Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

phân tích các yếu tố tác động tới hoạt động xây dựng pháp luật liên hệ với tình hình thực tiễn thực hiện pháp luật của nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.47 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật ra đời từ nhu cầu của xã hội. Tính hiệu quả và khả thi của pháp
luật thường được thể hiện ở hai phương diện: một là, các quy phạm phản ánh
đúng, đủ các quan hệ xã hội mà quy phạm đó hướng tới; hai là sự chấp nhận
(mang tính khoa học) của các đối tượng chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp
luật đó. Cả hai phương diện này phản ánh tính khoa học, sự tìm tịi, đề xuất nhằm
chọn lọc cái tối ưu về hiệu quả xã hội của các quy pham khi tác động đến mọi mặt
của đời sống xã hội. Để có một quá trình xây dựng pháp luật đạt hiệu quả, nhà lập
pháp phải nắm vững những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới nó. Nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề xây dựng pháp luật, em đã lựa chọn đề tài: “ Phân tích
các yếu tố tác động tới hoạt động xây dựng pháp luật? Liên hệ với tình hình
thực tiễn thực hiện pháp luật của nước ta hiện nay?”.
NỘI DUNG
I.

KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT

Hoạt động xây dựng pháp luật còn gọi là hoạt động sáng tạo pháp luật. Hoạt
động xây dựng pháp luật là lĩnh vực hoạt động cơ bản, quan trọng của nhà nước
nên nó thu hút được sự quan tâm của nhiều đối tượng; đồng thời nó cũng là một
trong những hình thức hoạt động cơ bản nhất của nhà nước nhằm tạo ra công cụ,
phương tiện, hữu hiệu phục vụ công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nói khái
quát, hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm soạn thảo, ban hành các luật, văn bản pháp luật, bao gồm từ khâu
nghiên cứu, soạn thảo, thông qua và công bố văn bản.
II.

NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG

PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TỚI THỰC TIỄN XÂY DỰNG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM.


Có rất nhiều các yếu tố tác động tới hoạt động xây dựng pháp luật, điển
hình đó là kỹ năng soạn thảo văn bản, dư luận xã hội, và thông tin đại chúng.
1


1.
Kỹ năng soạn thảo các dự án luật.
Vấn đề xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các
văn bản quy phạm pháp luật dưới luật ở nước ta trong thời gian qua, mặc dù số
lượng lớn nhưng cịn có những hạn chế nhất định, nhiều văn bản chồng chéo nhau,
có nội dung trùng lặp, thiếu đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn nhau làm cho hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật bị hạn chế rất nhiều. Bên cạnh đó, chất lượng của các văn
bản quy phạm pháp luật chưa được cao, thiếu tính chặt chẽ và hiệu quả. Trình độ
lập pháp, lập quy chưa theo kịp sự chuyển biến nhanh chóng của thực tiễn đời sống
xã hội nên đã không tiên liệu, dự báo được hết những sự kiện, tình huống pháp lý
có thể xảy ra trong thực tế đời sống xã hội. Từ đó dẫn đến tình trạng có những quy
phạm pháp luật được ban hành khơng phù hợp hoặc nhanh chóng trở nên lạc hậu
so với đời sống xã hội, không phát huy được hết hiệu lực trong thực tế đời sống.
Chất lượng của hoạt động xây dựng pháp luật, mà cụ thể là tính khả thi, hiệu
lực và hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phụ thuộc rất
nhiều vào kỹ năng soạn thảo các dự án luật. Vì vậy, đây là yếu tố có ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất đến hoạt động xây dựng pháp luật. Vấn đề này liên quan đến các
khía cạnh cụ thể sau đây:
Thứ nhất, nhận thức của các chủ thể hoạt động xây dựng pháp luật về tầm
quan trọng, sự cần thiết của văn bản pháp luật cần xây dựng, ban hành. Sự nhận
thức đúng đắn, đầy đủ hay mờ nhạt, nửa vời sẽ quy định thái độ tích cực hay tiêu
cực, sự hăng hái, nhiệt tình hay thờ ơ, lãnh đạm của các chủ thể khi tham gia vào
hoạt động xây dựng pháp luật. Đến lượt mình, sự nhận thức này tác động đến kỹ
năng soạn thảo và chất lượng các văn bản luật được ban hành.
Thứ hai, trình độ hiểu biết xã hội, am hiểu nhất định của các chủ thể tham

gia hoạt động xây dựng pháp luật về lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần có pháp luật
điều chỉnh có tác động rất quan trọng. Nếu các chủ thể có được sự hiểu biết đầy
đủ, sâu sắc về các mặt, các khía cạnh cụ thể của lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần
đến pháp luật, từ tình trạng thực tế, nguyên nhân phát sinh, tồn tại của vấn đề cho
2


đến các nhân tố văn hóa- xã hội đang tác động đến vấn đề đó…, thì họ sẽ đưa ra
được các quy phạm, chuẩn mực pháp luật sát với thực tế, dự liệu được những khả
năng, tình huống có thể phát sinh trong tương lai mà đưa ra các quy phạm pháp
luật đón trước. Ngược lại, sự hiểu biết hời hợt, nông cạn là nguyên nhân làm cho
văn bản pháp luật có thể bị xa rời thực tiễn, khơng phát huy được tác dụng trong
điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thứ ba, tri thức, hiểu biết pháp luật là ý thức pháp luật của các chủ thể tham
gia xây dựng pháp luật là cái tác động mạnh mẽ đến chất lượng văn bản pháp luật
được ban hành. Nó là cơ sở để các chủ thể nêu lên các sáng kiến pháp luật, phân
tích hình thức, nội dung, cấu trúc của các dự thảo quy phạm pháp luật đã hợp lý
chưa, chỉ ra tính hợp hiến hay khơng hợp hiến, sự trùng lặp hay không trùng lặp
với những văn bản đã được ban hành; đã bao quát được hết các khả năng có thể có
hay cịn bộc lộ những khe hở nào đó… Những điểm này, khi được chú trọng xem
xét trong quá trình soạn thảo dự án luật sẽ cho ra đời văn bản pháp luật tốt, có chất
lượng cao; ngược lại, sự chồng chéo, thiếu đồng bộ là chuyện có thể nhìn thấy
trước.
Thứ tư, hoạt động của cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan chuyên trách soạn
thảo và các cơ quan tham gia, phối hợp cũng có tác động không nhỏ đến chất
lượng văn bản dự thảo luật. Về nguyên tắc, cơ quan chuyên trách phải hoạt động
độc lập thì mới đảm bảo tính khách quan, vơ tư của các quy phạm pháp luật, tránh
tình trạng “vừa đá bong, vừa thổi còi”. Sự tham vấn ý kiến của các cơ quan khác là
rất cần thiết nhằm khắc phục sự cảm tính, tùy tiện. Tham khảo các văn bản pháp
luật của nước ngồi ở lĩnh vực có liên quan cũng rất quan trọng, nhưng chỉ là tham

khảo, tránh dập khn, máy móc vì mỗi đất nước có nền kinh tế, văn hóa, xã hội,
phong tục, tập quán khác nhau.
Thực tế chỉ ra rằng, trong một số trường hợp, pháp luật được ban hành
nhanh chóng trở nên lạc hậu so với u cầu của cuộc sống chính là vì kỹ năng soạn
thảo luật của chủ thể còn nhiều hạn chế, trình độ kiến thức, hiểu biết xã hội, hiểu
3


biết pháp luật của họ cịn thấp; chưa có các chuyên gia làm việc chuyên nghiệp
trong lĩnh vực này. Một số văn bản pháp luật điều chỉnh ngành nào, lĩnh vực nào
thì giao cho ngành đó soạn thảo nên chưa đảm bảo tính khách quan, vơ tư trong các
chuẩn mực pháp luật.
Trước đây, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp tỉnh chưa có
quy định nào điều chỉnh. Trong khi đó, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 1996 (được sửa đổi năm 2002 và năm 2008) chỉ quy định chung chung về
việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Do đó tại địa phương,
mỗi nơi mỗi kiểu tự mày mị, xây dựng trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy
phạm pháp luật cho riêng mình và việc làm đó đã trở thành một lối mòn ở hầu hết
các địa phương. Để khắc phục tình trạng đó, Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được Quốc hội thông qua ngày
03 tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 4 năm 2005.
Đây là đạo luật quan trọng trong việc quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương các cấp và có ý nghĩa rất lớn đối
với hoạt động quản lý điều hành ở địa phương.
Sau khi Luật có hiệu lực thi hành, hành năm có hàng ngàn văn bản quy
phạm pháp luật của địa phương nhất là cấp tỉnh đã được xây dựng và ban hành. Ví
dụ như: trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong bốn năm (2005, 2006, 2007, 2008) ở cấp
tỉnh đã ban hành khoảng 340 văn bản quy phạm pháp luật, riêng từ ngày 01 tháng
10 năm 2009 đến ngày 31 tháng 9 năm 2010 đã ban hành 46 văn bản quy phạm
pháp luật (09 nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh và 37 quyết định, chỉ thị của

Ủy ban nhân dân tỉnh).
Như vậy, có thể thấy được số lượng và nhu cầu ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của cấp tỉnh trong cả nước hàng năm là khơng nhỏ. Văn bản đó góp phần
rất lớn trong việc cùng với Trung ương giải quyết các vấn đề bức xúc hiện nay của

4


xã hội, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội cũng như xây dựng thành
công công cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Qua khảo sát cho thấy hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở
cấp tỉnh thường có những hạn chế sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật thường sao chép lại các quy định của trung
ương nên nhìn chung tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật ở cấp tỉnh sau
khi ban hành không cao;
- Việc xây dựng Chương trình ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân
tỉnh; Chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh chưa
đảm bảo đúng trình tự, thủ tục luật định. Số lượng văn bản đăng ký ban hành theo
các Chương trình này đạt tỷ lệ khơng cao, vì vậy chương trình lập quy của chính
quyền cấp tỉnh cịn mang tính hình thức;
- Dự thảo văn bản gửi thẩm định không đúng quy định làm ảnh hưởng đến
thời gian thẩm định và bị động cho cơ quan thực hiện chức năng thẩm định. Đội
ngũ cán bộ làm công tác thẩm định ở địa phương còn nhiều hạn chế về trình độ,
năng lực. Nội dung thẩm định phần lớn về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản,
chưa đi sâu phân tích nội dung của văn bản;
- Cơng tác rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật ở cấp tỉnh
hàng năm chưa được quan tâm đúng mức. Việc gửi văn bản phục vụ cho công tác
kiểm tra chưa kịp thời và chưa đầy đủ theo quy định của pháp luật;
- Mặc dù nội dung thẩm định chủ yếu phát hiện các lỗi về hình thức, kỹ
thuật trình bày nhưng hầu hết các văn bản ban hành vẫn chưa đảm bảo về mặt trình

tự, thủ tục và thể thức, kỹ thuật trình bày theo quy định của pháp luật;
- Nhiều địa phương còn né tránh việc kiểm tra văn bản nên đã không ban
hành văn bản quy phạm pháp luật mà thay vào đó là ban hành nhiều văn bản cá
biệt có chứa quy phạm pháp luật;

5


- Vai trò của các luật sư, luật gia trong việc tham gia vào hoạt động ban hành
văn bản quy phạm pháp luật ở cấp tỉnh còn nhiều hạn chế.
Tất cả những điều đó cần được khắc phục để có thể nâng cao hơn nữa chất
lượng của hoạt động xây dựng pháp luật.
2.Dư luận xã hội
Dư luận xã hội là một tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh
giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính
thời sự, có liên quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người
và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.
Dư luận xã hội là sự biểu hiện trạng thái ý thức của một cộng đồng người, là
một phương thức tồn tại đặc biệt của ý thức xã hội. Dư luận xã hội với tư cách một
hiện tượng xã hội đặc biệt không tồn tại độc lập như là một thành phần trong kết
cấu nói trên, mà nó tham gia, có mặt trong tất cả các bộ phận, các thành phần của ý
thức xã hội..
Từ lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, triết học Mác – Lênin đã chỉ rõ
vai trò to lớn, sự tác động mạnh mẽ của các yếu tố tinh thần đối với hoạt động sống
của con người, trong đó có dư luận xã hội. Sức mạnh to lớn của dư luận xã hội xuất
phát từ vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Trong bất kỳ một xã hội nào, dư luận xã hội cũng đều có ảnh hưởng nhất
định và trong nhiều trường hợp, cịn có tác động mạnh mẽ đến các q trình chính
trị, xã hội, đến việc lãnh đạo và quản lý xã hội. Trong lịch sử xã hội lồi người, dư
luận xã hội đã đóng vai trò là yếu tố điều hòa các mối quan hệ xã hội và điều chỉnh

hành vi của con người. Sức mạnh của dư luận xã hội đã được thể hiện ngay cả khi
trong xã hội còn chưa xuất hiện các hiện tượng giai cấp, nhà nước và pháp luật.
Trong xã hội có giai cấp, vai trị điều hịa các quan hệ xã hội của dư luận xã hội
được thể hiện cùng với pháp luật. Khi nói về pháp luật, theo C.Mác, dư luận xã hội
là “kết quả của việc biến ý thức xã hội thành sức mạnh xã hội… nhờ đó các luật
6


pháp chung do chính quyền nhà nước thi hành”. Sự khẳng định của C.Mác cho
chúng ta chiếc chìa khóa để hiểu biết về cơ chế biến đổi dư luận xã hội thành sức
mạnh xã hội và chỉ ra sự ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với hoạt động xây
dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật.
Dư luận xã hội có vai trị và tác động quan trọng đến nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, như kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, văn hóa, giáo
dục…, trong số đó, phải kể đến sự tác động, ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với
hoạt động xây dựng pháp luật. Ở nước ta hiện nay, sự ảnh hưởng đó thể hiện trên
các phương diện sau:
Thứ nhất, dư luận xã hội là sự thể hiện lợi ích chung thơng qua tiếng nói
chung của nhân dân, nên nó là điều kiện mở rộng nền dân chủ xã hội, tích cực
tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật. Như đã nói ở trên, các tầng lớp nhân
dân là chủ thể rộng rãi của hoạt động xây dựng pháp luật. Hiến pháp của Nhà nước
ta đã khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đồng thời,
thiết lập cơ chế bảo đảm sao cho việc thực thi quyền lực nhà nước phục vụ cho lợi
ích của nhân dân và ln nằm dưới sự kiểm sốt của nhân dân. Dưới chế độ ta,
nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thơng qua hai hình thức cơ bản là dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là hình thức nhân dân trực tiếp thể
hiện ý chí và nguyện vọng của mình. Đây là hình thức hữu hiệu tạo cho nhân dân,
với tính cách là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, khả năng tham
gia tích cực và chủ động vào các hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động
xây dựng pháp luật. Dân chủ đại diện là hình thức cơ bản mà thơng qua đó, nhân

dân thực hiện quyền lực nhà nước, vận hành theo quy định của Hiến pháp. Theo cơ
chế này, nhân dân bầu ra cơ quan đại diện. Cơ quan đại diện trực tiếp nhận quyền
lực từ nhân dân nên còn được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước, trong đó Quốc
hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương.
7


Thứ hai, “Pháp luật không phải là công cụ quản lý vạn năng” do vậy trong
pháp luật sẽ có những lỗ hổng thiếu sót nhất định. Và bằng thực tiễn, dư luận xã
hội có thể tìm ra được những lỗ hổng đó, góp phần khơng nhỏ trong việc hồn
thiện pháp luật, có thể đưa ra những giải pháp sữa chữa các sai lầm mà pháp luật
mắc phải.
Dư luận xã hội là nguồn thơng tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng và thiết
thực đối với quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy
phạm pháp luật dưới luật, đối với việc ban hành các quyết định của các cá nhân,
nhà chức trách có thẩm quyền. Để có được các văn bản pháp luật sát thực tế, các
văn bản quyết định quản lý hành chính nhà nước đúng đắn, có tính khả thi cao,
trước khi xây dựng, soạn thảo các dự án luật hay ban hành các quyết địnhh, các cơ
quan lập pháp, cơ quan quản lý phải nắm bắt được thực trạng tư tưởng, tâm lý của
các đối tượng xã hội mà văn bản pháp luật quyết định nhằm vào. Mọi chủ trương,
chính sách pháp luật khó có thể trở thành hiện thực nếu khơng hợp lịng dân, khơng
được nhân dân ủng hộ. Khi đã có các dự án luật, các thơng tin phản hồi lại càng
quan trọng. Mọi vướng mắc, lệch lạc trong quá trình triển khai thực hiện các văn
bản pháp luật, do nhiều yếu tố khó lường trước, đều được bộc lộ qua dư luận xã
hội. Dư luận xã hội là một trong những cơ sở thông tin phản hồi giúp các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đưa ra các văn bản, quyết định phù hợp lòng dân. Dư luận
xã hội có tác dụng phát hiện những thiếu hụt, những khe hở trong các văn bản quy
phạm pháp luật, giúp cho Nhà nước có biện pháp sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh
một cách kịp thời các văn bản pháp luật cịn khiếm khuyết, tháo gỡ các vướng mắc,

khó khăn phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật.
Thứ ba, dư luận xã hội khơng mang tính pháp lý nhưng nó lại có sức mạnh
to lớn trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động của các thành viên
trong xã hội. Trong hoạt động xây dựng pháp luật, các cá nhân, nhà chức trách có
thẩm quyền, với tư cách chủ thể xây dựng pháp luật, cần phải biết lắng nghe dư
8


luận xã hội một cách nghiêm túc và phân tích nó một cách khoa học để có thể rút
ra được những kết luận chính xác về thực trạng của những lĩnh vực quan hệ xã hội
đang cần có pháp luật điều chỉnh. Nhờ đó, Nhà nước có thể ban hành pháp luật một
cách kịp thời, đồng bộ và hiệu quả; tác động đúng phạm vi, đúng đối tượng cần
điều chỉnh; góp phần tăng cường vai trị và hiệu lực của công tác quản lý xã hội
bằng pháp luật.
Trên thực tế, việc mở rộng thực hành dân chủ, trưng cầu ý kiến nhân dân, về
các vấn đề trọng đại của đất nước cịn nhiều vướng mắc, chưa có cơ chế đảm bảo
tôn trọng, tiếp thu ý kiến của nhân dân. Trưng cầu dân ý là một trong những cách
thức thực hiện dân chủ trực tiếp, một trong những hình thức cao của việc nhân dân
tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. nhà nước cần sớm xây dựng và ban
hành Luật trưng cầu dân ý nhằm đảm bảo cho nhân dân có quyền biểu quyết khi
nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Tuy nhiên, trong thực tế ngày nay, vẫn tồn tại thói quen xây dựng pháp luật
"Khép kín, cục bộ" nhằm bảo vệ lợi ích của ngành, lĩnh vực dẫn đến việc thiếu
thông tin (tiếp nhận thông tin và xử lý thơng tin), trong đó thơng tin từ phía các nhà
khoa học cịn ít, nhiều thơng tin (nếu được hỏi) chỉ là hình thức (hỏi cho xong việc)
hoặc khơng có thơng tin phản hồi (tiếp nhận hay khơng tiếp nhận) ý kiến của các
nhà khoa học.
3.Thông tin đại chúng
Sự hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát
thanh, truyền hình có tác động rất mạnh mẽ và quan trọng tới hoạt động xây dựng

pháp luật, thể hiện các điểm sau:
Thứ nhất, các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin tương đối
đầy đủ và đa dạng về các sự kiện, sự việc,hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống
chính trị, xã hội, pháp luật; cung cấp những tri thức, hiểu biết pháp luật cần thiết
cho các chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật, phản ánh hoạt động tiếp xúc cử
9


tri của các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đưa tin về các kỳ họp
của Quốc hội… Qua đó, các phương tiện truyền thơng tác động tới nhận thức của
các chủ thể về tầm quan trọng của hoạt động xây dựng pháp luật, tạo cơ sở thông
tin để các tầng lớp xã hội tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật.
Thứ hai, các phương tiện thơng tin đại chúng đăng tải những thơng tin về
chính sách pháp luật của Nhà nước, các dự thảo văn bản pháp luật mới, đưa các
thơng tin đó đến được với đông đảo các tầng lớp nhân dân. Thông tin đại chúng tạo
diễn đàn ngôn luận để các chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật tham gia bình
luận, phân tích, đóng góp ý kiến vào hình thức, nội dung, cấu trúc của văn bản
pháp luật. Đồng thời, các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải các thông tin
phản hồi, các ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các tầng lớp nhân dân cho
hoạt động xây dựng pháp luật. Bằng cách tác động đó, thơng tin đại chúng giúp
cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp thông tin, xử lý và tiếp thu có
chọn lọc các ý kiến xác đáng phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn
thiện các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, các phương tiện thơng tin đại chúng có vai trị định hướng thơng tin
pháp luật, tạo lập các luồng dư luận xã hội tích cực phản ánh hoạt động xây dựng
pháp luật; góp phần đấu tranh chống lại các âm mưu phá hoại, các luận điệu tuyên
truyền, xuyên tạc và bịa đặt của các thế lực thù địch về nội dung, bản chất hệ thống
pháp luật của Nhà nước ta; củng cố niềm tin của nhân dân vào bản chất ưu việt của
hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
III.


CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CỦA

VIỆC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng, một phần
nào có cũng tránh ảnh hưởng của các yếu tố xã hội tới hoạt động đó mà ta có thể kể
tới như: tăng cường công tác thẩm tra các dự án luật bằng cơng cụ xã hội học; tăng
cường vai trị trách nhiệm, của các chủ thể khi tham gia hoạt động xây dựng pháp
10


luật; ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề xây dựng pháp luật; đảm
bảo tính nguyên tắc trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật; các dự án luật, pháp lệnh phải thể chế hóa được chủ chương đường lối chính
sách của Đảng và nhà nước. Trước mắt, cần bổ sung, hoàn thiện Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2008, và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân năm 2004.
KẾT LUẬN
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động lập pháp là một trong những yêu
cầu quan trọng của quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mỗi
quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Điều đó cho thấy rõ hơn tầm quan trọng
của những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật. Xuất phát từ
những hạn chế của vấn đề xây dựng pháp luật chúng ta cần sử dụng đồng bộ nhiều
giải pháp qua đó góp phần nâng cao năng lực trình độ, chất lượng của hoạt động
xây dựng pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

11



1.

Giáo trình Xã hội học pháp luật - Trường Đại học Luật Hà Nội/ Nxb.

Bộ Tư pháp
2.
.
3.
Http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com.
4.
/>
12


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.
NỘI DUNG.
I.

KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT

II.

NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG

PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TỚI THỰC TIỄN XÂY DỰNG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM.
1.
2.

3.
III.

Kỹ năng soạn thảo các dự án luật.
Dư luận xã hội.
Thông tin đại chúng.
CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CỦA

VIỆC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
KẾT LUẬN.

13



×