranh thiên nhiên. Điệp
khúc vòng cho thấy cái nét độc đáo trong cách làm thơ của đại thi hào dân tộc Nguyễn
Du, đồng thời gieo vào lòng ta niềm thương cảm sâu sắc trước số phận của nhân vật Kiều.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188




×