nghiên cứu - trao đổi
44 tạp chí luật học số 8/2011
TS. Nguyễn Thị Lan *
nguyờn tc, cỏc ch th khi xỏc lp
quan h nuụi con nuụi phi tuõn th
y iu kin nuụi con nuụi theo Lut
nuụi con nuụi. i vi ngi c nhn lm
con nuụi phi m bo cỏc iu kin nh:
(1)
Tr em di 16 tui; ch c lm con nuụi
ca mt ngi c thõn hoc c hai ngi l
v chng i vi ngi nhn nuụi phi
m bo cỏc iu kin nh:
(2)
Cú nng lc
hnh vi dõn s y ; hn con nuụi t 20
tui tr lờn; cú iu kin sc kho, kinh t,
ch bo m vic chm súc, nuụi dng,
giỏo dc con nuụi; cú t cỏch o c tt;
khụng phi l ngi ang b hn ch mt s
quyn ca cha, m i vi con cha thnh
niờn; ang chp hnh quyt nh x lớ hnh
chớnh ti c s giỏo dc, c s cha bnh;
ang chp hnh hỡnh pht tự; cha c xoỏ
ỏn tớch v mt trong cỏc ti c ý xõm phm
tớnh mng, sc kho, nhõn phm, danh d ca
ngi khỏc; ngc ói hoc hnh h ụng b,
cha m, v chng, con, chỏu, ngi cú cụng
nuụi dng mỡnh; d d, ộp buc hoc cha
chp ngi cha thnh niờn vi phm phỏp
lut; mua bỏn, ỏnh trỏo, chim ot tr em.
Tuy nhiờn, khi b dng hoc m k v
con riờng ca v hoc chng xỏc lp quan h
nuụi con nuụi thỡ Lut nuụi con nuụi cho
phộp h c hng mt s ngoi l v iu
kin nhn nuụi con nuụi nh sau:
Ngoi l th nht - ngi con riờng ca
mt bờn v hoc chng cú th t 16 n
di 18 tui. õy c coi l ngoi l v
tui ca ngi c nhn nuụi con nuụi.
Di gúc tõm lớ, khi nhn tr em
tui cng nh thỡ vic thit lp, gn bú mi
quan h tỡnh cm gia cha m nuụi v con
nuụi cng d dng hn. Tuy nhiờn, vỡ li ớch
ca ngi c nhn nuụi phỏp lut ó ni
rng tui ca ngi c nhn nuụi trong
trng hp ny. Mt khỏc, trong mi quan
h gia b dng, m k vi con riờng thỡ
quyn v ngha v gia h l rt hn ch.
Lut hụn nhõn v gia ỡnh nm 2000 quy
nh b dng, m k v con riờng ch cú
mt s quyn nht nh, bao gm:
(3)
B
dng, m k cú ngha v v quyn trụng
nom, nuụi dng, chm súc, giỏo dc con
riờng cựng sng chung vi mỡnh; con riờng
cú ngha v v quyn chm súc, nuụi dng
b dng, m k cựng sng chung vi mỡnh;
b dng, m k v con riờng ca v hoc
ca chng khụng c ngc ói, hnh h,
xỳc phm nhau. Vỡ vy, nu cú nhng u
tiờn trong vic cho b dng hoc m k
nhn con riờng ca v hoc chng mỡnh lm
con nuụi thỡ gia h s thit lp quan h gia
V
* Ging viờn Khoa phỏp lut dõn s
Trng i hc Lut H Ni
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 8/2011 45
cha mẹ nuôi và con nuôi, giữa họ sẽ phát
sinh và tồn tại tất cả các quyền và nghĩa vụ
như cha mẹ đẻ và con đẻ. Điều này đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của cả hai
bên chủ thể mà đặc biệt là quyền của người
được nhận nuôi.
Ngoại lệ thứ hai - người nuôi là bố
dượng hoặc mẹ kế không đang trong tình
trạng độc thân nhưng vẫn được nhận con
nuôi (là con riêng của vợ hoặc chồng mình).
Điều đó cũng có nghĩa là người được nhận
nuôi (là con riêng của một bên vợ, chồng)
vẫn có thể làm con nuôi của một người
không đang trong tình trạng độc thân (đang
là vợ hoặc chồng của bố hoặc mẹ mình).
Đây là ngoại lệ đặc biệt vì về nguyên tắc,
một người không thể làm con nuôi của người
đang trong tình trạng có vợ hoặc có chồng.
Trong trường hợp bố dượng hoặc mẹ kế
nhận con riêng của vợ hoặc chồng mình làm
con nuôi sẽ có sự khác biệt về việc xác định
tư cách chủ thể trong việc nhận nuôi con
nuôi. Hai vợ chồng không phải là một bên
chủ thể với tư cách là người nhận nuôi trong
quan hệ nuôi con nuôi. Một bên vợ hoặc
chồng với tư cách là bố dượng hoặc mẹ kế sẽ
là người nhận nuôi con nuôi, còn bên kia với
tư cách là người chồng hoặc người vợ còn lại
cần xác định tư cách chủ thể cho họ như sau:
- Nếu một bên vợ hoặc chồng đang là
cha đẻ hoặc mẹ đẻ của người con thì họ với
tư cách là cha, mẹ đẻ được quyền thể hiện ý
chí cho con mình đi làm con nuôi người
khác. Trong trường hợp này phải tính đến cả
người đã từng là vợ hoặc từng là chồng của
họ (là mẹ đẻ hoặc cha đẻ của đứa con) cũng
được quyền thể hiện ý chí cho con mình đi
làm con nuôi người khác. Ví dụ: Anh A và
chị B là vợ chồng, có một con chung là cháu
Y. Sau khi li hôn, cháu Y được chị B trực
tiếp nuôi dưỡng. Sau đó, chị B kết hôn với
anh M. Anh M muốn nhận cháu Y là con
nuôi thì phải có sự thể hiện ý chí đồng ý của
anh A, chị B và cháu Y (nếu cháu Y từ đủ 9
tuổi trở lên). (1)
- Nếu một bên vợ hoặc chồng đang là
cha đẻ hoặc mẹ đẻ của người con thì họ với
tư cách là cha, mẹ đẻ, được quyền thể hiện ý
chí cho con mình đi làm con nuôi người
khác. Nhưng người đã từng là vợ hoặc từng
là chồng của họ lại đang là mẹ nuôi hoặc cha
nuôi của người con thì vấn đề nuôi con nuôi
có được đặt ra không? Và họ được xác định
tư cách chủ thể như thế nào trong việc nuôi
con nuôi? Ví dụ: Chị B khi còn là độc thân
đã sinh ra cháu Y. Sau đó, chị B kết hôn với
anh A, anh A đã làm thủ tục nhận cháu Y là
con nuôi. Khi anh A và chị B li hôn; cháu Y
được chị B trực tiếp nuôi dưỡng. Tiếp sau
đó, chị B kết hôn với anh C. Anh C muốn
nhận cháu Y là con nuôi có được không? (2)
- Nếu một bên vợ hoặc chồng đang là
cha nuôi hoặc mẹ nuôi của người con thì họ
có được thể hiện ý chí cho con nuôi của
mình làm con nuôi của chồng hoặc vợ của
mình không? Ví dụ: Anh A và chị B là vợ
chồng, anh A và chị B đã nhận nuôi cháu Y.
Sau đó anh A và chị B li hôn, chị B là người
trực tiếp nuôi dưỡng cháu Y. Sau đó, chị B
kết hôn với anh N. Anh N muốn nhận cháu
Y là con nuôi có được không? (3)
Trong các trường hợp trên, trường hợp
(1) hoàn toàn có thể thực hiện được việc
nuôi con nuôi vì Luật nuôi con nuôi quy
nghiªn cøu - trao ®æi
46 t¹p chÝ luËt häc sè 8/2011
định rõ ràng cho trường hợp này. Tuy nhiên,
trường hợp (2) và (3) thì Luật nuôi con nuôi
chưa có những quy định cụ thể và đây là vấn
đề cần bàn tới:
Nếu trong trường hợp (2) và (3), cho
phép bố dượng, mẹ kế nhận con riêng của
chồng hoặc vợ mình làm con nuôi thì đảm
bảo được lợi ích của người con, nâng cao
trách nhiệm của gia đình đối với thế hệ trẻ,
từ đó đảm bảo lợi ích chung của xã hội. Tuy
nhiên, nếu việc nuôi con nuôi trong trường
hợp này được thực hiện thì vô hình trung
pháp luật phải thừa nhận việc nuôi con nuôi
lần thứ hai mà có thể không chấm dứt việc
nuôi con nuôi lần thứ nhất. Mặt khác sẽ vấp
phải một số vướng mắc sau: Một là việc xác
định tư cách các chủ thể tham gia vào việc
nuôi con nuôi. Trong diện những chủ thể
được thể hiện ý chí đồng ý để người được
nhận nuôi làm con nuôi người khác là cha
mẹ đẻ hoặc người giám hộ.
(4)
Vậy nếu họ
đang là cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì họ có
được thể hiện ý chí cho con nuôi của mình
làm con nuôi lần hai hay không? Có coi đây
là một trường hợp ngoại lệ nữa hay không?
Hai là việc xác định căn cứ chấm dứt việc
nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi chỉ chấm
dứt khi đáp ứng các điều kiện mà Luật nuôi
con nuôi quy định, bao gồm:
(5)
Con nuôi đã
thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm
dứt việc nuôi con nuôi; con nuôi bị kết án về
một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ
nuôi, ngược đãi hành hạ cha mẹ nuôi hoặc
con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha
mẹ nuôi; cha mẹ nuôi bị kết án về một trong
các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của con nuôi, ngược đãi
hành hạ con nuôi. Như vậy, việc xác lập
quan hệ nuôi con nuôi lần hai sẽ không phải
là căn cứ chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi
lần thứ nhất. Nếu cho phép xác lập quan hệ
nuôi con nuôi lần hai thì có nghĩa là một
người lại làm con nuôi của nhiều người mà
có thể giữa những người đó không phải là vợ
chồng của nhau. Điều này trái với điều kiện
của người được nhận nuôi là chỉ làm con
nuôi của một người độc thân hoặc của hai
người là vợ chồng. Ba là việc xác định hậu
quả pháp lí của việc nuôi con nuôi giữa bố
dượng hoặc mẹ kế và con riêng của vợ hoặc
của chồng. Trong trường hợp (1) bố dượng
hoặc mẹ kế nhận con riêng là con đẻ của vợ
hoặc chồng mình làm con nuôi thì sẽ không
chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa cha con
hoặc mẹ con của người con đó với người cha
đẻ hoặc mẹ đẻ (là người đang thực hiện việc
nuôi dưỡng) mà chỉ chấm dứt quyền và
nghĩa vụ giữa cha mẹ và con với người cha
đẻ hoặc mẹ đẻ còn lại đang không trực tiếp
nuôi dưỡng người con đó nếu giữa người cha
đẻ hoặc mẹ đẻ này với bố dượng hoặc mẹ kế
của người con đó không có sự thoả thuận
khác. Ví dụ: Anh A và chị B là vợ chồng hợp
pháp và có một con chung là C. Sau đó anh
A và chị B li hôn, chị B là người nuôi dưỡng
cháu C còn anh A là người cấp dưỡng cho
cháu C. Chị B kết hôn với anh X, anh X
muốn nhận cháu C là con nuôi. Anh A và chị
B đồng ý. Trong trường hợp này, khi anh X
và cháu C xác lập quan hệ nuôi con nuôi thì
không làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ cha
mẹ và con giữa chị B và cháu C mà chỉ chấm
dứt quyền và nghĩa vụ cha mẹ và con giữa
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 8/2011 47
anh A và cháu C nếu anh A và anh X không
có thoả thuận khác. Trong trường hợp (2) và
(3) bố dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của
vợ hoặc chồng mình làm con nuôi thì cũng
không chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa cha
mẹ và con giữa đứa trẻ với người cha hoặc
mẹ (đang là người thực hiện việc nuôi
dưỡng) nhưng sẽ rất khó khăn trong việc xác
định hậu quả pháp lí giữa đứa trẻ đối với
người cha hoặc người mẹ với tư cách là mẹ
nuôi hoặc cha nuôi lần thứ nhất của người
con đó. Liệu những người này có quyền thoả
thuận với bố dượng, mẹ kế (với tư cách là
người nhận nuôi con nuôi lần hai) về việc
thực hiện một số quyền và nghĩa vụ của cha
mẹ đối với người con đó hay không? Bởi vì
hiện nay Luật nuôi con nuôi chỉ quy định về
sự thoả thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi
trong việc thực hiện một số quyền và nghĩa
vụ của cha mẹ đẻ đối với đứa con được đi
làm con nuôi của người khác
(6)
mà không có
quy định về sự thoả thuận giữa cha nuôi
hoặc mẹ nuôi lần thứ nhất với cha nuôi hoặc
mẹ nuôi lần thứ hai. Đặt giả thiết cho những
chủ thể này được quyền thoả thuận thì rất có
thể họ sẽ thoả thuận không chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con và
như vậy người được nhận nuôi là con nuôi
của nhiều người. Điều này có thể đảm bảo
lợi ích tốt nhất cho người được nhận nuôi
nhưng cũng có thể người được nhận con
nuôi sẽ gánh trách nhiệm kép với “những”
người cha nuôi, mẹ nuôi. Ví dụ: Anh A và
chị B là vợ chồng hợp pháp, anh A và chị B
không sinh được con nên đã nhận cháu C
làm con nuôi. Sau đó anh A và chị B li hôn,
chị B là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu C
còn anh A có nghĩa vụ cấp dưỡng. Sau đó
chị B kết hôn với anh X. Anh X muốn nhận
cháu C làm con nuôi. Anh A và chị B đồng
ý. Nếu anh A đồng ý nhưng thoả thuận với
anh X không chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của anh A với cháu C thì cháu C vừa làm
con nuôi của anh X vừa làm con nuôi của
anh A. Xuất phát từ những lí do trên, theo
quan điểm của chúng tôi, trong những
trường hợp này, pháp luật không thể cho
phép xác lập việc nuôi con nuôi!
Ngoại lệ thứ ba, người nuôi là bố dượng
hoặc mẹ kế không nhất thiết phải đảm bảo
điều kiện hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên và
không đương nhiên phải có điều kiện về sức
khoẻ, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Những
trường hợp này nhằm đảm bảo việc nuôi con
nuôi phải đảm bảo đúng mục đích và ý nghĩa
xã hội của nó. Tránh tình trạng việc nuôi con
nuôi sẽ dẫn đến vấn đề lạm quyền, dùng việc
nuôi con nuôi để nhằm các mục đích khác,
ảnh hưởng đến sự phát triển hài hòa về mặt
nhân cách của người được nhận nuôi. Mặt
khác, quy định này đã nới rộng phạm vi, tạo
điều kiện tối đa cho bố dượng, mẹ kế nhận
con riêng của chồng hoặc vợ mình làm con
nuôi, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
cả hai bên chủ thể trong quan hệ gia đình.
Tuy nhiên, cách quy định về khoảng cách độ
tuổi giữa người nhận nuôi và người được
nhận nuôi trong trường hợp này của Luật
nuôi con nuôi sẽ dẫn đến những vấn đề bất
cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Theo
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, độ tuổi
kết hôn đối với nam là hai mươi tuổi trở lên
(19 tuổi + 1 ngày), đối với nữ là 18 tuổi trở
nghiªn cøu - trao ®æi
48 t¹p chÝ luËt häc sè 8/2011
lên (17 tuổi + 1 ngày)
(7)
vì vậy, khoảng cách
về độ tuổi giữa bố dượng, mẹ kế với con
riêng có thể là rất ngắn, đặc biệt là giữa mẹ
kế với con riêng của chồng. Khoảng cách
này có thể bị thu hẹp đến gần sát con số
không. Bởi vì một trong điều kiện nuôi con
nuôi là người nuôi phải có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, tức là đủ 18 tuổi; người được
nhận nuôi trong trường hợp được bố dượng
hoặc mẹ kế nhận nuôi có thể đến dưới 18
tuổi. Vậy thì chỉ cần tính nhẩm cũng có thể
khẳng định, mẹ kế chỉ hơn con riêng của
chồng tối thiểu 1 ngày là có thể nhận con
riêng của chồng làm con nuôi; bố dượng có
thể hơn con riêng của vợ tối thiểu là 1 năm
và 2 ngày là có thể nhận con riêng của vợ
làm con nuôi.
Với những phân tích như trên, chúng tôi
thấy rằng, Luật nuôi con nuôi còn có vấn đề
quy định chưa chặt chẽ, cụ thể, dẫn đến
những vướng mắc và bất cập trong thực tiễn
áp dụng pháp luật. Trong trường hợp bố
dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của chồng
hoặc vợ làm con nuôi cần phải xác định cụ
thể theo hướng:
Bố dượng hoặc mẹ kế khi nhận con riêng
của chồng hoặc vợ làm con nuôi vẫn phải đảm
bảo khoảng cách về độ tuổi nhất định. Chẳng
hạn, bố dượng, mẹ kế khi nhận con riêng của
vợ hoặc của chồng mình làm con nuôi phải
hơn người con đó ít nhất là 10 tuổi. Bởi vì
khoảng cách về độ tuổi như vậy sẽ phần nào
phân biệt được rõ ràng khoảng cách giữa các
thế hệ trong gia đình, tạo cho những mối quan
hệ gia đình được cởi mở, tự nhiên hơn…
Về nguyên tắc, bố dượng hoặc mẹ kế chỉ
được nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm
con nuôi nếu người con riêng này là con đẻ
của một bên vợ, hoặc chồng. Trong trường
hợp con riêng của một bên vợ hoặc chồng là
con nuôi của người đó thì bố dượng hoặc mẹ
kế chỉ được nhận nuôi nếu việc nuôi con
nuôi chỉ đang tồn tại quan hệ nuôi con nuôi
giữa người con nuôi với mẹ nuôi hoặc cha
nuôi. Ví dụ: Anh A khi còn là người độc
thân đã nhận nuôi cháu C. Sau đó anh A kết
hôn với chị B, chị B muốn nhận cháu C là
con nuôi. Trong trường hợp này nên cho
phép xác lập quan hệ nuôi con nuôi nếu đáp
ứng các điều kiện khác do luật định.
Trong trường hợp bố dượng hoặc mẹ kế
nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con
nuôi nếu người con riêng này là con đẻ của
một bên vợ hoặc chồng nhưng đang là con
nuôi của người chồng cũ hoặc vợ cũ của
người cha hoặc người mẹ đẻ thì người đang
là bố dượng hoặc mẹ kế chỉ được nhận con
nuôi khi người con đó đã chấm dứt việc nuôi
con nuôi lần thứ nhất. Trường hợp này, pháp
luật nên bổ sung căn cứ chấm dứt việc nuôi
con nuôi, đó là cho phép cha mẹ đẻ và cha
mẹ nuôi thoả thuận chấm dứt việc nuôi con
nuôi vì lợi ích của người con đó./.
(1).Xem: Điều 8 Luật nuôi con nuôi.
(2).Xem: Điều 14 Luật nuôi con nuôi.
(3).Xem: Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000.
(4).Xem: Điều 21 Luật nuôi con nuôi.
(5).Xem: Điều 25 Luật nuôi con nuôi.
(6).Xem: Điều 24 Luật nuôi con nuôi.
(7).Xem: Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000; Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001
quy định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm
2000; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTPTANDTC ngày
23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.