Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIEU LUAN LOP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ,Quan điểm và phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.88 KB, 27 trang )

1

A. LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm qua, thực hiện đường lối của Ðảng, việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được đẩy mạnh, đạt được kết quả tích cực:
tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được hoàn thiện hơn, phương thức hoạt động
của Nhà nước được đổi mới; Nhà nước quản lý chủ yếu bằng luật pháp, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách; hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước được nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới;
tạo dựng được những bước đi tích cực trong phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
quản lý đất nước; năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế, hệ thống luật pháp, cơ
chế, chính sách chưa đồng bộ, thống nhất; cơng tác điều hành, tổ chức thực thi
pháp luật có những mặt còn yếu; tổ chức bộ máy ở một số cơ quan nhà nước còn
chưa hợp lý, chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, cịn chồng chéo;
chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra, cịn nhiều thủ
tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân; hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu. Cải cách tư pháp cịn chậm, chưa đồng bộ;
cơng tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính
xác, tình trạng án tồn đọng, án bị hủy, bị cải sửa cịn nhiều. Cơng tác phịng, chống
tham nhũng, lãng phí chưa đạt được u cầu đề ra; quan liêu, tham nhũng, lãng phí
vẫn cịn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.

Những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa đã gây ra những khó khăn, cản trở, kềm hãm sự phát triển của đất
1




2

nước. Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta trong thời
kỳ mới đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm
vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Với nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của vấn đề đã nêu
trên, tôi đã chọn đề tài “Quan điểm và phương hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực trạng và giải pháp” làm đề tài
tiểu luận để nghiên cứu.

Nội dung nghiên cứu nhằm khảo sát, đánh giá kết quả thực hiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua. Trên cơ sở đó đưa ra
những giải pháp chủ yếu để tăng cường và đổi mới nội dung xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân. do dân, vì dân trong những năm sắp tới.

Nội dung tiểu luận chủ yếu nghiên cứu trong phạm vi quan điểm và phương
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền có kết hợp nghiên cứu những giải pháp đã
và đang thực hiện có hiệu quả trong lĩnh vực xây dựng nhà nước pháp quyền của
các ngành, các cấp, các địa phương khác liên quan đến đề tài.

Đây là một nội dung đang được đề cập rất nhiều trên lĩnh vực hoạt động của
các cấp bộ đảng và chính quyền. Do vậy, đề tài có kế thừa, tiếp thu những kết quả
nghiên cứu nói trên, nhưng q trình thực hiện có thể tiếp cận vấn đề ở một góc độ
khác nhằm làm rõ thực trạng và đề xuất những giải pháp mà đề tài quan tâm.

Về cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chi Minh, đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thi

của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước; về cải cách hành hành chính; về
dân chủ và phát huy dân chủ để làm rõ một số vấn đề có liên quan đến nội dung
xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới.
2


3

Về phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp phân tích tổng
hợp để thực hiện đề tài, trong đó có kết hợp điều tra, khảo sát, so sánh với phương
pháp lịch sử, tổng kết thực tiễn để rút ra những kết luận, giải pháp khoa học.

Tiểu luận chỉ giới hạn làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu bổ sung nội dung
học tập, là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu các lĩnh vực liên quan, đồng thời
tạo tiền đề cho bản thân nghiên cứu rộng hơn, sâu hơn trên lĩnh vực này về sau.

B. PHẦN NỘI DUNG

3


4

QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM:
1. Khái niệm và những đặc trưng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa:

1.1. Khái niệm về nhà nước pháp quyền:
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp được
hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Nhà nước pháp quyền là nhà nước
trong đó pháp luật thống trị trong xã hội. Nhà nước phải điều chỉnh được các quan
hệ xã hội bằng pháp luật, một quốc gia nào đó chủ yếu điều chỉnh bằng văn bản
dưới luật thì quốc gia đó chưa đủ về chất của nhà nước pháp quyền. Nói một cách
khác, nhà nước pháp quyền cịn được hiểu là một hình thức tổ chức nhà nước và
hoạt động chính trị quyền lực cơng khai (cơng quyền), thể hiện mối quan hệ bình
đẳng giữa các cá nhân và nhà nước dựa trên cở sở của pháp luật. Hiểu theo một
cách đơn giản nhà nước pháp quyền đó là một nhà nước quản lý kinh tế - xã hội
bằng pháp luật và nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật.
Tại hội nghị quốc tế họp tại Benin vào tháng 09 năm 1991 với sự tham gia
của 40 quốc gia, các luật gia đã đưa ra một quan niệm chung về nhà nước pháp
quyền như sau: Nhà nước pháp quyền là một chế độ chính trị mà ở đó nhà nước và
cá nhân phải tuân thủ pháp luật, mọi quyền và nghĩa vụ của tất cả, của mỗi người
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy trình và quy phạm pháp luật được bảo
đảm thực hiện bằng một hệ thống toà án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa
vụ tơn trọng giá trị nhất của con người và đảm bảo cho cơng dân có khả năng, điều
kiện, chống lại sự tuỳ tiện của cơ quan nhà nước bằng việc lập ra cơ chế kiểm tra
tính hợp hiến và hợp pháp của pháp luật cũng như các hoạt động của bộ máy nhà
nước. Nhà nước pháp quyền phải đảm bảo cho cơng dân khơng bị địi hỏi bởi
những cái ngoài Hiến pháp, và pháp luật đã quy định. Trong hệ thống pháp luật thì
4


5

Hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền tự
do và quyền công dân.
1.2. Khái niệm, những đặc trưng cơ bản về nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã ghi rõ: “ Nhà nước phục vụ nhân dân. Gắn bó
chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng,
lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện
pháp kiểm sốt, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách
nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương
xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.
Nhà nước ta xây dựng đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân. Nhà nước lấy pháp luật làm cơng cụ để điều hành và quản lý xã
hội. Pháp luật hợp với lòng dân, hợp với quy luật của cuộc sống là yếu tố cơ bản
để ổn định cuộc sống và phát triển đất nước. Xây dựng bộ máy nhà nước có hiệu
lực, hiệu quả là vấn đề được Đảng ta và toàn xã hội quan tâm.
Trước hết, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước ra
đời, tồn tại và phát triển dựa trên nền tảng: "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân". Ðây là yếu tố cơ bản đầu tiên của mơ hình nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Yếu tố này thể hiện nguồn gốc, bản chất, sức mạnh và tính
chính đáng của quyền lực nhà nước. Điều quan trọng là "Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân" có nội dung và yêu cầu mới. Ðó là nhân dân không chỉ
chủ yếu thực hiện quyền lực nhà nước của mình thơng qua dân chủ đại diện như
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp như trước đây, mà cịn từng bước thực
hiện các hình thức dân chủ trực tiếp. Ðó cịn là cơ sở, là tiêu chí để nhân dân kiểm
sốt, đánh giá hiệu quả hoạt động của nhà nước. Ðiều đó đang đặt ra yêu cầu "tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" không những được ghi nhận trong
Cương lĩnh, trong Hiến pháp và từng bước thể chế trong các đạo luật, mà còn phải
được bảo đảm thực hiện trong thực tế, để cho quyền lực nhà nước thật sự là của
5


6


nhân dân, được nhân dân ủy quyền, giao quyền cho Nhà nước mà không bị mất
quyền, không bị lạm quyền.
Dựa trên các Văn kiện của Đảng cộng sản Việt nam và Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản
thuộc nội hàm khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như
sau:
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước phải có hệ
thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao thể hiện được ý chí, lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với hiện thực
khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội, trong đó Hiến pháp và các đạo luật phải giữ vị
trí tối cao. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cán bộ, công chức nhà nước
và mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước bảo đảm tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình
thơng qua hình thức dân chủ đại diện (qua cơ quan nhà nước do mình bầu ra) và
hình thức dân chủ trực tiếp.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện được quản lý
xã hội bằng pháp luật, tăng cường được pháp chế trong xã hội, xử lý nghiêm minh
mọi vi phạm pháp luật, bảo đảm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do và lợi
ích chính đáng, hợp pháp của công dân, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi
hoạt động của mình.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tổ chức
theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giưã các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư
pháp, nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp của
cơng dân từ phía Nhà nước.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là đặc điểm, đặc trưng, cơ bản, rất quan trọng


6


7

mang tính lý luận và đã được kiểm chứng bằng thực tế lịch sử của cách mạng Việt
Nam.
Với những đặc trưng nêu trên, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nước ta toát lên những tư tưởng quan điểm tiến bộ, phản ánh khát vọng ngàn đời
của nhân dân Việt Nam với một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng ta về nhà nước pháp quyền – nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa:
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền:
Với tiêu chí đề cao dân chủ, pháp luật và tính nhân văn của pháp luật như là
những giá trị cơ bản của nhà nước pháp quyền, Các Mác và Ph.Ăngghen đã hướng
tới một nhà nước pháp quyền mà về mặt nhà nước, chủ trương xây dựng một chế
độ dân chủ triệt để, dân chủ do nhân dân quy định, là bước chuyển từ xã hội thần
dân sang xã hội công dân, là từ nhân dân của nhà nước sang nhà nước của nhân
dân. Dân chủ là xuất phát từ con người và pháp luật cũng vì con người, trong đó
sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do cho tất cả
mọi người. Xã hội mới đó sẽ tạo ra những điều kiện cơ bản nhất để giải phóng con
người, và do vậy xã hội đó phải được xây dựng trên cơ sở pháp luật. Chủ nghĩa
Mác - Lênin cho rằng nhà nước vô sản phải chú trọng xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật sao cho nó đáp ứng được yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội, vì
vậy nhà nước xã hội chủ nghĩa sử dụng pháp luật như là phương tiện để thể hiện
và thực hiện nền chính trị cho phù hợp với lợi ích của nhân dân.
“…Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG,

Hà Nội 2000, t.I tr 436) đã tỏ rõ quan niệm của Hồ Chí Minh về quản lý xã hội theo

pháp luật trong một nhà nước dân chủ theo tinh thần pháp quyền, thượng tôn pháp
luật. Theo Người, nhà nước dân chủ là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Đó là
nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật, bằng Hiến pháp. Ở Hồ Chí
Minh, độc lập gắn liền với Hiến pháp và các lý tưởng dân quyền, một công thức
7


8

chứa đựng đầy đủ yếu tố về một nhà nước pháp quyền. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước pháp quyền là tư tưởng về một nền pháp luật dân chủ, bảo đảm quyền
con người, quyền công dân trong đời sống xã hội. Người viết: “Luật pháp là vũ
khí của một giai cấp thống trị, dùng để trừng trị giai cấp chống lại mình. Luật pháp
cũ là ý chí của thực dân Pháp, khơng phải ý chí chung của tồn thể nhân dân…
Phong kiến đặt ra luật pháp để trị nông dân. Tư bản đặt ra luật pháp để trị công
nhân và nhân dân lao động…Luật pháp của chúng ta hiện nay là ý chí của giai cấp
cơng nhân lãnh đạo cách mạng… Pháp luật của ta hiện nay bảo vệ cho hàng triệu
người lao động” (Hồ Chí Minh: Nhà nước và Pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội 1985, tr 185187).

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là tư tưởng về một nhà
nước có hiệu lực mạnh mẽ, có sự phân cơng và phối hợp giữa các nhánh quyền lực
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền gắn
liền với củng cố đạo đức truyền thống của dân tộc, là sự thống nhất cao giữa pháp
luật và đạo đức. Mối quan hệ giữa đức trị - pháp trị là đặc trưng quan trọng trong
tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền tập trung ở 4 vấn
đề cốt lõi sau:
+ Nhà nước pháp quyền là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền

lực thuộc về nhân dân. Dân chủ là cốt lõi trong tư tưởng nhà nước pháp quyền.
+ Nhà nước pháp quyền là sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân
với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước. Nhà nước pháp quyền phải do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
+ Nhà nước pháp quyền là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp; tơn trọng tính
tối cao của Hiến pháp và pháp luật; quản lý xã hội, quản lý nhà nước theo pháp
luật. Hệ thống pháp luật phải thể hiện đầy đủ tính dân chủ, nhân văn và minh bạch.
+ Nhà nước pháp quyền là nhà nước có bộ máy trong sạch, vững mạnh, hiệu
quả, hiện đại, phù hợp với tình hình và điều kiện phát triển của một quốc gia. Đội
ngũ cơng chức trong nhà nước đó thể hiện trách nhiệm cao trước dân chúng với
các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
8


9

2.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân:
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ cốt lõi của cải cách tổ chức, hoạt động của
nhà nước, là cách cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi
quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam chính
là quá trình tiếp tục xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hoàn
cảnh mới. Dựa trên các văn kiện của Đảng, các quy định của Hiến pháp, quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản sau:
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được
thực hiện trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước và các văn kiện
của Đảng ta.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng phải

giữ vững bản chất giai cấp, bản chất dân chủ thực sự rộng rãi của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải đảm bảo
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với đặc điểm truyền thống về lịch
sử, văn hố Việt Nam, có bản sắc Việt Nam; đảm bảo kế thừa và phát huy truyền
thống, kinh nghiệm quản lý đất nước của dân tộc ta qua suốt chiều dài lịch sử, tiếp
thu có chọn lọc thành tựu của thế giới.
9


10

- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải trở thành yêu cầu
cấp bách đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nói cách
khác bất cứ nội dung nào của cải cách tổ chức, hoạt động của nhà nước đều phải
thấm nhuần yêu cầu và định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một quá trình từ thấp
đến cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện, phải tiến hành từng bước
vững chắc, phải dựa trên cơ sở thường xuyên tổng kết thực tiễn, kịp thời điều
chỉnh bổ sung. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN gắn liền với quá trình đổi
mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ xã hội
XHCN và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết

và phải đảm bảo ổn định chính trị, ổn định kinh tế-xã hội, ngăn chặn được âm mưu
và hành động của các thế lực thù địch và bọn cơ hội.

II. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA:
1. Đặc điểm tình hình chung:
Với đặc điểm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hướng tới
một nhà nước trong sạch, vững mạnh; có hiệu lực, hiệu quả dưới sự lãnh đạo của
Đảng thì việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một tất
yếu khách quan để đảm bảo sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước.
Cần khẳng định rằng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam vì bản thân lý luận về nhà nước pháp quyền có những điểm tiến bộ, hợp lý
trong việc thực hành quyền dân chủ, trong việc tổ chức, hoạt động của nhà nước.
Nhà nước pháp quyền trong các đặc trưng của nó có nhiều điểm phù hợp với bản
chất của nhà nước ta. Nhà nước pháp quyền là trình độ phát triển hiện đại của tổ
chức và hoạt động của nhà nước với sự hoàn thiện của công cụ quản lý là pháp

10


11

luật. Vì vậy Đảng ta xác định rõ: xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là một quá trình lâu dài, bên cạnh
những thuận lợi cơ bản, những cơ hội, vận hội tốt, Việt Nam vẫn phải đối mặt với
nhiều cam go, trở ngại và những thách thức lớn. Có thể nhận thấy rất rõ nhiều vấn
đề phức tạp và những trở ngại, thậm chí là cả những lực cản vơ hình và hữu hình
kềm hãm quá trình phát triển của đất nước ta. Điều đó thể hiện ở thực trạng tổ

chức, hoạt động của nhà nước ta còn nhiều khiếm khuyết, yếu kém, chưa thực sự
là nhà nước tuân thủ pháp luật và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Bộ máy
nhà nước ta chưa thực sự trong sạch, vững mạnh; trình độ quản lý kém, bất cập;
tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu cịn diễn ra nghiêm trọng; kỷ cương xã
hội bị buông lỏng; sự hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật của đại bộ phận nhân dân
còn kém.; niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước có giảm sút.
Quản lý nhà nước chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Tổ
chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nặng nề, hiệu quả thấp, hiệu lực quản lý
điều hành còn chưa nghiêm; sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn những điểm chưa
rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ phân cấp giữa Trung ương và địa phương
còn một một số mặt chưa cụ thể làm cho tình trạng tập trung quan liêu cũng như
phân tán, cục bộ chậm được khắc phục. Năng lực điều hành, quản lý, đạo đức công
vụ là những vấn đề lớn cần phải khắc phục ngay.
Nhu cầu hội nhập quốc tế bắt buộc chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh công
cuộc cải cách nhà nước, cải cách pháp luật; tăng cường xây dựng nhà nước khơng
ngừng vững mạnh tồn diện, có đủ năng lực thực tiễn cả về đối nội và đối ngoại để
thực hiện có hiệu quả cao các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng và phát
huy dân chủ, hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, văn minh.

11


12

2. Thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong thực tiễn:
2.1. Những thành tựu đạt được:

Trong thực tế, qua hơn hai mươi lăm năm đổi mới, thực tiễn đã chứng minh
quá trình cải cách tổ chức, hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Ðảng, việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được đẩy mạnh, đạt được kết quả
tích cực, tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được hoàn thiện hơn, phương thức
hoạt động của Nhà nước được đổi mới; Nhà nước quản lý chủ yếu bằng luật pháp,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các nguồn lực của Nhà
nước, giảm bớt các mệnh lệnh hành chính can thiệp vào các lĩnh vực kinh tế, hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu
cầu của công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Điều đầu tiên phải nói đến, đó là những thành tựu trong quá trình tổng
kết thực tiễn và phát triển về lý luận xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
Tư tưởng về xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân ngày
càng được thể hiện rõ nét trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, trong
các bản Hiến pháp qua các thời kỳ. Lần đầu tiên Văn kiện của Đảng sử dụng thuật
ngữ “Nhà nước pháp quyền” là Văn kiện Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm
kỳ khố VII. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cở sở
tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp cơng
nhân với nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng lãnh đạo.
12


13


Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) tiếp tục nêu quan
điểm cơ bản cần nắm vững trong q trình xây dựng kiện tồn nhà nước là xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Gắn xây dựng nhà nước pháp
quyền với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; quản lý xã hội bằng pháp luật
đồng thời coi trọng giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khoá (VIII) khi phân tích
nguyên nhân yếu kém trong xây dựng nhà nước đã chỉ rõ: việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ
mới mẻ, hiểu biết của chúng ta cịn ít, có nhiều việc phải vừa làm vừa tìm tịi rút
kinh nghiệm.
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX nhận thức về nhà nước pháp quyền đã
được khẳng định, được coi là một chủ trương có tính chiến lược, lâu dài. Đảng ta
khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”
(Đảng CSVN: Văn kiện ĐHĐB IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr 131). Mọi cơ quan nhà

nước, các tổ chức, cán bộ, cơng chức, mọi cơng dân đều có nghĩa vụ chấp hành
Hiến pháp và pháp luật.
Đại hội X xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay là xây dựng cơ
chế vận hành của Nhà nước; xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ
quan công quyền; tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; tích
cực phịng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.
Đại hội XI tiếp tục khẳng định: chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ,
quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện chủ yếu bằng Nhà nước. Ðảng ta là
đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo toàn xã hội cũng chủ yếu bằng Nhà nước và thơng
qua Nhà nước. Vì vậy, chăm lo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam thật sự của dân, do dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh, quản lý có hiệu
13


14

lực, hiệu quả trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối
ngoại của đất nước luôn là mối quan tâm, là nhiệm vụ hàng đầu của Ðảng và nhân
dân ta.
Thứ hai, là kết quả trong xây dựng, củng cố, cải cách, hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của Nhà nước.
Tiếp tục phát huy cao độ bản chất dân chủ của nhà nước và chính quyền các
cấp, nhất là ở cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân lao động thực hiện ngày càng tốt
hơn quyền làm chủ và quyền làm chủ của mình thơng qua các hình thức dân chủ
đại diện, dân chủ trực tiếp, dân chủ tự quản tham gia tích cực vào xây dựng và bảo
vệ nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động của nhà nước, cán bộ, công chức nhà
nước.
Đổi mới và nâng cao một bước chất lượng hoạt động của Quốc hội. Quốc
hội được kiện toàn về tổ chức, phương thức hoạt động có nhiều đổi mới, chất
lượng hoạt động được nâng cao. Hoạt động giám sát đã tập trung vào những vấn
đề bức xúc, quan trọng của đất nước. Hoạt động lập pháp đang đứng trước yêu cầu
to lớn về hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như yêu cầu mới mẻ, phức tạp của
việc điều chỉnh pháp luật nên đã bộc lộ một số bất cập trong thiết kế hoàn thiện
tổng thể hệ thống pháp luật và trong xác định thứ tự ưu tiên cần thiết của từng văn
bản pháp luật cũng như nâng cao tính khả thi và tính hiệu lực của văn bản pháp
luật.
Thực hiện Nghị định 13 và 14/ NĐ-CP, đã kiện toàn một bước bộ máy nhà
nước theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững mạnh hoạt động có hiệu lực và hiệu
quả; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trước nhân dân. Tăng
cường xây dựng và củng cố, hoàn thiện các thể chế hành chính nhà nước và tổ

chức hành chính nhà nước, nền hành chính nhà nước đang đổi mới theo xu hướng
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hố.
Củng cố, kiện tồn Hội đồng nhân dân các cấp làm đúng chức năng, nhiệm
vụ theo Luật định. Tổ chức bộ máy chính quyền địa phương các cấp được củng cố,
kiện toàn, chất lượng, hiệu quả hoạt động từng bước được nâng lên. Việc đào tạo,
bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được quan tâm. Công
14


15

tác đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí được tích cực chỉ đạo,
đạt một số kết quả.
Chính phủ từng bước được sắp xếp, điều chỉnh theo hướng tinh gọn; các bộ
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực được thành lập với những chức năng, nhiệm vụ
được điều chỉnh, đổi mới, tập trung vào lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý vĩ mô,
giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng, tách khỏi quản lý hoạt động sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp.
Cải cách tư pháp được đẩy mạnh. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp được đổi mới. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng, sự tham gia của luật sư
trong tố tụng và các hoạt động tranh tụng tại phiên tòa ngày càng tốt hơn, hạn chế
được tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan sai hay bỏ lọt tội phạm. Công tác thi
hành án được tăng cường. Chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án được nâng lên. Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp đảm bảo dân
chủ, khách quan, minh bạch, chống và giảm bớt oan, sai. Củng cố đồng bộ hệ
thống cơ quan toà án, viện kiểm sát, điều tra, thi hành án, bổ trợ tư pháp.
Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng, đã rà sốt bước đầu tổng hợp
thành bộ thủ tục hành chính thống nhất và công bố công khai. Trước hết đã tập
trung cải cách thủ tục hành chính, từng bước cải cách thể chế hành chính trên các
lĩnh vực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, trong điều kiện hội nhập quốc tế; xây dựng một hệ thống hành chính thơng
suốt, rõ về chức năng, nhiệm vụ, tinh giản gọn nhẹ.
Đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Chú trọng
xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Việc quản lý, sử dụng, được đổi mới một bước theo các quy
định của pháp luật về cán bộ công chức. Coi trọng gắn kết hợp chế độ trách nhiệm,
khen thưỏng và kỷ luật. Cải cách một bước chế độ tiền lương để nâng cao đời
sống. Quan tâm đầu tư cho cán bộ cấp cơ sở.

15


16

Tiến hành kiên quyết thường xuyên công tác đấu tranh chống tham nhũng,
quan liêu, xử lý nghiêm những người vi phạm đồng thời tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục pháp luật, củng cố kỷ luật trong nội bộ cơ quan nhà nước.
Thứ ba, là xây dựng, đổi mới hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật.
Công tác xây dựng pháp luật được quan tâm hơn. Các văn bản luật được
quan tâm ban hành để điều chỉnh cho hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ
thống pháp luật phát triển khá cân đối, điều chỉnh từ các lĩnh vực: tổ chức, hoạt
động của nhà nước đến các lĩnh vực kinh doanh, bảo vệ quyền của công dân và
các chủ thể... Cơ chế xây dựng pháp luật được đổi mới, do đó hệ thống pháp luật
đã có những đổi mới quan trọng phù hợp với sự thay đổi cơ chế kinh tế, với tình
hình và nhiệm vụ mới của thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước và hội
nhập quốc tế.
Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán,
quyết toán ngân sách Nhà nước, các cơng trình trọng điểm quốc gia có chất lượng
và thực chất hơn. Hoạt động giám sát tình hình và kết quả thực hiện các chủ

trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, các dự án, cơng trình trọng điểm quốc
gia, những vấn đề bức thiết, quan trọng của đất nước được đẩy mạnh, chất lượng
được nâng lên.
Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật được tăng cường. Nhà nước đã
dần thực sự dựa vào pháp luật để quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
2.2. Những tồn tại cần khắc phục trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam:
Tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm,
yếu kém: tổ chức cồng kềnh nhưng chất lượng thấp, kém hiệu quả; nhiều tầng nấc,
ban bệ nhưng chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; tiêu
chuẩn cán bộ, công chức nhà nước đã được xác định rõ nhưng bất cập giữa lý luận
và thực tiễn; hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước chưa cao.
16


17

Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước cịn bộc lộ khơng ít những
nhược điểm, nhiều mặt cịn chưa theo kịp và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới. Tổ chức hành chính khơng thơng suốt, các mối quan hệ trên dưới, quan hệ
ngang cấp, quan hệ địa phương thật sự không rõ ràng đã bộc lộ cơ chế lỗi thời,
thiếu minh bạch. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch, thẩm quyền
cá nhân chưa được quy định rõ. Phong cách làm việc trước dân của cán bộ, cơng
chức cịn là vấn đề bức xúc.
Về lĩnh vực tư pháp, tổ chức và hoạt động còn nhiều bất cập, sai sót; khơng
phát huy đúng vai trị của cơ quan tư pháp trong quản lý xã hội. Hệ thống pháp
luật còn cần tiếp tục đổi mới mạnh và sâu sắc hơn nữa. Nhiệm vụ cấp bách hàng
đầu trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền đang đặt ra là quyết tâm đổi mới hệ
thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh.
2.3. Đánh giá chung:

Chăm lo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật sự
của dân, do dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh, quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao
mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại của đất nước
luôn là mối quan tâm, là nhiệm vụ hàng đầu của Ðảng và nhân dân ta.
Đánh giá một cách chung nhất, công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất
nước. Năng lực xây dựng thể chế, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách cịn hạn
chế, chưa đồng bộ, thiếu thống nhất.
Công tác điều hành, tổ chức thực thi pháp luật có những mặt cịn yếu. Tổ
chức bộ máy ở một số cơ quan nhà nước còn chưa hợp lý, chức năng, nhiệm vụ
của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức chưa đáp ứng u cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới của đất nước.
Cải cách hành chính chưa đạt u cầu đề ra, cịn nhiều thủ tục hành chính
gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên
một số lĩnh vực còn yếu.
17


18

Cải cách tư pháp cịn chậm, chưa đồng bộ. Cơng tác điều tra, giam giữ, truy
tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác, tình trạng án tồn đọng, án bị
hủy, bị cải sửa cịn nhiều.
Cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra.
Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, đẩy
lùi. Những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa đã gây ra những khó khăn, cản trở, làm hạn chế thành tựu của đất nước,
trong một số lĩnh vực còn tạo nên bức xúc xã hội.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta trong thời

kỳ mới đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm
vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
TÌNH HÌNH MỚI:
1. Cơ sở xác định phương hướng:
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định xây dựng nhà nước pháp quyền là
nhiệm vụ trung tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Tồn bộ hệ thống quan điểm
của Đảng ta về hệ thống chính trị, xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị từ sau
Đại hội VI đến nay đều luôn nhất quán trong việc xây dựng và hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy khơng thể đặt nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa bên ngồi q trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng đã thơng qua các văn kiện
quan trọng, trong đó vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân được đề cập một cách toàn diện, từ những quan điểm chung
đến những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã xác định: Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
18


19

mà nhân dân ta xây dựng; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân là một trong 8 phương hướng cơ bản mà Ðảng và nhân dân ta
cần phải quán triệt, thực hiện tốt để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Cương lĩnh đã
đề ra. Ðồng thời, Cương lĩnh còn xác định rõ bản chất và các nguyên tắc cơ bản về
tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như tất cả quyền
lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân

với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có sự phân cơng, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống
nhất của Trung ương. Ðây là những quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
2. Phương hướng chung:
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện một hệ thống lý luận về nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trên cơ sở thừa nhận và khẳng định nhà nước là một tất yếu lịch
sử và tất yếu khách quan. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện lý luận về đổi mới tổ
chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế bộ máy nhà nước làm cho
bộ máy nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ
trong thời kỳ mới. Phát huy dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trong
xây dựng nhà nước và quản lý xã hội. Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, hiện đại và tăng cường tổ chức thực hiện có hiệu
quả pháp luật đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội theo tinh thần nâng
cao vai trò phản biện xã hội và giám sát xã hội. Tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước.

19


20

3. Phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân, vì dân:
3.1. Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân:
Phát huy vai trị của một thiết chế duy nhất có khả năng bảo đảm công bằng
xã hội bằng phương tiện pháp luật làm cho công bằng xã hội trở thành động lực
của sự phát triển xã hội.
Xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện có hiệu quả các hình thức làm chủ của
nhân dân, hòan thiện cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; khắc phục tình
trạng vi phạm dân chủ, coi nhẹ dân chủ, dân chủ hình thức...;Tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa; thực hiện tốt việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân; ý kiến phản
biện xã hội của các tổ chức chính trị xã hội; thể chế hóa phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Quy định quyền của người dân được thơng tin về pháp luật, các chủ trương,
chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống và
lợi ích của nhân dân; có quy chế và các hình thức để nhân dân , cán bộ, công chức
ở cơ sở được bàn bạc và tham gia ý kiến vào các chủ trương, nhiệm vụ cơng tác
của Đảng, chính quyền cơ sở.
Có quy định về việc để nhân dân bàn và quyết định dân chủ đối với những
việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân; khi tổ chức thực hiện phải
có sự kiểm tra, giám sát của nhân dân .
Thực hiện cơ chế để nhân dân kiểm tra , giám sát hoạt động chính quyền;
xác định rõ trách nhiệm và tổ chức tốt việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo và
trả lời thắc mắc của nhân dân. Tổ chức định kỳ để chính quyền báo cáo cơng việc
trước dân, lấy ý kiến đóng góp, phê bình của nhân dân.
3.2. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật:
Hoàn thiện Hiến pháp, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện tạo
cơ sở pháp lý cho hoạt động của toàn xã hội, nhất là cho tổ chức, hoạt động của

20



21

nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước, đồng thời có chuẩn mực rõ ràng để đánh
giá đúng sai, tăng cường pháp chế trong đời sống nhà nước và xã hội.
Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật đảm bảo việc tổ chức thực hiện
pháp luật phải nghiêm minh. Đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật,
mở rộng các hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật, dịch vụ và tư vấn pháp lý
trong xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, xây dựng
nền văn hoá pháp lý trong đời sống xã hội.
3.3. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Quốc hội:
Ðổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội thật sự là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Cải tiến, nâng cao chất lượng các kỳ họp
của Quốc hội, hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và
các Ủy ban của Quốc hội; nhất là cải tiến, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật,
quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước.
Trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn
về lập pháp, hồn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành luật.
Quốc hội phải làm tốt chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Phân cơng, phân cấp nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương,
kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành và theo lãnh thổ; thực hiện đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ; tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân; kiện tồn các cơ quan
chun mơn của Uỷ ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp cơ sở.
3.4. Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước:


21


22

Đẩy mạnh cải cách hành chính, hướng đến mục tiêu xây dựng nền hành
chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. Điều
chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng
thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiêm vụ trong cả nước bằng hệ thống
pháp luật, chính sách hồn chỉnh. Định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ theo
hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi tồn quốc, cung cấp dịch vụ
cơng.
Kiện tồn tổ chức và hoạt động của Chính phủ và UBND các cấp theo
hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, tổ
chức tinh gọn, hợp lý; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm,
tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan của Chính phủ; thực hiện
phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương, đồng thời nâng cao chất lượng quy
hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương; đẩy mạnh cải
cách hành chính, bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công
dân.
3.5. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây
dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh:
Đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng một nền tư pháp trong sạch, công
tâm, khách quan, độc lập trong hoạt động nghiệp vụ, đồng thời chịu sự kiểm tra,
giám sát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền.
Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư
pháp. Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. Sắp xếp lại hệ thống toà án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của tòa
án các cấp. Tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng gọn đầu mối. Thành lập cảnh
sát tư pháp.

Hồn chỉnh chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư
pháp. Ðổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tòa án, viện
kiểm sát, cơ quan điều tra, các tổ chức bổ trợ tư pháp...
Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền
địa phương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục thực hiện thí
22


23

điểm chủ trương không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường; nghiên
cứu tổ chức chính quyền đơ thị, hải đảo.
3.6. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân:
Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, có phẩm chất và năng lực
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Bổ sung, hồn thiện quy chế quản
lý cán bộ, cơng chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm
của cán bộ, cơng chức ở từng vị trí cơng tác.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nhà nước. Có kế hoạch,
chính sách đào tạo cán bộ, cơng chức và sắp xếp đội ngũ cán bộ công chức theo
đúng chức danh, tiêu chuẩn.
Ðổi mới chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ hồn thành tốt
nhiệm vụ, có cơ chế loại bỏ những người khơng hồn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ
luật, khơng có uy tín với nhân dân.
Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời hồn
thiện chế độ cơng vụ, quy chế cán bộ, coi trọng cả năng lực và đạo đức.
Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi
ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.
3.7. Đẩy mạnh chống quan liêu, tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực

khác trong bộ máy nhà nước:
Tăng cường củng cố tổ chức và hoàn thiện cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh đấu
tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và tồn bộ hệ thống chính trị, ở
các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống
lãng phí, quan liêu, chống buôn lậu.
23


24

Bổ sung hồn thiện các cơ chế chính sách, xố bỏ các thủ tục hành chính
phiền hà đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm kê, kiểm sốt. Hồn thiện
thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là trong các lĩnh vực dễ xảy ra tham
nhũng, lãng phí; thực hiện cơng khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư, mua sắm từ ngân sách nhà
nước, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công; thực hiện kê khai, công khai tài sản,
thu nhập của cán bộ, công chức.
Cải cách cơ bản chế độ tiền lương nâng cao đời sống, chống đặc quyền đặc
lợi. Có chính sách khen thưởng đối với người có thành tích đi đơi với xử lý
nghiêm theo pháp luật và theo Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên vi phạm ở
bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào. Xem xét trách nhiệm hình sự hoặc có hình thức kỷ
luật thích đáng đối với những người đứng đầu cơ quan, đơn vị nơi xảy ra những vụ
tham nhũng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng. Có cơ chế bảo vệ, khuyến khích người
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Phát huy vai trò của đảng viên, tổ chức đảng, mặt trận tổ quốc, các đồn thể
nhân dân, các cơ quan thơng tin đại chúng và toàn xã hội trong đấu tranh chống
tham nhũng.
Thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức học tập tư tưởng và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
3.8. Đổi mới tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước:

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với nhà nước là yêu cầu cấp bách. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước là bảo đảm cho việc giữ vững bản chất XHCN của nhà nước và
cho sự thành cơng của q trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong việc đề ra chủ
trương, đường lối và các chính sách lớn định hướng cho sự phát triển trong từng
thời kỳ; lãnh đạo nhà nước thực thi Hiến pháp, pháp luật; xây dựng bộ máy nhà
nước tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
24


25

Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, có trí tuệ,
trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng; kiểm tra việc quán triệt và tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương của đảng, pháp luật của Nhà nước; củng cố nâng
cao chất lượng và hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong bộ máy nhà
nước.

C. KẾT LUẬN
Hơn tám mươi năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong bất cứ hoàn cảnh
cực kỳ khó khăn nào, Đảng ta ln quan tâm đến xây dựng chính quyền nhà nước,
xác định nhà nước là trụ cột trong hệ thống chính trị của nước ta. Trong thời kỳ đất
nước đi vào công cuộc đổi mới trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bối cảnh đất nước đi vào hội nhập quốc tế, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một đòi hỏi khách quan đối với đất nước
trong tiến trình thực hiện cải cách hành chính, xây dựng một nền hành chính
chuyên nghiệp và lành mạnh để đáp ứng mục tiêu phấn đấu vì dân giàu nước
mạnh, dân chủ, văn minh.
Ðại hội XI đã đề ra mục tiêu, nhiệm vu tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng,

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phải bảo đảm Nhà nước ta
thật sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Nhà nước phải
chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân.
Do đó, cần nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành để thật
sự bảo đảm đúng nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ðồng
thời, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm Nhà
nước thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội phù hợp yêu cầu phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; mở rộng
dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, kỷ luật, kỷ cương trong
mọi lĩnh vực của xã hội. Yêu cầu làm tốt chức năng quản lý, nâng cao hiệu lực,
25


×