Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIEU LUAN HOAT DONG XD PHAP LUAT (phân tích các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.38 KB, 20 trang )

1
A. LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt động ban hành văn bản pháp luật, bao
gồm từ khâu nghiên cứu, soạn thảo, thông qua và công bố văn bản.
Hoạt động xây dựng pháp luật là lĩnh vực cơ bản, quan trọng của nhà nước ta
nên nó là lĩnh vực thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhà luật học và các nhà
xã hội học pháp luật. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
khẳng định: “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân...Nhà nước ban hành pháp luật tổ chức quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” và “ Đẩy mạnh việc
thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp
trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”.
Chúng ta có thể thấy rằng, hoạt động xây dựng pháp luật là lĩnh vực hoạt động
cơ bản, quan trọng của nhà nước. Chính vì vậy, việc tạo ra các văn bản quy phạm
pháp luật phản ánh nhu cầu khách quan của xã hội là vấn đề có ý nghĩa quyết định
đối với chất lượng và hiệu quả của quản lý nhà nước. Đó là hoạt động soạn thảo, ban
hành các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Nếu như luật học hướng sự quan tâm tới việc nghiên cứu
quy trình, kỹ năng xây dựng pháp luật, luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
các tiêu chuẩn, nguyên tắc xây dựng để có một văn bản quy phạm pháp luật tốt
thì xã hội học nghiên cứu, khảo sát các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng
pháp luật.
Hoạt động xây dựng pháp luật của nước ta từ khi tiến hành công cuộc đổi
mới đất nước (1986) đến nay đã có những tiến bộ quan trọng, tạo khn khổ pháp lý
hồn chỉnh hơn để nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Tuy nhiên, cơ chế xây
dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa coi trọng đổi mới, hoàn thiện,


2
tiến độ xây dựng pháp luật còn chậm, chất lượng các văn bản chưa cao, tính khả thi
thấp, chậm đi vào cuộc sống.


Để nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật bên cạnh việc cần thực hiện tốt chủ
trương của Đảng về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong văn kiện XI của
Đảng, nghị quyết số 48, 49 của Bộ chính trị thì hoạt động xây dựng pháp luật cũng
phải chú trọng đến tính xã hội trong xây dựng pháp luật. Chính vì vậy, bản thân chọn
đề tài về “Phân tích các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật” để
làm tiểu luận cho mình.


3

B. PHẦN NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT:
1. Khái niệm xây dựng pháp luật:
Xây dựng pháp luật là một trong những hình thức hoạt động cơ bản nhất của
nhà nước nhằm tạo ra công cụ, phương tiện hữu hiệu phục vụ công tác quản lý nhà
nước, quản lý xã hội. Có thể nói, việc xây dựng pháp luật tạo ra các văn bản quy
phạm pháp luật, phản ánh nhu cầu, đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội, bám
sát và phù hợp với thực tiễn xã hội là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với chất
lượng và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước. Đây là hoạt động của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, các tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền nhằm soạn thảo
và ban hành các bộ luật, đạo luật, văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Theo nghĩa rộng, hoạt động xây dựng pháp luật gồm cả hoạt động nghiên cứu
khoa học nhằm thu thập các luận cứ, làm sáng tỏ những cơ sở lý luận, thực tiễn
và pháp lý liên quan đến văn bản pháp luật đang cần xây dựng, ban hành, tổ chức
hội thảo, hội nghị, theo dõi thực tế áp dụng pháp luật.
Hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo, thể hiện q trình
nhận thức ngày càng đẩy đủ hơn, sâu sắc hơn các quy luật xã hội, nhất là quy luật
về lợi ích, đánh giá đúng tầm quan trọng của các quan hệ xã hội cơ bản cần có để
pháp luật điều chỉnh.
2. Chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật:

Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, hoạt động xây dựng pháp luật vừa mang tính
giai cấp, vừa mang tính dân chủ rộng rãi, vừa là hoạt động có tính chất nghề nghiệp.


4
Hoạt động xây dựng pháp luật được tiến hành trên cơ sở kế hoạch ngắn hạn và dài
hạn do các cơ quan có thẩm quyền đặt ra. Đó cũng là hoạt động được điều chỉnh
bằng pháp luật. Hoạt động xây dựng pháp luật đảm bảo cho mỗi văn bản thể hiện
được ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, làm cho pháp luật thực sự của dân,
do dân, vì dân, được thực hiện có nề nếp, trật tự.
Xét về mặt chủ thể, hoạt động xây dựng pháp luật bao gồm khơng chỉ các cơ
quan, chính quyền nhà nước, các nhà chức trách có thẩm quyền mà cịn có các tổ
chức đoàn thể xã hội được giao những nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý nhà nước.
Nhân dân la chủ thể rộng rãi của hoạt động xây dựng pháp luật. Tính tích cực, sang
tạo của nhân dân được thể hiện rõ nét trong các cuộc vận động đóng góp ý kiến vào
những văn bản pháp luật, kiến nghị bổ sung, sửa đổi văn bản cho phù hợp với thực tế
hơn.

3. Quy trình hoạt động xây dựng pháp luật:
Hoạt động xây dựng pháp luật là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn với quy
trình và hàng loạt các thao tác, thủ tục cần thiết diễn ra trong một khoảng thời gian
nhất định. Các giai đoạn xây dựng pháp luật bao gồm:
Giai đoạn thứ nhất: nêu sáng kiến, đề xuất yêu cầu về sự cần thiết phải ban hành
một Bộ luật, đạo luật mới hoặc sửa đổi một số văn bản pháp luật hiện hành. Trên
cơ sở các sáng kiến, đề xuất, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội (hoặc cơ quan có thẩm
quyền khác) thơng qua, ra nghị quyết về soạn thảo dự án luật liên quan đến yêu cầu
đã đề xuất.
Giai đoạn thứ hai: soạn thảo dự án văn bản luật theo sáng kiến đã được thông
qua. Các cơ quan, cá nhân có trách nhiệm soạn thảo văn bản theo đề cương đã thống



5
nhất, tổ chức hội thảo khoa học, tọa đàm, thảo luận, lấy ý kiến của các cơ quan,
chuyên gia và các tầng lớp nhân dân về văn bản dự thảo đó.
Giai đoạn thứ ba: các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, thảo luận
và thông qua dự án luật. Đây là giai đoạn quan trọng nhất và có tính quyết định của
q trình xây dựng pháp luật. Kết quả của giai đoạn này là sự khai sinh ra các Bộ
luật, đạo luật, văn bản quy phạm pháp luật hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp
luật hiện hành.
Giai đoạn thứ tư: cũng là giai đoạn cuối cùng của hoạt động xây dựng pháp luật,
là công bố văn bản pháp luật mới được ban hành.
II. PHÂN TÍCH NHỮNG KHÍA CẠNH XÃ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG XÂY
DỰNG PHÁP LUẬT:
1. Các khía cạnh xã hội của hoạt động trước và trong khi xây dựng, ban
hành pháp luật:
Các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật trước và trong khi xây
dựng pháp luật được xã hội học pháp luật ban hành đó là:
- Các mối liên hệ giữa pháp luật với hiện thực xã hội và các nhân tố xã hội
có ảnh hưởng liên quan đến pháp luật hiện thực, xã hội luôn vận động, biến đổi
và phát triển kéo theo sự biến đổi và phát triển của các mối quan hệ xã hội. Pháp
luật về thực chất là sự phản ánh hiện thực xã hội dưới góc nhìn lợi ích của nhà nước,
của giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội khác nhau. Do đó pháp luật cũng phải vận động
và phát triển một cách tương thích với sự vận động và phát triển của các quan hệ
xã hội. Nắm bắt đầy đủ các mối liên hệ của pháp luật với hiện thực xã hội và các
nhân tố xã hội có ảnh hưởng, liên quan đến pháp luật là cơ sở để đảm bảo tính tồn
diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và kịp thời của hệ thống pháp luật nói chung, của
từng văn bản pháp luật nói riêng.


6

Khảo sát xã hội học, thu thập thông tin, tài liệu, các luận cứ thực tiễn nhằm đánh
giá đúng đắn cơ cấu, thực trạng các quan hệ xã hội thuộc các lĩnh vực đang cần
có pháp luật điều chỉnh, các giá trị chuẩn mực pháp luật không thể là kết quả của sự
“suy đoán” hay “suy luận chủ quan” mà nó phải được rút ra từ chính thực tiễn các
quan hệ xã hội hiện thực. Khía cạnh này nói lên tính quy định xã hội của pháp luật.
Khảo sát, điều tra xã hội học nên được coi là một hoạt động không thể thiếu, gắn liền
với hoạt động xây dựng pháp luật. Khía cạnh nghiên cứu này mang đến cho các chủ
thể của hoạt động xây dựng pháp luật sự hiểu biết đầy đủ, chân thực, khách quan và
sâu sắc về cơ cấu, tình hình thực tế, nguyên nhân của những mặt tồn tại. Đây là cơ sở
thực tiễn giúp cho dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật bám sát và phù hợp với
đời sống xã hội.
Nghiên cứu các hình thức thu thập thơng tin, tài liệu lý luận và thực nghiệm phục
vụ cho công tác xây dựng các dự án luật, bao gồm tổ chức các nhà lãnh đạo,
nhà quản lý các cấp, các ngành, phỏng vấn sâu các nhà khoa học, các chuyên gia
pháp lý; tập hợp và nghiên cứu các loại sách chuyên khảo chuyên đề, tham khảo các
văn bản pháp luật của nước ngoài có liên quan.
Vấn đề tiến hành các thực nghiệm xã hội học pháp luật. Đây là vấn đề khó khăn
và phức tạp địi hỏi phải sử dụng chun giá có trình độ lý luận về pháp luật và kinh
nghiệm thực tiễn ở trình độ cao để thực hiện, nhưng ý nghĩa và hiệu quả của nó lại
rât quan trọng.
Vấn đề đảm bảo sự tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật của các
chủ thể pháp luật, đặc biệt là của đơng đảo các tầng lớp nhân dân; tìm kiếm các biện
pháp khả thi để phát huy cao nhất trí tuệ của từng cá nhân cũng như trí tuệ tập thể
đóng góp vào q trình xây dựng các dự án luật. Thực tế xây dựng pháp luật đã
chứng minh việc huy động trí tuệ của nhân dân vào hoạt động xây dựng pháp luật
thông qua việc tiếp thu là lắng nghe các ý kiến có giá trị của họ. Cụ thể như đợt lấy ý
kiến nhân dân trong việc đóng góp cho dự thảo Bộ luật dân sự được tổ chức rộng rãi


7

nhất và trong thời gian dài nhất. Qua ý kiến đóng góp của nhân dân đã bổ sung thêm
vào Bộ luật dân sự 10 điều, với nội dung nói về quyền nhân thân; 46 điều nói về
quyền sở hữu và 20 điều nói về nghĩa vụ và hợp đồng dân sự.
Quan hệ qua lại giữa định hướng chính trị, đường lối, chính sách của Đảng, giai
cấp cầm quyền với văn bản pháp luật cần xây dựng. Pháp luật là công cụ chính
trị nhưng khơng được quy về chính trị, cho nên khi xem xét vấn đề này không được
coi thường đặc điểm quan trọng của pháp luật là nó nảy sinh từ sự phát triển của
quyền lực chính trị. Dự án luật có được thơng qua, phê chuẩn hay khơng, nhanh hay
chậm phụ thuộc rất lớn vào vấn đề này.
Nghiên cứu sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cử tri địa phương
và nghị sỹ đại biểu Quốc hội trong quá trình xây dựng pháp luật là vấn đề đặc
biệt được quan tâm. Như vậy, sự đồng thuận xã hội là nhân tố cốt lõi tạo nên các
giá trị chuẩn mực pháp luật mang tính nhân văn vì lợi ích chung của tồn xã hội.
2. Các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật sau khi pháp luật
được ban hành và có hiệu lực thi hành:
Việc ban hành các văn bản pháp luật là quan trọng nhưng quan trọng hơn là phải
làm sao để pháp luật được ban hành có thể phát huy được vai trị, tác dụng của nó;
chuyển từ “pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động” của mọi tầng
lớp trong xã hội. Mục đích của hướng nghiên cứu các khía cạnh xã hội của hoạt động
xây dựng pháp luật sau khi pháp luật được ban hành và có hiệu quả thực thi là nhằm
tìm kiếm các thơng tin phản hồi từ các kênh khác nhau về ưu điểm, nhược điểm của
văn bản pháp luật đã được ban hành đang có hiệu lực thực thi để phục vụ cho việc
sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, từng văn bản
pháp luật nói riêng. Các khía cạnh đó bao gồm:
- Các biện pháp đảm bảo hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật sau khi được
ban hành và triển khai vào thực tiễn cuộc sống.


8
- Tính hiệu quả của các văn bản pháp luật trong quá trình thực hiện, ý nghĩa

và tác dụng thực tế của chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để đánh
giá vấn đề này, các nhà xã hội học pháp luật thường sử dụng các thông tin xã hội học
như: phân tích tài liệu, phương pháp quan sát. . .
- Vấn đề thăm dò dư luận xã hội, thu thập và phân tích thơng tin từ báo chí để thu
thập các thơng tin phản hồi, để có cái nhìn tồn diện.
- Các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, đạo đức, phong tục tập quán
và nhân tố xã hội khác tác động đến quá trình triển khai thực hiện các văn bản pháp
luật trong thực tế.
- Các khuynh hướng biến đổi và phát triển của quyền lực chính trị, mơ hình
tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, của các chuẩn mực pháp luật trong bối
cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế về kinh tế, chính trị, văn hóa ngày càng sâu
rộng,; sự tương tác giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc nội, những tác động
tích cực của tiến trình này.
3. Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật:
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật, đó là:

3.1. Kỹ năng soạn thảo các dự án luật:
Thực tế cho thấy, việc xây dựng và ban hành cac văn bản quy phạm pháp luật,
nhất là các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật ở nước ta trong thời gian qua, mặc
dù số lượng lớn nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định; nhiều văn bản chồng chéo
nhau, có nội dung trùng lắp, thiếu đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn nhau làm cho hiệu
quả điều chỉnh của pháp luật bị hạn chế rất nhiều. Bên cạnh đó chất lượng của các
văn bản quy phạm pháp luật chưa được cao, thiếu tính hiệu quả và chặt chẽ. Trình độ


9
lập pháp, lập quy chưa theo kịp sự chuyển biến nhanh chóng của thực tiễn đời sống
xã hội. Từ đó dẫn đến tình trạng có những quy phạm pháp luật được ban hành khơng
phù hợp hoặc nhanh chóng trở nên lạc hậu so với đời sống xã hội, không phát huy
được hết hiệu lực pháp luật trong thực tế cuộc sống. Chất lượng của hoạt động xây

dựng pháp luật, cụ thể là tính khả thi, hiệu lực và hiệu quả của văn bản quy phạm
pháp luật được ban hành phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng soạn thảo các dự án luật.
Vì vậy, đây là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động xây dựng pháp luật. Vấn đề
này liên quan đến các khía cạnh sau đây:
- Nhận thức của các chủ thể hoạt động xây dựng pháp luật về tầm quan trọng,
sự cần thiết của các văn bản pháp luật cần xây dựng, ban hành. Sự nhận thức đúng
đắn đầy đủ hay mờ nhạt, nữa vời sẽ quy định thái độ tích cực hay tiêu cực, sự hăng
hái, nhiệt tình hay thờ ơ, lãnh đạm của các chủ thể khi tham gia vào hoạt động xây
dựng pháp luật. Đến lượt mình, sự nhận thức này tác động đến kỹ năng soạn thảo và
chất lượng các văn bản luật được ban hành.
- Trình độ hiểu biết xã hội, am hiểu nhất định của các chủ thể tham gia hoạt động
xây dựng pháp luật về lĩnh vự quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh
có tác động rất quan trọng. Nếu các chủ thể có được sự hiểu biêt đầy đủ, sâu sắc về
các mặt, các khía cạnh cụ thể của lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần đến pháp luật, từ
tình trạng thực tế, nguyên nhân phát sinh tồn tại vấn đề cho đến các nhân tố văn hóa xã hội đang tác động đến vấn đề đó.. thì họ sẽ đưa ra được các quy phạm, chuẩn mực
pháp luật sát với thực tế, dự liệu được những khả năng, tình huống có thể phát sinh
trong tương lai mà đưa ra các quy phạm pháp luật đón trước. Ngược lại, sự hiểu biết
hời hợt, nơng cạn là nguyên nhân làm cho văn bản pháp luật có thể bị xa rời thực
tiễn, khơng phát huy được tác dụng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Tri thức, hiểu biết pháp luật và ý thức phap luật của các chủ thể tham gia xây
dựng pháp luật là cái tác động mạnh mẽ đến chất lượng văn bản pháp luật được ban
hành. Nó là cơ sở để các chủ thể nêu lên các sáng kiến luật, phân tích hình thức, nội


10
dung, cấu trúc của các dự thảo quy phạm pháp luật đã hợp lý chưa, chỉ ra tính hợp
hiến hay không hợp hiến; sự trùng lắp hay không trùng lắp với những văn bản đã
được ban hành; đã bao quát được hết khả năng có thể có hay cịn bộc lộ những khe
hở nào đó… Những chú trọng xem xét trong quá trình soạn thảo dự án luật sẽ cho ra
đời văn bản pháp luật tốt, có chất lượng cao; ngược lại, sự chồng chéo, thiếu đồng bộ

là chuyện có thể nhìn thấy trước.
- Hoạt động của cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan chuyên trách soạn thảo
và các cơ quan tham gia phối hợp cũng có tác động không nhỏ đến chất lượng văn
bản dự thảo luật. Về nguyên tắc, cơ quan chuyên trách phải hoạt động độc lập
thì mới đảm bảo tính khách quan, vơ tư của các quy phạm pháp luật.
Thực tế chỉ ra rằng, trong một số trường hợp, pháp luật được ban hành nhanh
chóng trở nên lạc hậu so với yêu cầu của cuộc sống chính là vì kỹ năng soạn thảo
luật của các chủ thể cịn nhiều hạn chế, trình độ kiến thức, hiểu biết xã hội, hiểu biết
pháp luật của họ còn thấp, chưa có các chuyên gia làm việc chuyên nghiệp trong lĩnh
vực này. Một số văn bản pháp luật điều chỉnh ngành nào, lĩnh vực nào thì giao cho
ngành đó soạn thảo nên chưa đảm bảo tính khách quan, vơ tư trong các chuẩn mực
pháp luật. Tất cả những điều đó cần được khắc phục để có thể nâng cao hơn nữa chất
lượng của pháp luật.
3. 2. Dư luận xã hội:
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của
các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự,
có liên quan đến lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và được
thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.
Dư luận xã hội có vai trò tác động quan trọng đến nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội như kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hóa, giáo dục.. trong những lĩnh vực đó,
phải kể đến sự tác động, ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với hoạt động xây dựng


11
pháp luật. Ở nước ta hiện nay, sự ảnh hưởng đó được thể hiện trên các phương diện
sau:
Thứ nhất, dư luận xã hội là sự thể hiện lợi ích chung thơng qua tiếng nói chung
của nhân dân, nên nó là điều kiện cần thiết để tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm
chủ, mở rộng nền dân chủ xã hội, tích cực tham gia vào hoạt động xây dựng pháp
luật. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hai hình thức cơ bản là dân

chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Thứ hai, dư luận xã hội là nguồn thơng tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng
và thiết thực đối với quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật. Để
có được những văn bản pháp luật sát thực tế , những văn bản quyết định quản lý
hành chính nhà nước đúng đắn, có tính khả thi cao, trước khi xây dựng, soạn thảo
các dự án luật hay ban hành các quyết định, các cơ quan ban hành phải nắm bắt tư
tưởng, tâm lý của đối tượng xã hội mà văn bản quy phạm pháp luật nhằm vào. Mọi
chủ trương, chính sách pháp luật khó có thể trở thành hiện thực nếu khơng hợp lịng
dân, khơng được nhân dân ủng hộ. Khi đã có được các dự án luật, các thông tin phản
hồi lại càng quan trọng. Dự luận xã hội là một trong những cơ sở thông tin phản hồi
giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra các văn bản quyết định phù hợp với
lịng dân. Dư luận xã hội có tác dụng phát hiện những thiếu hụt, những khe hở để nhà
nước sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh một cách kịp thời các văn bản pháp luật.
Thứ ba, dư luận xã hội khơng mang tính pháp lý nhưng nó lại có sức mạnh rất to
lớn trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động của các thành viên trong
xã hội. Trong hoạt động xây dựng pháp luật, các cá nhân, nhà chức trách có thẩm
quyền, với tư cách chủ thể xây dựng pháp luật cần lắng nghe dư luận xã hội một cách
nghiêm túc và phân tích nó một cách khoa học để có thể rút ra được những kết luận
chính xác về thực trạng của những lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần có pháp luật
điều chỉnh.


12
3.3. Thông tin đại chúng:
Sự hoạt động của các phương tiện thơng tin đại chúng như báo chí, phát thanh,
truyền hình có tác động rất mạnh mẽ và quan trọng tới hoạt động xây dựng pháp luật,
thể hiện ở các điểm sau:
- Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin tương đối đầy đủ và đa
dạng về các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống chính trị,
xã hội, pháp luật; cung cấp những trí thức, hiểu biết pháp luật, cần thiết cho các

chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật, phản ánh hoạt động tiếp xúc cử tri của
các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đưa tin về các kỳ họp Quốc
hội… Qua đó, các phương tiện truyền thông tác động tới nhận thức của các chủ thể
về tầm quan trọng của hoạt động xây dựng pháp luật, tạo cơ sở thông tin để các tầng
lớp xã hội tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật.
- Các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải những thơng tin về chính sách
pháp luật của Nhà nước, các dự thảo văn bản pháp luật mới, đưa các thơng tin đó đến
được với đơng đảo quần chúng nhân dân.
- Các phương tiện thơng tin đại chúng có vai trị định hướng thơng tin pháp luật,
tạo lập các luồng dư luận xã hội tích cực phản ánh hoạt động xây dựng pháp luật;
góp phần chống lại âm mưu phá hoại, các luận điệu xuyên tạc và bịa đặt của các
thế lực thù địch về nội dung, bản chất hệ thống pháp luật của nhà nước ta; cũng
cố niềm tin của nhân dân vào bản chất ưu việt của hệ thống pháp luật xã hội chủ
nghĩa.

III. THỰC TRẠNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO TÍNH KHẢ THI VÀ
TÍNH HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY:


13
1. Thực trạng hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay:
Để đáp ứng công cuộc đổi mới, mở cửa phát triển kinh tế đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm cơng tác xây
dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đáp ứng tiêu chí cơ sở xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống pháp luật ở nước ta trong ba thập kỷ qua đã có sự phát triển mạnh mẽ,
có nhiều thành tựu to lớn. Chính những thành tựu này trong lĩnh vực lập pháp đã
giúp Việt Nam vượt qua những điều kiện về mặt thể chế mà WTO đặt ra đối với việc
kết nạp các thành viên và đáp ứng được rất nhiều nhu cầu phát triển nội tại của đất

nước. Trong hệ thống pháp luật có 26 loại văn bản được xác định là văn bản quy
phạm pháp luật. Theo số liệu thống kê của cơ sở dữ liệu pháp luật Bộ tư pháp, tính
riêng từ 1/4/1987 đến 30/11/2008, chỉ tính riêng văn bản pháp luật do các cơ quan
Trung ương ban hành thì hệ thống pháp luật nước ta đã có tới 19.126 văn bản, trong
đó có Luật, Bộ luật, Nghị định, Nghị quyết, Thông tư. Đáng chú ý, việc ban hành
Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020 đã giúp cho hệ thống
pháp luật Việt Nam có bước đổi mới quan trọng và chuyển biến đáng kể cả về số
lượng và chất lượng.
Qua hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, công tác xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật đã có những
tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được đổi
mới. Nhiều Bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày
càng hoàn chỉnh hơn để nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế,
xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Năng lực lập pháp, lập quy của Quốc hội,
chính phủ, các bộ, ngành ngày càng được nâng cao, những cơ sở pháp lý điều chỉnh
xây dựng pháp luật ngày càng hoàn thiện và sự lãnh đạo của Đảng, mối quan tâm
của toàn xã hội đối với xây dựng pháp luật ngày càng được tăng cường, coi trọng. Hệ


14
thống pháp luật đã kịp thời thể chế hóa, đường lối, chủ trương đổi mới của Đảng, bảo
đảm cho Nhà nước có đủ luật, pháp lệnh để quản lý xã hội.
Một số ưu điểm cụ thể về chất lượng nội dung của dự án luật, pháp lệnh được
ghi nhận trong thời gian qua đó là:
Nội dung đường lối chính sách đổi mới của Đảng được thể chế hóa trong các đạo
luật, pháp lệnh chứa đựng nhiều tư duy pháp lý mới, làm cho pháp luật trở thành
phương tiện đầy hiệu lực để đưa đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống, làm
cho đường lối chính sách của Đảng trở thành hiện thực. Việc thể chế hóa đường lối,
chính sách của Đảng thành các điều luật, pháp lệnh đã khắc phục được tình trạng

“sao chép” đơn giản, máy móc. Những tư duy chính trị - kinh tế mới trong cương
lĩnh, trong nghị quyết của Đảng đã được thể chế hóa thành những quy tắc xử sự
chung trong các trường hợp cụ thể, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và quan tâm
đến tính hiện thực của những quy phạm pháp luật. Trong lĩnh vực kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền
vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh quốc
phòng, cải thiện đời sống nhân dân”. Vấn đề này, có thể kể đến một số dự án như
Luật đất đai, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật thương mại.
Các đạo luật, pháp lệnh ngày càng thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân
dân lao động, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội đất nước, kế thừa
truyền thống, tập quán tốt đẹp của dân tộc, hạn chế ý muốn chủ quan, duy ý chí. Nội
dung các đạo luật, pháp lệnh có sự kế thừa và phát triển các giá trị tiến bộ của nhân
loại được thừa nhận chung trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật
phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta.
Thực hiện chủ trương đổi mới do Đảng lãnh đạo trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế, nội dung các dự án luật, pháp lệnh ngoài việc phản ánh những điều kiện


15
kinh tế, xã hội của đất nước cũng đã tiếp cận và phản ánh những giá trị tiến bộ được
thừa nhận chung của nhân loại. Các nhà lập pháp đã quan tâm tới việc học hỏi, tiếp
thu có chọn lọc những kinh nghiệm lập pháp của các nước trên thế giới vận dụng
vào điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, tạo việc mở rộng giao lưu, hợp tác giữa nước ta
và các nước trên thế giới.
Tuy nhiên, công tác xây dựng pháp luật hiện nay vẫn còn một số tồn tại hạn
chế cần khắc phục như: hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống
nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống, cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật
còn nhiều bất cập chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và
pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Các dự án luật do

các cơ quan tổ chức trình là quá lớn so với khả năng chuẩn bị cũng như qũy thời
gian. Còn một số dự án được đưa vào chương trình nhưng chưa xem xét một cách
toàn diện, cụ thể như trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, số dự án luật, pháp lệnh
được thơng qua chỉ đạt gần 80%. Việc lập chương trình xây dựng luật chưa sát thực
tế, chưa dự báo đầy đủ yêu cầu của thực tiễn, nên tính khả thi chưa cao; chưa nhận
thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đến nhiệm vụ xây dựng luật, pháp lệnh nên một
số cơ quan chủ trì soạn thảo, tham gia soạn thảo chưa dành thời gian hợp lý và đề
nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc chuẩn bị dự án nên chất lượng một số dự
án luật chưa đảm bảo; hoạt động của Ban soạn thảo dự án luật, pháp lệnh; sự phối
hợp giữa cơ quan chủ trì soạn thảo với các cơ quan, tổ chức hữu quan còn thiếu chặt
chẽ và cịn mang tính hình thức; vai trị của đại biểu Quốc hội cịn hạn chế, ít khi
trình những dự án luật cho Quốc hội (quyền sáng kiến lập pháp) mặc dù pháp luật có
quy định cho phép; cán bộ công chức tham gia xây dựng văn bản chưa được trang bị
đầy đủ kỹ năng, kỹ thuật soạn thảo, hoạch định những tư tưởng chính của văn bản. . .
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do chưa hoạch định được một chương
trình xây dựng pháp luật tồn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược; việc đào tạo,


16
nâng cao trình độ cán bộ pháp luật và cơng tác nghiên cứu lý luận về pháp luật chưa
theo kịp đòi hỏi của thực tiễn.
2. Các biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động xây dựng
pháp luật ở nước ta hiện nay:
2.1. Tăng cường công tác thẩm tra các dự án luật bằng công cụ xã hội học:
Công cụ xã hội học phục vụ hoạt động xây dựng pháp luật bao gồm điều tra
xã hội học và thăm dị dư luận xã hội. Mục đích của việc sử dụng công cụ xã hội học
là để thẩm tra xem các dự án luật có thực sự cần thiết không, nội dung các quy
phạm dự kiến trong dự án luật đã phù hợp chưa, các tầng lớp xã hội có ý kiến, đóng
góp, bổ sung gì cho dự án luật. Biện pháp này, một mặt phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Mặt khác, huy động được

các tầng lớp xã hội tích cực tham gia tư vấn đóng góp ý kiến và phản biện xã hội cho
các dự án luật.
Tổ chức điều tra xã hội học, thăm dị dư luận xã hội cho phép nắm bắt những
thơng tin, chỉ báo về các dự án luật, biết được trong dự án luật đang thiếu cái gì, cần
cái gì, ở mức độ nào, làm thế nào để bổ sung những thiếu hụt đó. Nắm bắt được dư
luận xã hội là nắm bắt được lòng dân, nhu cầu, nguyện vọng của dân, nắm bắt được
các động thái xã hội-điều kiện tiên quyết đảm bảo cho quá trình xây dựng, ban hành
các quyết định, chỉ thị, văn bản pháp quy của các cơ quan lãnh đạo, quản lý không bị
quan liêu hóa, xa rời thực tiễn.
2.2. Tăng cường vai trị, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động xây
dựng pháp luật:
Quốc hội và các Ủy ban, cơ quan chuyên trách của Quốc hội cần quan tâm
và chỉ đạo sâu sát hơn nữa công tác xây dựng pháp luật. Đây là vấn đề hết sức quan


17
trọng nhằm đảm bảo tính khả thi cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động xây
dựng pháp luật.
Cũng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan, trung tâm, viện nghiên
cứu khoa học pháp lý, khoa học xã hội và các cơ quan nghiên cứu khoa học khác
có liên quan.
Các cơ quan ban ngành, tổ chức xã hội khác như Cơng an, Hội luật gia, Đồn
luật sư, Mặt trận tổ quốc.. các cáp cần huy động, tích cực hỗ trợ và tham gia vào
hoạt động xây dựng pháp luật trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình.
Các nhà khoa học, các chuyên gia pháp lý và chuyên gia xã hội học
có thể chủ động nêu sáng kiến luật, chủ trì các vấn đề nghiên cứu khoa học, tham gia
hội thảo, trả lời phỏng vấn chuyên đề.
Các đại biểu dân cử cần phát huy hơn nữa vai trị, trách nhiệm đại diện cho
lợi ích của nhân dân chủ động và sáng tạo trong xây dựng pháp luật. Vì vậy, cần tăng
cường gặp gỡ tiếp xúc cử tri, là người dám nghe tất cả các ý kiến của người dân.

Huy động tất cả các tầng lớp xã hội tham gia đóng góp ý kiến cho các dự thảo
luật. Trước những vấn đề nan giải, phức tạp, các tầng lớp nhân dân bằng trí tuệ tập
thể, có thể đưa ra các đề nghị khuyến cáo, lời khuyên sáng suốt, có tính chất tư vấn
nhằm giải quyết tốt các vấn đề pháp luật mà thực tiễn cuộc sống đặt ra.
2.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động xây dựng pháp luật
trước yêu cầu mở rộng nền dân chủ xã hội và phát triển bền vững:
Việc xây dựng và ban hành luật trưng cầu dân ý là biểu hiện cao của việc
nhà nước tôn trọng và lắng nghe dư luận xã hội một cách nghiêm túc, nhằm phục
vụ công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Chính vì vậy, cần sớm ban hành luật


18
trưng cầu dân ý nhằm đảm bảo cho nhân dân quyền biểu quyết khi nhà nước tổ
chức trưng cầu ý dân.
Hoạt động xây dựng pháp luật đòi hỏi phải chú trọng và đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững của đất nước, một u cầu có tính tất yếu và khách quan để vừa thỏa
mãn, đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của xã hội hiện tại, vừa khơng gây phương hại hay
cản trở việc đáp ứng các nhu cầu lợi ích của thế hệ tương lai.
Để tạo điều kiện cho xã hội phát triển bền vững thì nhà nước và xã hội phải sử
dụng đồng bộ các loại chuẩn mực xã hội để điều chỉnh, trong đó chủ yếu và quan
trọng nhất là chuẩn mực pháp luật, vì chuẩn mực này là sản phẩm của hoạt động xây
dựng pháp luật.
Trong thực tế hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp
luật dưới luật của chúng ta chưa chứa đựng đầy đủ các yếu tố, khía cạnh đảm bảo
cho sự phát triển bền vững của xã hội. Nguyên nhân của vấn đề này là nằm ở chính
hoạt động xây dựng pháp luật như các chủ thể xây dựng pháp luật chưa nhận thức rõ,
đầy đủ, thống nhất và ý nghĩa của sự phát triển bền vững; trình độ kỹ thuật lồng ghép
các yếu tố của phát triển bền vững vào quy trình luật định để xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật còn hạn chế, chậm đổi mới, trình độ xây dựng pháp luật của các
cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền cịn thấp… Trước tình hình đó, địi hỏi phải

sử dụng đồng bộ, đồng thời nhiều giải pháp nhằm nâng cao năng lực, trình độ, hiệu
quả chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật.

C. KẾT LUẬN

Hoạt động xây dựng pháp luật trong giai đoạn Đảng, nhà nước và nhân dân ta
đang hướng tới mục tiêu xây dưng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhằm


19
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững c đất nước. Đây là một u cầu nội tại có tính
tất yếu và khách quan để vừa thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của xã hội hiện
tại, vừa không gây phương hại hay cản trở việc đáp ứng nhu cầu, lợi ích của các
thế hệ tương lai. Hoạt động xây dựng pháp luật tạo ra một hệ thống pháp luật ngày
càng hồn thiện, có khả năng điều chỉnh hiệu quả các mối quan hệ xã hội cơ bản
theo hướng phát triển nhanh, liên tục, ổn định, vững chắc đem lại ngày càng nhiều
lợi ích vật chất, tinh thần cho xã hội và các thành viên xã hội.
Nguyên nhân những hạn chế của hoạt động xây dựng pháp luật do các
chủ thể xây dựng pháp luật được nghiên cứu, vận dụng các khía cạnh xã hội đối với
hoạt động xây dựng pháp luật, trình độ kỹ thuật xây dựng pháp luật cịn thấp.
Việc nghiên cứu các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật cần
phải tiếp tục thúc đẩy, tăng cường, từ đó đúc rút kinh nghiệm đề ra các biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động xây dựng pháp luật, góp phần
hoàn thành chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật nước ta từ nay đến năm
2020 như mục tiêu đã đề ra.


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Xã hội học pháp luật – TS Ngọ Văn Nhân, Đại học Luật Hà Nội.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI
3. Nghị quyết số 48 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng năm 2020.
4. Nghị quyết số 49 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp.
5. Tập bài giảng, tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung
về Nhà nước và pháp luật.
6. Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật - Đại học Luật Hà Nội.
7. Các bài viết đã đăng trên các tạp chí.



×