Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

SKKN Vận dụng các hoạt động trải nghiệm trong dạy học chủ đề Truyện dân gian theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong tình hình dịch bệnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.95 KB, 45 trang )

Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I.

Lý do chọn đề tài

Chương trình giáo dục định hướng năng lực được bàn đến nhiều từ năm 90 của
thế kỷ XX và ngày nay trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Dạy học theo định
hướng phát triển năng lực sẽ thực hiện được mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm
chất nhân cách của học sinh (HS), giúp HS đối mặt và giải quyết được các tình huống
đa dạng, phức tạp mà cuộc sống đặt ra.
Hoạt động trải nghiệm (HĐTN) trong chương trình phổ thông mới không phải
là một môn học mà là hoạt động giáo dục được thực hiện bắt buộc từ lớp 1 đến lớp
12. HĐTN sẽ tạo cơ hội cho HS huy động, tổng hợp kiến thức, kỹ năng của các mơn
học, các lĩnh vực giáo dục khác nhau để có thể trải nghiệm thực tiễn trong nhà
trường, gia đình và xã hội. Đồng thời giúp các em có cơ hội để tham gia các hoạt
động phục vụ cộng đồng và hoạt động hướng nghiệp. Đặc biệt tất cả các hoạt động
này phải thực hiện dưới sự hướng dẫn, tổ chức của nhà giáo dục. Qua HĐTN các em
sẽ tự khẳng định được mình, tự đánh giá được kết quả hoạt động của bản thân, của
nhóm mình và của bạn bè. Từ đó, hình thành và phát triển cho các em những phẩm
chất chủ yếu, những năng lực chung, giá trị sống và các năng lực cần thiết. Tuy
nhiên, trong tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid như hiện nay, một số
HĐTN cần được tổ chức linh động, khéo léo mới có thể vừa phát huy được các năng
lực, vừa đảm bảo được sự an toàn cho học sinh.
Chương trình Giáo dục phổ thơng hiện hành thực hiện lựa chọn các chủ đề, rà
soát nội dung các bài học để sắp xếp lại thành một số bài học tích hợp của từng mơn
học, từ đó, xây dựng kế hoạch dạy học, kế hoạch tổ chức hoạt động giáo dục cho
từng bài học, từng chủ đề theo định hướng hình thành, phát triển phẩm chất, năng
lực của học sinh. Vì vậy, xây dựng kế hoạch dạy học và kế hoạch tổ chức hoạt động
giáo dục theo định hướng hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh
phải xây dựng được các hoạt động học tập, hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hoạt
động vận dụng kiến thức vào thực tiễn qua từng bài, từng chủ đề và từng hoạt động


giáo dục cụ thể. Từ nghiên cứu và thực tiễn cơng tác giảng dạy mơn Ngữ văn, nhóm
tác giả đã xây dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng các hoạt động trải
nghiệm trong dạy học chủ đề Truyện dân gian theo định hướng phát triển năng
lực học sinh trong tình hình dịch bệnh hiện nay.
II. Mục tiêu, ý nghĩa, tính mới của đề tài
1. Mục tiêu
Đề tài hướng đến việc vận dụng một số các hoạt động trải nghiệm sáng tạo
trong dạy học chủ đề Truyện dân gian theo định hướng phát triển năng lực học sinh
trong tình hình dịch bệnh hiện nay dưới điều kiện thực tế của nhà trường THPT nơi
chúng tôi công tác.
Thông qua sự đa dạng về nội dung của HĐTNST trong dạy học chủ đề Truyện
dân gian, HS sẽ được hình thành và phát triển năng lực một cách toàn diện bên cạnh
những kết quả tích cực khác của hoạt động giáo dục.
Những HĐTNST mà đề tài đề cập đến không chỉ được vận dụng trong thời kỳ
dịch bệnh, mà sẽ được vận dụng tối ưu trong chương trình giáo dục phổ thông mới.
1


2. Ý nghĩa
Đề tài hướng đến xác định được những hoạt động trải nghiệm sáng tạo, đề xuất
những cách thức vận dụng mỗi hoạt động trải nghiệm đó trong tiến trình dạy học
theo định hướng phát triển năng lực một cách tồn diện cho học sinh.
3. Tính mới
Sáng kiến góp phần phát huy tính tích cực, chủ động và phát triển phẩm chất,
năng lực của học sinh trong quá trình học tập chủ đề Truyện dân gian trong chương
trình Ngữ văn 10.
Chứng minh tính khả thi và tính cần thiết của việc vận dụng hình thức HĐTNST
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học chủ đề Truyện dân gian Việt Nam bằng cách
bám sát vào các năng lực cụ thể của kế hoạch bài dạy.
III.


Phương pháp nghiên cứu

1. Nghiên cứu lý thuyết
Tài liệu về lý luận như Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể, Tổ
chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phỏ thông, Giáo trình Thực
hành dạy học Ngữ văn ở trường THPT và các tài liệu khác có liên quan.
2. Nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra sư phạm:
So sánh, đối chiếu kết quả ở những tập thể lớp có tổ chức các HĐTNST so với
các lớp chưa được giáo viên quan tâm phát huy các hoạt động này.
Thực hiện điều tra thái độ,cảm nhận và đánh giá của học sinh với các HĐTNST
trong q trình học tập ở trường phổ thơng.
+ Phương pháp đàm thoại.
Trao đổi với thầy cô giáo, đồng nghiệp và học sinh trường trung học phổ thông
(chủ yếu là giáo viên bộ môn và học sinh khối - lớp 10). Xử lý thông tin và rút ra
kết luận khoa học, điều tra thực tế qua dự giờ thăm lớp, qua khảo sát học sinh ở hứng
thú học tập
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Trực tiếp vận dụng phương pháp tổ chức, hướng dẫn, quản lý các HĐTNST
trong quá trình dạy học của bản thân
Đối chiếu kết quả thực nghiệm với lý luận để rút ra những kết luận khái quát,
khoa học, mang tính phổ biến.
IV. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài hướng đến vận dụng các HĐTNST trong dạy học chủ đề Truyện dân
gian theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong tình hình dịch bệnh hiện nay
và được thực nghiệm tại trường chúng tôi dạy từ năm học 2018-2019 đến năm học
2021-2022.

2



Phần II. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận và thực tiễn
1. Cơ sở lí luận
1.1. Năng lực
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm năng lực, trong đó đáng
chú ý một số quan niệm sau:
- Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế Thế giới (OECD) quan niệm năng lực
là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh
cụ thể.
- Tài liệu hội thảo chương trình Giáo dục phổ thơng tổng thể trong chương trình
giáo dục phổ thơng mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo khẳng định năng lực là sự huy
động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú,
niềm tin, ý chí... để thực hiện một loại cơng việc trong một bối cảnh nhất định.
Có thể nói rằng Chương trình giáo dục định hướng năng lực ngày nay trở thành
xu hướng giáo dục quốc tế và đã khẳng định vai trị rất quan trọng của nó. Dạy học
theo định hướng phát triển năng lực sẽ thực hiện được mục tiêu phát triển toàn diện
các phẩm chất nhân cách của học sinh, giúp học sinh đối mặt và giải quyết được các
tình huống đa dạng, phức tạp mà cuộc sống đặt ra.
Dạy học chú trọng phát triển năng lực cho học sinh là vô cùng cần thiết, các em
là thế hệ trẻ là những chủ nhân tương lai của đất nước, năng lực các em có được
khơng chỉ giúp các em sống bản lĩnh, tự tin, quyết đoán, năng động để thành cơng
trong cuộc sống mà cịn góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Trong bối
cảnh hiện nay, khi đất nước đang bước vào thời kì hội nhập quốc tế sâu, rộng bên
cạnh việc phải đáp ứng những yêu cầu phức tạp mà cuộc sống đặt ra các em còn phải
chịu sự tác động của nhiều yếu tố tích cực lẫn tiêu cực. Nếu khơng có những năng
lực cần thiết các em sẽ dễ bng xi, phó mặc và bị động trước những tình huống,
yêu cầu, thử thách mà cuộc sống đặt ra.
1.2. Hoạt động trải nghiệm

Hoạt động trải nghiệm được xem là một bộ phận hữu cơ khơng thể thiếu trong
q trình giáo dục nói chung, q trình dạy học nói riêng ở nhà trường phổ thơng,
góp phần thực hiện các mục tiêu giáo dục đào tạo của nhà trường phổ thông.
Theo từ điển Tiếng Việt: Trải nghiệm là trải qua, kinh qua. Trải nghiệm là trải
qua thực tế để rút ra được những kinh nghiệm. Trải nghiệm thiên về các hoạt động
thực tiễn. Còn theo từ điển Giáo dục học: Trải nghiệm là hoạt động thực hành, thực
nghiệm các vấn đề đặt ra trong bài học và những vấn đề liên quan đến bài học.
Trong cuốn Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ
thơng, NXB giáo dục (Nhóm tác giả), tác giả Lê Huy Hoàng nêu ý kiến: hoạt động
trải nghiệm là hoạt động xã hội thực tiễn giúp học sinh tự chủ trải nghiệm trong tập
3


thể, qua đó hình thành và thể hiện phẩm chất năng lực; nhận ra năng khiếu, sở thích,
đam mê, bộc lộ và điều chỉnh cá tính, giá trị, nhận ra chính mình cũng như khuynh
hướng phát triển bản thân; bổ trợ và cùng các hoạt động dạy học trong chương trình
giáo dục thực hiện tốt nhất mục tiêu giáo dục. Hoạt động này nhấn mạnh sự trải
nghiệm, thúc đẩy năng lực sáng tạo của người học và được tổ chức một cách linh
hoạt, sáng tạo.
Theo Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể thì “hoạt động trải
nghiệm sáng tạo” là hoạt động giáo dục trong đó từng học sinh được trực tiếp hoạt
động thực tiễn trong nhà trường hoặc trong xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của
nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, các kĩ năng và tích lũy kinh
nghiệm riêng của cá nhân. Trải nghiệm là hoạt động được coi trọng trong từng môn
học; đồng thời trong kế hoạch giáo dục cũng bố trí các hoạt động trải nghiệm sáng
tạo riêng, mỗi hoạt động này mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến
thức, kĩ năng khác nhau”.
Có 4 nhóm nội dung hoạt động trải nghiệm:
Thứ nhất là những hình thức nhóm mang tính cống hiến (gồm các hoạt động
tình nguyện, nhân đạo, vì cộng đồng…).

Thứ hai là hoạt động có tính khám phá như những chuyến đi thực địa, tham
quan, dã ngoại …
Thứ ba là hoạt động mang tính thể nghiệm, học sinh được trải nghiệm và thể
nghiệm mình qua các hoạt động giao lưu, đóng kịch, sân khấu hóa,…
Thứ tư là những hoạt động có tính nghiên cứu và phân hóa, như những dự án,
hoạt động nghiên cứu khoa học, các hoạt động câu lạc bộ có tính định hướng có tính
phân hóa…
Như vậy, dù có nhiều quan điểm khác nhau về hoạt động trải nghiệm nhưng có
thể thấy, các tác giả đều nhấn mạnh: cần coi trải nghiệm là một dạng hoạt động giáo
dục được tổ chức theo phương thức trải nghiệm và sáng tạo. Mục đích của hoạt động
này là góp phần hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm,
giá trị, kỹ năng sống và những năng lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện
đại, góp phần phát triển tồn diện năng lực tư duy và nhân cách học sinh.
1.3. Hoạt động trải nghiệm trong dạy học chủ đề
Xuất phát từ những mục tiêu chung của hoạt động trải nghiệm, hoạt động trải
nghiệm trong môn Ngữ văn có các mục tiêu được cụ thể hóa sao cho phù hợp với
đặc thù và tăng cường tính khả dụng của mơn học. Cụ thể:
- Giúp HS hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm,
giá trị, kĩ năng sống; tiếp tục phát triển các năng lực quan trọng và đặc thù của môn
Ngữ văn như: năng lực giao tiếp, năng lực thưởng thức và cảm thụ văn chương, năng
lực sáng tạo... từ đó tham gia vào giao tiếp văn học và giao tiếp đời sống một cách
có hiệu quả hơn.
4


- Giúp học sinh tích lũy kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng sáng
tạo của cá nhân mình; định hướng mỗi cá nhân trở thành một chủ thể tiếp nhận và
sản sinh lời nói một cách tích cực, chủ động, sáng tạo, ln có ý thức trải nghiệm
hành động và trải nghiệm xúc cảm để hình thành nên động cơ, niềm tin, giá trị sống;
- Giúp học sinh nâng cao hiểu biết, khả năng cảm thụ cũng như đánh giá cái

hay, cái đẹp của văn chương và nghệ thuật ngơn từ; có khả năng trải nghiệm thế giới
nghệ thuật trong tác phẩm văn học, biết kết nối những trải nghiệm ấy với trải nghiệm
đời sống để thẩm thấu sâu sắc hơn giá trị tác phẩm và làm phong phú hơn vốn sống
cá nhân, hiểu biết xã hội của bản thân. (Giáo trình Thực hành dạy học Ngữ văn,
Phạm Thu Hương (chủ biên), nxb ĐHSP, 2018
1.4. Các năng lực cần phát triển cho học sinh qua HĐTN
- Nhóm các năng lực chung, bao gồm các năng lực cụ thể: Năng lực sáng tạo,
năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực số, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng
lực tự học, năng lực tự quản lý, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tính tốn.
- Nhóm các năng lực đặc thù thuộc về các môn học cụ thể, ở mơn Ngữ văn đó là
các năng lực: Năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực cảm thụ thẩm mỹ.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh ở
trường trung học phổ thông
Từ thực tế dạy học chúng ta nhận thấy rằng, mỗi cá nhân học sinh là một cá thể
độc lập, các em có hồn cảnh xuất thân, khả năng, sở thích, tính cách, nhu cầu…
khác nhau. Chương trình dạy học theo định hướng nội dung có đặc điểm cơ bản là
chú trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học theo các môn học đã được quy
định trong chương trình dạy học theo cấp, theo khối và theo lớp. Chính vì vậy mà
chương trình dạy học theo định hướng này không đáp ứng được nhu cầu của mỗi cá
nhân học sinh mà hầu như chỉ áp dụng đồng loạt theo đúng quy định, khiến cho phần
lớn các em học sinh thấy mệt mỏi, không hứng thú, kém sáng tạo, thụ động trong
quá trình học tập. Trong khi đó, chương trình dạy học theo định hướng phát triển
năng lực chú ý đến thực tế mỗi học sinh là một cá thể độc lập vì vậy đã tìm ra cách
tiếp cận phù hợp với mỗi học sinh. Mặt khác, ở lứa tuổi các em, ngoài việc ý thức
về việc học các em cịn rất hiếu động, thích trải nghiệm, muốn khám phá… để các
em phát huy sở trường và năng khiếu của bản thân. Nếu chỉ chú ý vào việc trang bị
kiến thức thì các em ít có cơ hội gắn kết bản thân, bài học với cuộc sống. Dạy học
theo định hướng phát triển năng lực bằng những hoạt động trải nghiệm khắc phục
được hạn chế này, có nghĩa là học sinh sẽ được tham gia một cách tích cực, chủ động

vào các hoạt động thực tiễn để từ đó vận dụng và áp dụng được những gì các em đã
học vào cuộc sống và ngược lại học sinh có thể đưa những điều các em đã tìm hiểu
được, nhận thức được từ thực tế các em đã trải nghiệm vào bài học một cách hứng
thú, độc đáo, hiệu quả. Từ đó, kết quả dạy học sẽ được nâng cao, sẽ dần hình thành
và phát triển những năng lực cần thiết cho học sinh.
5


Tuy nhiên, trong tình hình dịnh bệnh phức tạp như hiện nay, muốn tổ chức
được các HĐTN cũng cần căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương. Tổ chức như
thế nào, vận dụng hình thức trải nghiệm gì, để vừa phù hợp với nhiệm vụ phát triển
năng lực cho học sinh, lại vừa phải đảm bảo được sự an toàn về sức khoẻ cho học
sinh. Thực tế này địi hỏi người giáo viên phải suy nghĩ, tìm tịi, cân nhắc.
Nhận thức được điều đó, trong q trình dạy học nói chung và dạy học mơn
Ngữ văn nói riêng, phần lớn các giáo viên đã chú trọng việc dạy học theo định hướng
phát triển năng lực thông qua các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trong đó
có HĐTN. Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy cũng như qua quá trình tìm hiểu, điều
tra cho thấy giờ dạy học vẫn nặng về kiến thức, kết quả học tập vẫn hướng về việc
thi cử. Việc hình thành và phát triển năng lực vẫn chưa có những biểu hiện cụ thể và
chưa có kết quả rõ ràng. Phần lớn các em còn lúng túng trong việc giải quyết vấn
đề, khả năng giao tiếp thiếu tự tin, làm việc nhóm cịn mang tính hình thức. Ý thức
vận dụng những điều đã học vào thực tiễn và đem những hiểu biết từ thực tiễn vào
bài học còn thấp. Cho nên kết quả đầu ra của quá trình giáo dục vẫn là những học
sinh thiếu về những năng lực chung lẫn những năng lực đặc thù của các môn học.
2.2. Thực trạng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Ngữ văn
góp phần phát triển năng lực cho học sinh
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát tâm lý và hứng thú học tập mơn Ngữ văn khi
có hoặc khơng áp dụng các HĐTN trong tiến trình dạy học như sau:(PL4)
Nội dung khảo sát


Sĩ số HS
khảo sát

Tỉ lệ
Thích/
Tốt

Khá thích/ Bình
Khơng
Khá tốt
thường thích

Giờ học Ngữ văn khơng 90
có hoạt động trải nghiệm

0

5

13

72

5,5%

14,5%

80%

Tâm lí trong giờ học Ngữ 90

văn khơng có hoạt động
trải nghiệm

0

0

9

81

10%

90%

Tác động của các hoạt 90
động trải nghiệm trong
giờ học Ngữ văn .

65

25

0

0

72%

28%


Sự hứng thú khi trải 90
nghiệm các hoạt động
trải nghiệm trong giờ học
Ngữ văn .

79

11

0

0

87%

23%

6


Qua việc điều tra, khảo sát và phân tích thực tế, có thể thấy việc phát triển năng
lực cho học sinh thông qua tổ chức các HĐTN hầu hết đã được giáo viên có ý thức
thực hiện, có những hiểu biết cơ bản và khẳng định đây là cách thức, hoạt động giáo
dục mang lại nhiều hiệu quả. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện hiệu quả
đạt được là chưa cao như mục tiêu đã đề ra. Những năng lực cần hình thành và phát
triển cho học sinh qua bài học môn Ngữ văn phần lớn chưa đem lại kết quả rõ ràng,
học sinh chưa đáp ứng được những u cầu, địi hỏi trước những tình huống mà thực
tế cuộc sống hiện đại đang đặt ra. HĐTN chưa được tổ chức thực hiện phổ biến,
chưa thường xuyên và cịn gặp rất nhiều khó khăn. Cách thức tổ chức các phương

pháp, kĩ thuật, hoạt động dạy học tích cực cịn tồn tại nhiều hạn chế. Chính vì vậy
mà trong thời gian gần đây, chúng tôi đã luôn chú ý sử dụng các phương pháp, kĩ
thuật dạy học tích cực và tổ chức các hoạt động dạy học tích cực để phát triển năng
lực cho học sinh đặc biệt là tập trung vào việc tổ chức các HĐTN.
II. Vận dụng các hoạt động trải nghiệm trong dạy học chủ đề Truyện dân gian
theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong tình hình dịch bệnh mới
1. Vận dụng các HĐTN nhằm phát triển năng lực đọc cho học sinh
1.1. Các yêu cầu cần đạt của năng lực đọc
Đọc tức là biến hình thức chữ viết của văn bản thành hình thức âm thanh của
ngơn ngữ để làm cho người nghe hiểu được điều mà tác giả nói qua chữ viết.
Đọc văn là hoạt động giải mã các kí tự, các biểu tượng của văn bản để lĩnh hội
ý nghĩa của văn bản, chia sẻ thơng tin từ những gì chúng ta tiếp thu được. Việc lĩnh
hội ý nghĩa phụ thuộc vào nhiều yếu tố: kiến thức, kinh nghiệm, vốn sống, kỹ năng,
thái độ… của người đọc.
Do đặc thù của bộ môn Ngữ văn, học sinh tiếp cận kiến thức văn học phải gắn
liền với khả năng cảm thụ văn học. Để làm được điều đó, địi hỏi phải hình thành và
nâng cao ở các em năng lực đọc- hiểu văn bản nghệ thuật.
Có nhiều khái niệm đọc hiểu đã được các nhà nghiên cứu đề xuất, song về cơ
bản, họ thống nhất ở cách hiểu: nó là một tiến trình gồm hai cơng đoạn thuộc hai
phạm trù khác nhau: “đọc” thuộc phạm trù thể lý và “hiểu” thuộc phạm trù tâm lý.
Đối tượng của đọc- hiểu là giá trị thẩm mỹ của của tác phẩm. Tiến trình nhận thức
này chỉ xảy ra khi có sự tương tác giữa văn bản với người đọc. Vì vậy, đọc hiểu phải
là hoạt động kết hợp đọc với sự hình thành các năng lực giải thích, phân tích, bình
luận, so sánh, khái qt, đánh giá đúng - sai, nghĩa là kết hợp đọc với năng lực tư
duy và khả năng biểu đạt. Đọc hiểu là phải nắm chắc nội dung của văn bản đọc, phân
tích được mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thể hiện văn bản. Đọc phải theo
trình tự các cấp độ từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, đọc thông thường, đọc
chuẩn về ngữ âm, biết ngừng nghỉ đúng chỗ, lên giọng xuống giọng đúng mục đích
phát ngơn của câu; đọc kĩ, đọc sâu, hiểu được ý tác giả trong việc sắp xếp ý, dùng
từ, đặt câu; đọc hiểu được thông điệp mà văn bản gửi đến người đọc. Đọc hiểu còn

7


là để cảm, để thưởng thức, để tự phát triển bản thân, làm phong phú thêm đời sống
tâm hồn, hoàn thiện nhân cách. Trong quá trình đọc, học sinh phải phát hiện được ý
nghĩa mà tác giả thể hiện kín đáo trong văn bản, tìm thấy điều mà người đọc trước
chưa thấy, đó mới thực sự là đọc sáng tạo.
Có một điều rõ ràng rằng, không phải chỉ ở bộ mơn Ngữ văn mới hình thành
năng lực đọc- hiểu, tuy nhiên, năng lực đọc- hiểu của môn Ngữ văn khác với các
ngành khác. Bởi vì nó gắn liền với những điểm sáng thẩm mỹ nghệ thuật của văn
bản. Hơn nữa, sự phát hiện và cảm thụ vẻ đẹp nghệ thuật của văn bản văn học ngồi
tâm lý nghệ thuật, cịn phải được xây dựng trên nền cơ sở khoa học, vì Văn học vừa
là nghệ thuật, nhưng cũng đồng thời là khoa học.
1.2. Đề xuất các HĐTN nhằm phát huy năng lực đọc của học sinh
1.2.1. Đọc diễn cảm
Theo tác giả Hà Nguyễn Kim Giang nêu ra trong cuốn Phương pháp đọc diễn
cảm, cho rằng: Đọc diễn cảm là làm nổi bật đặc điểm, cảm xúc thẩm mĩ và đời sống
tinh thần của tác phẩm, tạo ra mối quan hệ xúc động riêng của người đọc với tác
phẩm.
Như vây, đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc những văn bản văn chương
hoặc có các yếu tố của ngơn ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở kỹ năng làm
chủ ngữ điệu, chỗ ngừng đọc, cường độ giọng… để biểu đạt đúng ý nghĩ tình cảm
mà tác giả muốn gửi gắm vào trong bài đọc, đồng thời biểu hiện được sự thông hiểu
cảm thụ của người đọc đối v ới tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở
trình độ cao, đó là đọc đúng giọng vui, buồn, giận giữ, trang nghiêm… phù hợp với
từng ý cơ bản của bài đọc, phù hợp v ới kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết
nhấn giọng ở từ ngữ biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân v ật, lời tác giả. Đọc diễn
cảm vừa phải đảm bảo được sự trung thành với văn bản gốc, vừa phải bộc lộ được
màu sắc của cá nhân trong cảm thụ, thể hiện được cái tinh thần và cái hồn của bài
văn. Đọc diễn cảm đã tận dụng được các hình thức biểu hiện của người đọc, thống

nhất được nội tâm và ngoại hình, từ đó chinh phục được người nghe.
Vì vậy có thể hiểu ngắn gọn về đọc diễn cảm như sau: Đọc diễn cảm là cách sử
dụng giọng đọc có kèm theo cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để truyền đạt những ý nghĩ, tư
tưởng, tình cảm của tác giả gửi gắm trong tác phẩm và cả những ý nghĩ, thái độ, tâm
trạng, cảm xúc của người đọc đến với người nghe.
Đọc diễn cảm cũng là một nghệ thuật có đặc điểm riêng, nó khơng lặp lại người
khác, không chỉ truyền đạt trung thành, máy móc bài văn mà cịn ghi đậm dấu ấn cá
nhân. Đọc như thế sẽ gây được chấn động tâm hồn trên cơ sở những mĩ cảm ngôn
ngữ văn học và khả năng biểu diễn. Lối đọc này sẽ có sức hấp dẫn, lôi cuốn người
nghe và làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của tác phẩm văn chương. Rõ ràng đọc
diễn cảm mang đầy đủ tính nghệ thuật của nó. Đọc diễn cảm là hình thức đặc biệt
của đọc văn chương. Đặc biệt nó vượt qua việc đọc những tín hiệu ngơn ngữ, từ kí
hiệu chữ viết sang kí hiệu âm thanh tạo ra năng lực đọc văn.
8


Đọc diễn cảm là hình thức riêng của việc đọc văn có sự tham gia bổ sung, hỗ trợ
của năng lực diễn đạt bằng cử chỉ, điệu bộ, tâm thế, dáng vẻ, giọng điệu, ngữ điệu,
âm sắc, màu sắc của cảm xúc ngôn ngữ. Cho nên đọc diễn cảm là một nghệ thuật.
Nghệ thuật đọc diễn cảm đòi hỏi phải có một q trình rèn luyện lâu dài và liên
tục.
Đọc diễn cảm là yêu cầu bắt buộc trong hoạt động dạy học Ngữ văn. Nếu hoạt
động dạy học diễn ra trực tiếp trên lớp, giáo viên có thể mời lần lượt luân phiên các
bạn đọc, sau đó cho học sinh nhận xét lẫn nhau về cách đọc, về ngữ điệu, về tình
cảm được lồng ghép qua giọng đọc… Nhưng nếu hoạt động dạy học diễn ra trực
tuyến, giáo viên có thể cho học sinh tự đọc ở nhà, quay video hoặc ghi âm, và cho
phép học sinh chia sẻ file trong quá trình dạy học. Việc làm này vừa giúp giáo viên
kiểm tra được năng lực đọc diễn cảm của học sinh, vừa giúp học sinh rèn luyện được
các kỹ năng cần thiết, như kỹ năng phát âm, kỹ năng biểu cảm… (Phụ lục 5)
1.2.2. Đọc phân vai và đọc lồng vai

Đặc trưng của những tác phẩm tự sự là đều có cốt truyện, nhiều nhân vật với
những lời thoại, hoạt động, cử chỉ diễn ra nhanh, liên tục, bất ngờ. Và phương pháp
đọc phân vai có thể vận dụng trong hoạt động đọc ở các tác phẩm thuộc thể loại này.
Phương pháp đọc phân vai luôn tạo được sự hứng thú cho học sinh vì phương pháp
này phù hợp với tâm lí của các em là muốn được thể hiện, bộc lộ khả năng bản thân
mình. Mặt khác, phương pháp đọc phân vai cịn rèn cho học sinh tính mạnh dạn
trước đông người và tự tin hơn trong giao tiếp cũng như rèn luyện kĩ năng diễn đạt
bằng lời một cách lưu lốt, có ngữ điệu, truyền cảm. Và ưu điểm quan trọng nhất
của phương pháp này là tái hiện tác phẩm một cách cụ thể, sinh động; bởi vì khi đọc
phân vai thì giọng điệu truyền cảm, cử chỉ, điệu bộ, trang phục phù hợp sẽ làm cho
nhân vật và sự việc hiện ra rõ nét hơn. Kết hợp với trí tưởng tượng, các yếu tố trên
sẽ giúp học sinh tiếp cận tác phẩm nhanh chóng, thuận lợi và như vậy việc tìm hiểu
nội dung, nghệ thuật của tác phẩm sẽ đầy đủ, sâu sắc hơn.
Khi hoạt động dạy học diễn ra trực tiếp trên lớp học, việc vận dụng phương
pháp đọc phân vai rất dễ thực hiện. Giáo viên chỉ cần chọn những học sinh có chất
giọng truyền cảm, phù hợp với từng nhân vật để đọc lời dẫn chuyện và đọc phân vai.
Sau đó giáo viên hướng dẫn cho từng học sinh cách đọc sao cho phù hợp với nhân
vật mà mình nhập vai.
Yếu tố quyết định đến sự thành cơng của phương pháp này chính là khả năng
nhập vai của học sinh đến đâu! Ngoài chất giọng vốn có, học sinh phải tìm hiểu kĩ
về nhân vật mà mình sẽ nhập vai (và cả những nhân vật khác). Sau đó dành thời gian
tập luyện để đảm bảo đọc trơi chảy, chính xác, diễn cảm thể hiện một cách tốt nhất
tính cách cũng như những trạng thái tâm lí của nhân vật. Ở hoạt động này, khơng
địi hỏi học sinh phải như những diễn viên thực thụ nhưng người nhập vai phải có
sự hố thân vào nhân vật ở một mức độ nào đó. Đặc biệt, phải chú ý đến giọng điệu
sao cho phù hợp với nhân vật. Đó là giọng trầm, vang, dứt khốt của Đam săn, giọng
điệu ban đầu đầy diễu cợt, sau run rẩy và lo sợ của Mtao- Mxay (trong Chiến thắng
Mtao- Mxay, trích Sử thi Đam- săn), giọng chua ngoa, đanh đá, xảo quyệt của mẹ
9



con Cám, giọng yếu đuối, sợ sệt của Tấm (trong Tấm Cám), giọng điệu dứt khoát
của Rùa vàng, giọng đau đớn của Mị Châu nói lời thề trước lúc chết (trong Truyện
An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thuỷ)… Những học sinh (được phân vai) cần
bố trí thời gian cùng đọc thử với nhau để thuần thục và chỉnh sửa (nếu cần thiết).
Tuy nhiên, nếu hoạt động dạy học diễn ra trực tuyến- hoặc trực tiếp, nhưng giáo
viên muốn tiết kiệm thời gian mà vẫn rèn luyện được kỹ năng đọc cho học sinh, thì
lúc đó, đọc lồng vai là phương pháp tối ưu được lựa chọn. Phương pháp đọc lồng
vai yêu cầu cao hơn so với phương pháp đọc phân vai, khi một học sinh phải đảm
đương được nhiều vai nhân vật- với nhiều giọng điệu khác nhau. Điều này đòi hỏi
học sinh phải rèn giũa nhiều hơn, nhưng vô cùng thú vị. Việc cho học sinh đọc lồng
vai, tự quay video ở nhà sẽ là một công việc tạo nhiều hứng thú cho học sinh, khi
các em được thử sức mình ở một hoạt động ít gặp. Điều này sẽ tạo cho các em những
sân chơi lý thú và bổ ích. (Phụ lục 5)
2. Vận dụng các HĐTN nhằm phát triển năng lực viết cho học sinh
2.1. Các yêu cầu cần đạt của năng lực viết
Viết là một trong những hoạt động thể hiện, truyền đạt thông tin – một trong
hai quá trình của hoạt động giao tiếp là tiếp nhận và tạo lập ngơn bản. Quy trình thực
hành viết văn bản cần được cụ thể hóa: xác định được nhiệm vụ, mục đích và đối
tượng tiếp nhận văn bản; thu thập thông tin; lập dàn ý; viết bản thảo; đánh giá và rà
soát; chia sẻ bài viết; hồn thiện bài viết. Quy trình này có những hỗ trợ cụ thể cho
HS khi gặp khó khăn trong việc tạo lập văn bản.
Đối với hoạt động viết, ở cấp tiểu học: yêu cầu học sinh viết đúng chính tả, từ
vựng, ngữ pháp; viết được một số câu, đoạn văn ngắn; bước đầu viết được bài văn
ngắn hoàn chỉnh, chủ yếu là bài văn kể, tả và bài giới thiệu đơn giản; viết được văn
bản kể lại những câu chuyện đã đọc, những sự việc đã chứng kiến, tham gia, những
câu chuyện do học sinh tưởng tượng; miêu tả những sự vật, hiện tượng quen thuộc;
giới thiệu về những sự vật và hoạt động gần gũi với cuộc sống của học sinh; viết
đoạn văn nêu những cảm xúc, suy nghĩ của học sinh khi đọc một câu chuyện, bài
thơ, khi chứng kiến một sự việc gợi cho học sinh nhiều cảm xúc; nêu ý kiến về một

vấn đề đơn giản trong học tập và đời sống; viết một số kiểu văn bản như: bản tự
thuật, tin nhắn, giấy mời, thời gian biểu, đơn từ; bước đầu biết viết theo quy trình;
bài viết cần có đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài).Ở cấp trung học cơ sở: học sinh
viết được bài văn tự sự, miêu tả và biểu cảm; bước đầu biết viết bài văn nghị luận,
thuyết minh, nhật dụng; viết đúng quy trình, biết cách tìm tài liệu để đáp ứng yêu
cầu viết văn bản; có hiểu biết về quyền sở hữu trí tuệ và biết cách trích dẫn văn
bản.Ở cấp trung học phổ thông: học sinh viết thành thạo kiểu văn bản nghị luận và
thuyết minh về các đề tài gắn với đời sống và định hướng nghề nghiệp; Viết được
văn bản nghị luận và văn bản thơng tin có đề tài tương đối phức tạp; văn bản nghị
luận yêu cầu phân tích, đánh giá, so sánh giá trị của tác phẩm văn học; bàn về những
vấn đề phù hợp với đối tượng gần đến tuổi thành niên, đòi hỏi cấu trúc và kiểu lập
10


luận tương đối phức tạp, bằng chứng cần phải tìm kiếm từ nhiều nguồn; văn bản
thuyết minh viết về những vấn đề có tính khoa học dưới hình thức một báo cáo
nghiên cứu đúng quy ước; tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ và tránh đạo văn; bài viết
thể hiện được cảm xúc, thái độ, những trải nghiệm và ý tưởng của cá nhân đối với
những vấn đề đặt ra trong văn bản; thể hiện được một cách nhìn, cách nghĩ, cách
sống mang đậm cá tính.
2.2. Đề xuất các HĐTNST nhằm phát huy năng lực viết của học sinh
2.2.1. Làm bài tập dạng đề án (giao dự án về nhà)
Dạy học dự án là một hình thức dạy học hay phương pháp dạy học phức hợp,
trong đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên, người học tiếp thu kiến thức và hình thành
kĩ năng thơng qua việc giải quyết một bài tập tình huống (dự án) có thật trong đời
sống, theo sát chương trình giảng dạy có sự kết hợp giữa lý thuyết với thực hành và
tạo ra các sản phẩm cụ thể. Quy trình thực hiện có 4 giai đoạn:
- Xây dựng ý tưởng (xác định nội dung, kiến thức hình thành dự án)
- Lập kế hoạch dự án (xác định những công việc cần làm)
- Thực hiện dự án (các nhóm thực hiện nhiệm vụ dự án theo kế hoạch đã phân

công dưới sự tư vấn của giáo viên),
- Thu thập kết quả dự án, đánh giá dự án (giáo viên và học sinh đánh giá quá
trình thực hiện, kết quả sản phẩm, rút kinh nghiệm).(Phụ lục 1)
Khi dạy chủ đề truyện dân gian Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 10,
chúng tơi đã giao cho học sinh những dự án như:
Thiết kế nội dung trên phần mềm power point
Xây dựng kịch bản văn học
Với phương pháp dạy học theo dự án, chính học sinh sẽ là người quyết định
cách tiếp cận vấn đề cũng như phương pháp và các hoạt động cần phải tiến hành để
giải quyết vấn đề mà giáo viên giao phó. Học sinh được chủ động lựa chọn, thu thập
dữ liệu từ những nguồn khác nhau, rồi tổng hợp, phân tích và tích lũy kiến thức từ
q trình làm việc. Khơng chỉ có vậy, học sinh cịn được trực tiếp trình bày và bảo
vệ sản phẩm trước hội đồng, được tự đánh giá sản phẩm của chính mình và tự đánh
giá sản phẩm của các bạn. Giáo viên chỉ đóng vai trị là người hướng dẫn và tham
vấn, giúp đỡ học sinh trong quá trình thực hiện dự án chứ khơng phải là “cầm tay
chỉ việc” như trong cách dạy học truyền thống. Chính vì vậy, phương pháp này ln
tạo hứng khởi cho học sinh, giúp các em có cơ hội được bộc lộ mình. (Phụ lục 1.2)
2.2.2. Thiết kế nội dung trên phần mềm power point
Để tổ chức hoạt động trải nghiệm này, trước khi bài học diễn ra, GV giao nhiệm
vụ cho các nhóm học sinh tìm kiếm, xử lí thơng tin và thiết kế cho bài trình chiếu
power point
11


VD1: Dạy học đoạn trích Chiến thắng Mtao- Mxay (trích sử thi Đam-săn), giao
nhiệm vụ cho các nhóm học sinh tìm hiểu:
Nhóm 1: Về thể loại Sử thi
Nhóm 2: Tìm hiểu về phong tục tập quán Tây Nguyên (như tập tục bắt chồng,
cướp vợ)
Nhóm 3: Tìm hiểu về Văn hố cồng chiêng Tây Nguyên

VD2: Dạy học truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thuỷ, giao
nhiệm vụ cho hs tìm hiểu:
Nhóm 1: Tìm hiểu về kiến trúc di tích Cổ Loa xưa và nay.
Nhóm 2: Tìm hiểu các lễ hội diễn ra ở Cổ Loa
Nhóm 3: Tìm hiểu về kiến trúc Đền Cng
Nhóm 4: Tìm hiểu về lễ hội Đền Cng
Trong q trình tham quan bằng những cách thức như trao đổi trực tiếp, quan
sát, chụp ảnh và kết hợp với nguồn thông tin khai thác từ mạng internet, sách báo…
học sinh các nhóm sẽ tìm hiểu về những nội dung được phân cơng. Sau đó, nhóm
trưởng sẽ tổ chức họp cả nhóm để biên tập lại nội dung: yêu cầu mỗi thành viên trình
bày kết quả, hiểu biết của mình, để từ đó cả nhóm tiến hành thảo luận, trao đổi, bàn
bạc để đi đến thống nhất về sản phẩm cần hồn thành.
Tìm hiểu về Văn hố Tây Nguyên khi dạy học sử thi Đam- săn

12


Tìm hiểu về di tích Cổ Loa khi dạy học Truyền thuyết An Dương Vương
và Mị Châu- Trọng Thuỷ

13


Tìm hiểu về di tích Đền Cng khi dạy học Truyền thuyết An Dương
Vương và Mị Châu- Trọng Thuỷ

2.2.3. Xây dựng kịch bản văn học
Trong Chương trình Ngữ văn 10, các em được tiếp xúc với 4 thể loại tự sự dân
gian là sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười. Với những tác phẩm này,
ngoài việc học kiến thức trên lớp, giáo viên có thể hướng dẫn các em đọc kỹ văn bản

sau đó chọn lựa một số trích đoạn hay chuyển thể thành kịch bản văn học và nhập
vai các nhân vật để biểu diễn trên sân khấu. Trên cơ sở nền tảng của cốt truyện dân
gian, bằng trí tượng và khả năng sáng tạo của mình các em có thể chuyển thể thành
các trích đoạn kịch nói, ca kịch vừa mang hơi thở dân gian vừa mang nét trẻ trung
14


mới mẻ, sự hài hước, dí dỏm, đáng yêu mà không phá vỡ ý nghĩa của cốt truyện,
những bài học về nhân sinh, đạo lý làm người của dân tộc. Ngồi ra giáo viên cần
hướng dẫn học sinh tìm hiểu trang phục, ngôn ngữ, lối sống của người Việt thời đại
mà tác phẩm hình thành thơng qua sách báo, Internet, và các nguồn khác để có thể
phục chế lại một cách sống động nhất bối cảnh xã hội, văn hóa cũng như cách trang
phục, ngôn ngữ của các nhân vật.
Hầu hết các tác phẩm tự sự dân gian đều có thể chuyển thể thành kịch bản dưới
dạng các trích đoạn để trình diễn trên sân khấu. Trong chương trình Ngữ văn lớp 10,
giáo viên có thể hướng dẫn các em xây dựng kịch bản từ các tác phẩm được học như
Sử thi Đam San, truyền thuyết Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy,
truyện cổ tích Tấm Cám, truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày... Xây dựng kịch
bản đòi hỏi các em phải đọc, nghiên cứu kỹ tác phẩm, nắm bắt được ý nghĩa nhân
sinh, những bài học triết lý đạo đức mà tác giả dân gian gửi gắm nên đây là cơ hội
để các em khắc sâu hơn những kiến thức được học trong giờ chính khóa. Đồng thời
qua trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo của các em, tác phẩm dân gian sẽ có thêm
màu sắc mới đầy vui tươi dí dỏm, gần gũi hơn cách cảm, cách nghĩ của giới trẻ hơm
nay. Từ đó các em sẽ thấy yêu hơn, hứng thú hơn khi tiếp nhận văn học dân gian.

Kịch bản: Phiên tòa xét xử Mị Châu- Trọng Thủy

15



Kịch bản: Tám Cám và chiếc yếm đỏ

16


3. Vận dụng các HĐTN nhằm phát triển năng lực nói và nghe cho học sinh
3.1. Các yêu cầu cần đạt của năng lực nói- nghe
Nói và nghe là hai kĩ năng, nhưng cần được gộp chung vì đó là hai hoạt động
diễn ra nối tiếp nhau, cái này là kết quả phản hồi của cái kia. Ngoài những nội dung
chung như bản chất (đặc trưng tác động qua lại trực tiếp, ngay tức thì giữa người nói
và người nghe trong ngơn ngữ nói), chức năng của hoạt động nói và nghe, chiến
lược và các yêu cầu chung của hoạt động nói và nghe (chẳng hạn sự phù hợp với
ngữ cảnh và mục đích, thái độ và cử chỉ điệu bộ khi nói và nghe (những điều cần
làm hay cần tránh khi nói và nghe), các chuẩn cần đạt được xây dựng dựa vào các
kĩ năng bộ phận, phân biệt theo nhiều tiêu chí khác nhau
Kĩ năng nói và nghe vừa được luyện tập trong khi học đọc và viết vừa được
học thành tiết học riêng. Nội dung nói và nghe có thể dựa trên nội dung đã học trong
phần đọc và viết hoặc có mối liên quan trực tiếp hay gián tiếp theo tinh thần tích hợp
giữa các kĩ năng.
Các kỹ năng về “nghe” và “nói” của học sinh cịn nhiều khiếm khuyết. Học
sinh chưa có năng lực biết lắng nghe để nhận thức, thấu hiểu mà ứng xử cho phù
hợp. Học sinh chưa quen với lắng nghe để cảm nhận theo cách nghệ thuật, ví dụ như
âm điệu của một bài thơ, tiết tấu của một bản nhạc.
Bên cạnh đó, học sinh cịn yếu về kỹ năng nói, thuyết trình và tranh luận. Cho
nên, nhiều em trong lớp học ở trường thì thụ động, rụt rè; ra ngồi xã hội thì khép
nép thu mình vì sợ nói, sợ sai. Việc học văn bị cho thiếu thực tiễn là vì thế.
3.2. Đề xuất các HĐTN nhằm phát huy năng lực nói và nghe cho học sinh
3.2.1. Diễn kịch (đóng vai)
Nói đến văn học dân gian khơng thể khơng nói đến tính nguyên hợp như một
đặc trưng cơ bản. Biểu hiện rõ nét nhất của tính nguyên hợp là tính diễn xướng. Diễn

xướng là trình bày, biểu diễn tác phẩm. Tính diễn xướng gắn liền với Văn học dân
gian như điều kiện sống còn, nhờ diễn xướng mà tác phẩm được truyền đến đơng
đảo quần chúng nhân dân. Chính trong biểu diễn, các phương tiện nghệ thuật của tác
phẩm văn học dân gian mới có điều kiện kết hợp với nhau tạo nên hiệu quả thẩm mỹ
tổng hợp. Chính vì vậy, việc tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động diễn kịch,
đóng vai trong q trình dạy học chủ đề truyện dân gian là vô cùng cần thiết. Học
sinh của từng lớp sẽ được lựa chọn những tác phẩm ngữ văn, trích đoạn văn học
trong chương trình giảng dạy để nghiên cứu, chuyển thể sang hình thức sân khấu
hóa. Thơng qua hình thức trình diễn, các tác phẩm văn học dường như sống động và
hấp dẫn hơn so với những giờ giảng trên lớp. Các em học sinh được dành thời gian
nghiên cứu về đặc điểm, tính cách nhân vật, từ đó “nhập vai” sao cho sát nhất với
nội dung của tác phẩm văn học. Đây là một hình thức mới trong thực hiện định
hướng dạy học phát triển năng lực của học sinh. Thơng qua hình thức sân khấu hóa
sẽ đưa những tác phẩm ngữ văn, trích đoạn văn học đến gần hơn với các em học
sinh; giúp các em có thể đồng sáng tạo với nhà văn và tạo ra sân chơi bổ ích cho các
17


em học sinh; làm cho những tiết học văn thú vị, hấp dẫn hơn rất nhiều. Phương pháp
này cũng giúp học sinh chủ động tiếp cận văn bản, thâm nhập vào thế giới của tác
phẩm để cảm nhận về các nhân vật và chi tiết trong tác phẩm sau đó tái hiện trên sân
khấu lớp học. Ngoài ra học sinh cịn được tự mình sáng tạo trong cách diễn xuất làm
sao để diễn tả được sâu sắc tính cách, nội tâm của nhân vật mình đóng vai. Với
những học sinh không tham gia diễn xuất cũng cần đọc văn bản thật kĩ và cảm nhận
về nhân vật trong tác phẩm để đối chiếu với hình ảnh nhân vật được tái hiện trên
sân khấu lớp học và đưa ra nhận xét của mình. Từ đó, các tiết học theo hình thức
sân khấu đã thực sự tạo được hứng thú cho đại đa số học sinh để các em học tập có
hiệu quả. Phương pháp học này cũng góp phần xây dựng ở các bạn học sinh thói
quen đọc sách đề hiểu tác phẩm nhiều hơn.
Căn cứ vào điều kiện thực tế của trường, lớp- trong tình hình diễn biến dịch

bệnh phức tạp, giáo viên có thể linh động trong hình thức tổ chức và thực hiện.
Trên cơ sở hiểu về nội dung, nghệ thuật, giá trị, ý nghĩa của tác phẩm mà các em
đã được học trên lớp, giáo viên có thể cho các em thực hiện sân khấu hóa bởi một
sản phẩm video cụ thể (cũng có thể cho diễn tại lớp). Chúng tôi đã tiến hành như
sau:
- Lập kế hoạch dự án: xây dựng kế hoạch và giáo án gắn với mục tiêu, nhiệm

vụ học sinh. Sau đó, giới thiệu kế hoạch, mục tiêu dự án, phân công nhiệm vụ cụ thể
cho các nhóm học sinh trong lớp thực hiện kịch bản bằng video.
- Thực hiện dự án

Theo nhiệm vụ được phân công, các em thực hiện công việc như xây dựng kịch
bản, học lời thoại, cách diễn xuất, thiết kế trang phục, tìm cảnh quay... Trong q
trình đó giáo viên cần theo dõi sát sao, kiểm tra và giúp đỡ kịp thời, giải quyết những
vướng mắc để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Thu thập kết quả, đánh giá dự án.

+ Tổ chức cho học sinh báo cáo sản phẩm
+ Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập
Khi học sinh trình chiếu video, giáo viên chia lớp thành các nhóm theo dõi,
đánh giá cụ thể từng nhân vật về ngôn ngữ, trang phục, đạo cụ, diễn xuất, cảnh quay..
Sau đó, giáo viên tổng hợp các ý kiến và nhận xét chung, chuẩn hóa kiến thức,
rút kinh nghiệm, hướng dẫn học sinh tổng hợp và khái quát những kiến thức trọng
tâm của bài học.
Khi thực hiện sân khấu hóa tác phẩm văn học, cần chú ý cho học sinh những
vấn đề sau như sau:
- Phải đọc kĩ tác phẩm để nắm chi tiết nội dung, nghệ thuật tác phẩm
- Trên cơ sở tôn trọng giá trị nội dung tác phẩm, các em xây dựng lại kịch bản
theo cảm nhận của mình.
18



- Thực hiện các công đoạn chuẩn bị trước khi quay phim: làm đạo cụ, trang
phục, học lời thoại kịch bản, tìm cảnh quay phù hợp...
- Khi đi thực tế đời sống thực hiện ghi hình, các em chú ý rèn luyện kĩ năng
đóng vai, diễn xuất, kĩ thuật ghi hình, làm việc nhóm...
Giáo viên cho học sinh đánh giá kết quả của các đội nhóm. Kết quả cuối cùng
là điểm số sẽ được công bố trước lớp sau khi giáo viên đã tổng hợp và cho điểm.
Một số hình ảnh được cắt từ video “Nhưng nó phải bằng hai mày” do học
sinh diễn khi học Truyện cười

19


Cảnh xác Mị Châu nằm trên bờ biển (Truyền thuyết An Dương Vương và Mị
Châu- Trọng Thuỷ)

Cảnh bà lão và quả thị (Truyện Tấm Cám)
- Bằng hình thức cho các em thực hiện kịch bản văn học bởi một sản phẩm
video ghi hình, các em khơng những hóa thân vào nhân vật mà còn được những trải
nghiệm từ thực tế đời sống. Các em phải chọn đạo cụ, trang phục, cảnh phù hợp với
câu chuyện. Tích hợp phương pháp dạy học sân khấu hóa với hoạt động trải nghiệm
sáng tạo, học sinh sẽ phát huy nhiều năng lực: năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề,
năng lực sáng tạo, năng lực thẩm mỹ, năng lực giao tiếp, hợp tác, năng lực số, năng
lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thơng...
3.3.2.2. Kể chuyện sáng tạo: Ngược dịng thời gian, trở về với VHDG
Kể chuyện sáng tạo là việc dựa vào cốt truyện của một câu chuyện đã cho có
sẵn, học sinh phải hóa thân vào một trong những nhân vật trong tác phẩm để kể lại
toàn bộ câu chuyện đó, hoặc có thể tưởng tượng về một kết thúc khác cho câu


20


chuyện. Do vậy, hình thức kể chuyện này thường địi hỏi rất cao yếu tố sáng tạo
trong bài văn kể.
Để làm bài văn kể lại một câu chuyện đã nghe, đã đọc bằng ngơn ngữ riêng của
mình, địi hỏi học sinh cần có sự linh hoạt và khả năng sáng tạo trong việc kể lại một
câu chuyện mới mẻ hoàn tồn nhưng vẫn giữ được nội dung chính của câu chuyện
gốc.
Trong quá trình kể chuyện, học sinh sẽ trình bày câu chuyện theo trình tự khơng
gian, thời gian. Kể bằng lời văn của chính mình, bám theo dàn bài cơ bản thể hiện
cảm xúc cá nhân, không sao chép nguyên văn chuyện kể. Các câu văn ngắn gọn,
mạch lạc. Nội dung câu chuyện sinh động, sáng tạo, hấp dẫn.

Kể chuyện sáng tạo: Một kết thúc khác của truyền thuyết An Dương Vương
và Mị Châu- Trọng Thủy
Với các nhóm nội dung hoạt động trải nghiệm: nhóm hoạt động có tính khám
phá như những chuyến đi thực địa, tham quan, dã ngoại,…, nhóm hoạt động mang
tính thể nghiệm như các hoạt động giao lưu, đóng kịch, sân khấu hóa,…, nhóm hoạt
động có tính nghiên cứu và phân hóa, như những dự án, hoạt động nghiên cứu khoa
học, các hoạt động câu lạc bộ,… thì việc vận dụng các HĐTNST được đề xuất trong
đề tài này hy vọng khơng chỉ có thể áp dụng trong tình hình dạy học trực tiếp, dạy
học trực tuyến, mà cịn là những hình thức sẽ được vận dụng trong chương trình giáo
dục phổ thơng mới- khi trải nghiệm là một yêu cầu bắt buộc, và sẽ phát huy được
tối đa hiệu quả của nó trong việc góp phần phát triển năng lực học sinh.
21


III. Thiết kế kế hoạch bài dạy
KẾ HOẠCH BÀI DẠY THEO CHỦ ĐỀ :

TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM
NGỮ VĂN 10 (9 tiết)
A. MỤC TIÊU
Sau khi kết thúc bài học, HS có thể:
1.Phẩm chất
- Giáo dục học sinh biết yêu mến, tự hào về vẻ đẹp của văn học dân tộc, vẻ đẹp
của những phẩm chất làm người và cách đối nhân xử thế của nhân dân ta.
2. Năng lực
+ Năng lực chung:
- Năng lực tự chủ và tự học: đọc, tìm hiểu văn bản; tìm kiếm các nguồn tư liệu
liên quan (tranh ảnh, video, bài viết,... ); huy động những hiểu biết của bản thân
(nếu có) về những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện dân gian (truyền
thuyết, truyện cổ tích, truyện cười…)
- Năng lực giao tiếp và hợp tác: chia sẻ nguồn tư liệu và trải nghiệm của cá
nhân; thảo luận nhóm; thuyết trình; đối thoại với giáo viên và bạn học về các vấn
đề của bài học.
- Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: xử lí các tình huống được đặt ra trong
bài học.
- Phát triển năng lực số nhằm đa dạng hóa hình thức học tập, phát triển kĩ năng
chuyển đổi số nhằm nâng cao khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề
thực tiễn.
+ Năng lực đặc thù:
* Đọc:
- Đọc diễn cảm theo đặc trưng thể loại
- Đọc lồng vai hoặc phân vai
- Tóm tắt được văn bản một cách ngắn gọn
- Biết đọc hiểu văn bản thuộc các thể loại truyện cổ tích, truyền thuyết, truyện
cười.
- Nhận biết được một số yếu tố của truyện cổ tích, truyền thuyết, truyện cười
như cốt truyện, nhân vật, lời người kể chuyện và lời nhân vật.

- Nêu được bài học về cách nghĩ và cách ứng xử của cá nhân do văn bản gợi ra.
* Viết:
22


- Biết thiết kế được một văn bản tự sự dân gian Việt Nam.
- Biết xây dựng kịch bản về một truyện dân gian đã học.
- Viết lại kết thúc truyện.
- Biết thiết kế nội dung thuyết trình trên phần mềm Power Poiwt.
* Kĩ năng nói và nghe:
- Kể lại được truyện cổ tích, truyền thuyết, truyện cười một cách sinh động,
biết sử dụng các yếu tố hoang đường kì ảo để tăng tính hấp dẫn khi kể.
- Nhập vai một nhân vật kể lại chuyện.
- Biết thuyết trình về một vấn đề văn hóa, lịch sử được nhắc đến trong các văn
bản được học.
- Tóm tắt được nội dung trình bày của người khác.
- Nói nghe tương tác : biết tham gia thảo luận trong nhóm , biết đặt câu hỏi và
trả lời, biết nêu một vài đề xuất dựa trên các ý tưởng được trình bày trong quá trình
thảo luận.
B. BẢNG MƠ TẢ CÁC MỨC ĐỘ ĐÁNH GIÁ CHỦ ĐỀ:
“TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM” THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC
ĐỌC – VIẾT – NĨI – NGHE
Vận dụng
Nhận biết

Thơng hiểu
Vận dụng

-Nêu thông tin về
văn bản.


– Đọc, kể diễn cảm
truyện dân gian. ( HS
tự đọc ở nhà, quay
– Hiểu đặc điểm của thể
video)
loại truyện
- Đọc phân vai. (Thực
hiện ở lớp)

– Liệt kê các nhân
vật trong truyện.

– Chia nhân vật theo
từng tuyến và lí giải
thái độ của nhân dân

– Khái quát giá trị nội
dung, ý nghĩa của
truyện dân gian.

Vận dụng cao
- Đọc (kể) sáng
tạo truyện dân
gian
- Đọc lồng vai.
( HS tự đọc ở
nhà, quay
video)


-Trình bày
những quan
điểm riêng, phát

23


– Liệt kê được
những chi tiết nghệ
thuật quan trọng
liên quan đến từng
nhân vật.

với các tuyến nhân vật
đó.

hiện sáng tạo về
văn bản.

– Thấy được mối liên
– Lý giải thái độ, quan
hệ giữa thế giới thực
điểm thẩm mĩ, ước mơ,
và thế giới nghệ thuật
khát vọng của nhân dân
được khắc họa trong
trong truyện dân gian.
truyện kể.

– Tự đọc và

khám phá giá trị
của một văn
bản mới cùng
thể loại

-Phân biệt được các
loại truyện dân gian

-Phân tích bối
cảnh
(khơng gian và
thời gian) sinh
thành, biến đổi,
diễn xướng của
truyện dân gian
-Phân biệt tự sự
trong văn học
dân gian và tự
sự trong văn
học viết.
-Khái quát ảnh
hưởng của văn
học dân gian
đến văn học
viết
-Kết nối văn
hóa dân gian,
văn học dân
gian với thực
tiễn hiện nay để

rút ra bài học
cho bản thân và
những người
xung quanh.

24


Câu hỏi định tính, định lượng

– Câu hỏi trắc nghiệm khách quan ( về đặc
điểm, thể loại, chi tiết nghệ thuật…)
– Câu tự luận trả lời ngắn (lý giải, phát hiện,
nhận xét, đánh giá…)
– Phiếu quan sát làm việc nhóm ( trao đổi,
thảo luận về các giá trị của văn bản,…)

Bài tập thực hành
– Hồ sơ ( tập hợp các sản phẩm thực
hành)
– Đọc diễn cảm; kể chuyện sáng tạo;
trình bày cảm nhận, kiến giải riêng của
cá nhân.
-Bài tập dự án (Chuyển thể kịch bản,
đóng vai, nghiên cứu so sánh tác phẩm,
nhân vật theo chủ đề)
-Bài trình bày, thuyết trình về giá trị, nội
dung ý nghĩa của truyện, về
– Sưu tầm tư liệu, tranh ảnh, tư liệu và
dị bản.

–Nhập vai một nhân vật kể lại chuyện,
viết lại kết thúc truyện,…

C. CÂU HỎI/ BÀI TẬP MINH HOẠ
Văn bản: “ Chiến thắng Mtao – Mxây”
Nhận biêt

Thông hiểu

Vận dụng

Vận dụng cao

ĐỌC

1. Khởi động

- Chia sẻ bằng lời cảm
- HS trình chiếu sản nhận của em về vùng đất
phẩm đã chuẩn bị và con người nơi đây?
trước về thiên nhiên,
con người, văn hóa
Tây Nguyên
2. Hình thành kiến
thức
* Hoạt động 1: Tìm
hiểu chung

25



×