Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

(TIỂU LUẬN) môn học NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG về LUẬT dân sự, tài sản và THỪA kế BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA tài sản và QUYỀN đối với tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.23 KB, 14 trang )

MÔN HỌC: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI
SẢN VÀ THỪA KẾ
BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI
TÀI SẢN GIẢNG VIÊN: ĐẶNG THÁI BÌNH

DANH SÁC
STT
1
2
3
4
5
6

HỌ TÊN
Nguyễn Trung Hiếu
Võ Hoàng Hải
Nguyễn Đại Nghĩa
Võ Bá Đăng Quang
Hồ Thị Thảo Vy
Nguyễn Thanh Vũ


BÀI TẬP THẢO LUẬN


Khái niệm tài sản
Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh
hoạ về giấy tờ có giá.
Luật Dân sự 2015 khơng định nghĩa giấy tờ có giá là gì mà chỉ ghi nhận giấy tờ
có giá là một loại tài sản. Giấy tờ có giá có thể hiểu là giấy tờ xác địch quyền tài


sản của một chủ thể nhất định, trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong các
giao dịch dân sự. Tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ( sửa đổi, bổ
sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP) có quy định: “ Giấy tờ có giá bao gồm cổ
phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ
quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và
được phép giao dịch.
VD: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
cơng ty, kỳ phiếu, cổ phiếu…
Trong thực tiễn xét xử, “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời khơng?
Trong thực tiễn xét xử, “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” khơng được xem là giấy tờ có giá. Điều này được thể hiện rõ qua
khoản 2 công văn 141/TANDTC-HĐXX: “Theo các quy định trên đây thì các giấy
chứng nhận quyền sở hữu tài sản ( Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chững
nhận quyền sở hữu nhà ở, giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…)
không phải là “giấy tờ có giá” quy định tại Điều 163 của Bộ luật dân sự năm 2005”
Đoạn minh chứng trong quyết định số 06:
Theo điều 105 BLDS năm 2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2.Tài sản bao gồm bất động sản và động sản.
Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương
lai”; Điều 115 BLDS năm 2015: “ Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền,
bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
các quyền tài sản khác”. Căn cứ khoản 16 Điều 3 Luật Đất Đai năm 2013: “ Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở,
tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Như vậy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn
bản chứng quyền, không phải là tài sản và1khơng được xem là loại giấy tờ có giá.



Trong thực tiễn xét xử, “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà ” có là tài sản không? Quyết định số 06 và bản ản số 39 có
cho câu trả lời khơng? Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử, “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” không được xem là tài sản.
Quyết định trên thể hiện điều đó qua dòng kết luận: “Như vậy, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn
bản chứng quyền, không phải là tài sản và không được xem là loại giấy tờ có giá”.
Sở dĩ “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
không là tài sản vì nó khơng là vật, tiền, giấy tờ có giá đồng thời cũng không phải là
quyền tài sản (khi so sánh với quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS) mà nó chỉ là
văn bản chứng quyền của các cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm bảo vệ quyền
về tài sản của chủ thể. Trường hợp nếu chủ thể bị mất giấy chứng nhận thì có thể
u cầu cấp lại do khơng làm ảnh hưởng gì đến quyền của chủ sỡ hữu.
Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn
từ khái niệm tài sản( và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước
ngoài);
Hướng giải quyết của thực tiễn xết xử liên quan đến “ giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” chưa thoả đáng nếu nhìn từ khái niệm tài
sản do:
Thứ nhất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới một hình thức vật
chất nhất định, thậm chí có hình dạng cụ thể ( là tờ giấy), nằm trong khả năng
chiếm hữu của con người (có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không thể tham gia vào giao dịch trao đổi mua bán không làm mất đi bản chất tài
sản của nó. Thực tế có những loại tài sản mà Nhà nước cấm lưu thơng, chẳng hạn
vũ khí qn dụng, trang thiết bị, kỹ thuật,…

Thứ hai, việc coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản,
dẫn tới nhiều hệ quả khơng giải thích được về mặt lý luận và thực tế, đồng thời
nhận thức này làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người sử dụng đất. Cụ thể,
theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, quyền sở hữu và từng nội dung
riêng lẻ của quyền sở hữu là quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử
dụng đất đối với loại giấy tờ này.
Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản khơng? Vì sao?
2


Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà không phải là tài sản. Vì nó khơng là vật, tiền, giấy tờ có giá đồng
thời cũng khơng phải là quyền tài sản mà nó chỉ là tờ cơng chứng của các cơ quan
có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền lợi về tài sản của chủ thể. Trường hợp nếu chủ
thể bị mất giấy chứng nhận thì có thể u cầu cấp lại. Nó khơng làm ảnh hưởng gì
đến quyền lợi của chủ sỡ hữu
Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sỡ hữu nhà”.
Hướng giải quyết của Tồ án cịn chưa sát với vụ việc và mức nộp phạt mà bà
Nguyễn Thị Thuỷ T phải đóng khơng hợp lý. Với nội dung bản án mà bên ơng B
khởi kiện, gia đình ơng B không hề quen biết với bà T. Sau khi được UBND lên để
giải quyết việc tranh chấp thì gặp bà T lần đầu tiên.
Lý do đưa ra là tại sao Giấy chứng nhận sử dụng đất của nhà ông Võ Văn B tại
sao lại ở trong tay bà T được? Năm 2012 nhà ông B và bà H sửa nhà nên chuyển
hết đồ đạc trong nhà ra sân, làm sao mà bà T vào được nhà ơng B? Ai đó đã lấy và
đưa cho bà T? Với những lời khai, chứng cứ đủ để nhận thấy đây là một vụ lừa đảo,
trộm cắp của bà T.
Do bên ông B không yêu cầu Cơ quan chức năng điều tra, đi sâu vào tình tiết.
Gia đình ơng B xuất thân có lẽ là những người nơng dân hiền lành, mục đích khởi

kiện là chỉ lấy lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không đồng ý trả số tiền
là 120.000.000 đồng.
Việc quyết định của Toà án đưa ra đối với bà T là chưa thoả đáng và cần phải
tăng khung hình phạt đối với hành vi này.
Bitcoin là gì?

Bitcoin( ký hiệu: BTC, XBT, ฿, ) là một loại tiền mã hoá, được phát minh bởi Satoshi Nakamoto dưới dạng phần mềm mã nguồn mở từ 2009. Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng
thiết bị kết nối Internet mà không cần thơng qua một tổ chức tài chính trung gian nào. Bitcoin có cách hoạt động khác hẳn so với các loạin tiền tệ điển hình: Khơng có một ngân hành trung ương nào quản lý nó và hệ thống hoạt động dựa trên một giao thức mạng ngang hàng
trên Internet. Sự cung ứng Bitcoin là tự động, hạn chế, được phân chia theo lịch trình định sẵn dựa trên các thuật tốn. Bitcoin được cấp tới các máy tính “đào” Bitcoin để trả công cho việc xác minh giao dịch Bitcoin và ghi chúng vào cuốn sổ cái được phân tán trong mạng
ngang hàng - được gọi là blockchain. Cuốn sổ cái này sử dụng Bitcoin là đơn vị kế tốn. Mỗi bitcoin có thể được chia nhỏ tới 100 triệu đơn vị nhỏ hơn gọi là satoshi. Bitcoin là


3


loạn tiền mã hố điển hình nhất, ra đời đầu tiên, và được sử dụng rộng rãi nhất
trong thương mại điện tử.
Theo Tịa án, Bitcoin có phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
Theo Điều 105 BLDS 2015 về tài sản thì:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2.
Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể
là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Theo Điều 16,17 Luật ngân hàng nhà nước 2010 quy định về đơn vị tiền,
bitcoin không được xem là đơn vị tiền của nhà nước Việt Nam.
Điểm a khoản 2 Điều 6 Luật Ngân hàng nhà nước quy định về ngoại tệ, bitcoin
không được xem là ngoại tệ và cũng không phải là đối tượng của ngoại hối vì
bitcoin khơng phải đồng tiền của bất cứ một quốc gia nào trên thế giới hiện nay.
Vì vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, bitcoin không phải là đơn vị tiền,
cũng không phải là ngoại tệ.


Pháp luật nước ngồi có coi Bitcoin là tài sản khơng? Nếu có, nêu hệ
thống pháp luật mà anh/chị biết.
Pháp luật nước ngồi có một số nước coi Bitcoin là tài sản
Ví dụ:
Nigeria: Ngân hàng Trung ương Nigeria (CBN) và Tổng công ty Bảo hiểm
tiền gửi Nigeria (NDIC) để xem xét khả năng đất nước áp dụng công nghệ thúc đẩy
bitcoin và các loại tiền kỹ thuật số khác-blockchain.
Mauritius: Ủy bản dịch vụ Tài chính Mauritius coi tiền điện tử như được quy
định như một Tài sản Kỹ thuật số theo Đạo luật Dịch vụ Tài chính 2007 và mặc dù
nó cảnh báo các nhà đầu tư rằng họ khơng được bảo vệ bởi bất kỳ thỏa thuận bồi
thường theo luật định nào, nhưng chúng là hợp pháp.
Một số nước khác cũng coi Bitcoin là tài sản: Angola, Nam phi, Zimbabwe,
Namibia, Hoa Kỳ, Mexico,...

Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong
mối quan hệ với khái niệm Tài sản ở VIệt Nam.
-

Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài

sản ở Việt Nam khi không coi Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt Nam là hợp lý.
Lý do là vì tiền ảo phát triển quá nhanh và q khó để kiểm sốt, pháp luật Việt
4


Nam cũng chưa có quy định vể việc sử dụng đồng tiền Bitcoin, Ngân hang Nhà
nước Việt Nam hiện tại cũng chưa hề chấp nhận tiền ảo như đồng tiền sử dụng.
-


Vì tiền ảo phát triển q nhanh và khơng thể kiểm sốt nên hiện tại Bitcoin

nằm ngồi thẩm quyền quản lý của ngân hàng Nhà nước. Khi mở tài khoản Bitcoin,
chủ sở hữu sẽ không cần phải khai báo danh tính, nghề nghiệp, nơi ở hay thu nhập
hàng tháng. Chỉ cần một vài cú click chuột để tạo nên địa chỉ ví trên hệ thống
(wallet address). Địa chỉ đó là một dãy ký tự xếp ngẫu nhiên tương tự như số tài
khoản ngân hàng chúng ta, và chúng ta có thể gửi nó cho bất kì ai và kêu họ chuyển
tiền vào đó.
-

Vì thế những giao dịch ngầm chúng ta khó kiểm sốt được cho những hoạt

động của tội phạm rửa tiền, trốn thuế, chuyển tiền bất hợp pháp, thanh toàn, tài trợ
chủ quyền quốc gia về phát hành tiền tệ sẽ bị xâm phạm, ảnh hưởng đến hiệu quả
điều hành chính sách tiền tệ, pháp luật nước ta đã thực hiện những chính sách quản
lý riêng. Tuy nhiên, mức độ phủ sóng của Bitcoin hiện vẫn cịn những vấn đề Nhà
nước chưa kiểm soát được.

Quyền tài sản là gì?
Theo quy định tại Điều 115 BLDS 2015 thì quyền tài sản được quy định cụ
thể như sau:
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.
-

Điều 105 BLDS 2015 quy định tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài

sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản, Bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.


Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản
là quyền tài sản khơng?
Hiện tại chưa có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài
sản là quyền tài sản. Điều 115 BLDS 2015 chỉ liệt kê các quyền tài sản bao gồm
quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác.Tại khoản 7 Điều 6 Thơng tư số 08/2018/TT-BTP ngày
20/06/2018 cũng có liệt kê một số quyền tài sản và trong đó cũng khơng hề nhắc
đến quyền thuê, quyền mua tài sản. Tuy nhiên (đối với quyền thuê, mua nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước) đã có án lệ là quyết định số 05/2018/DS-GĐT xác định quyền
thuê, mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là5quyền tài sản.


Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án Nhân dân tối cao
theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Đoạn [1] phần NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN của quyết định số 05 cho thấy Tòa
án Nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản: “…Như vậy, cụ
T là người có cơng với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63 đường
B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995,
cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại
Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T
là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ
T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ
T.”

Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của TAND tối cao trong
quyết định số 5 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm là tài sản).
Theo khoản 1 điều 105 BLDS 2015 có quy định (Điều 172 BLDS 1995): “1. Tài
sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.”
Mà theo hướng giải quyết của TAND tối cao thì quyền thuê, quyền mua nhà của

nhà nước là quyền tài sản. Theo BLDS 2015 thì quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền. Căn cứ vào hình thức thực hiện quyền chủ thể thì quyền tài sản trong
BLDS 2015 có thể chia làm 2 nhóm là quyền đối vật và quyền đối nhân.
Trong đó quyền đối nhân là quyền của chủ thể này đối với chủ thể khác, được
thiết lập trong mối quan hệ giữa hai chủ thể của quan hệ pháp luật. Mối quan hệ
giữa hai người này còn gọi là quan hệ nghĩa vụ. Bản chất quyền đối nhân là quyền
của chủ thể (chủ thể có quyền) được yêu cầu một chủ thể khác (chủ thể có nghĩa
vụ) phải thực hiện một hành vi nhất định (nhằm thoả mãn một nhu cầu gắn liền với
một lợi ích vật chất của mình), nói cách khác quyền của chủ thể có quyền trong
quan hệ nghĩa vụ chỉđ ược thỏa mãn thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ
thể có nghĩa vụ.
Quyền thuê, quyền mua cũng cần được thiết lập giữa hai bên là bên người thuê,
người mua (chủ thể có quyền) và bên người cho thuê, người bán (chủ thể có nghĩa
vụ). Bên thuê, mua có quyền yêu cầu bên cho thuê, bán phải cung cấp dịch vụ,
thông tin dịch vụ... và bên cho thuê, bán có nghĩa vụ phải thực hiện yêu cầu của bên
kia. Do đó quyền thuê, quyền mua là quyền đối nhân.
6


Ngồi ra, quyền th, quyền mua cịn là quyền đối nhân mang nội dung kinh tế,
trị giá được bằng tiền nên đó là quyền tài sản.
Từ các phân tích trên, việc TAND tối cao xác định quyền thuê, quyền mua là
quyền tài sản trong mối quan hệ khái niệm tài sản là rất hợp lý, chính đáng.

Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Tịa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30
năm trong Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao: Gia đình chị Nhũ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã
nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và
nộp tiền thuê nhà cho ơng Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh
sống từ năm 1954 và đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tịa án u cầu
chị Vân trả nhà là khơng có căn cứ vì thực tế cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu nhà
đất nêu trên. Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Dân sự 2015 (bắt đầu có hiệu lực
từ ngày 01/01/2017), chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản mà chị Vân đã cho thấy
khẳng định trên lời khai rằng gia đình chị ở đây từ rất lâu và việc xác định xác minh
ông Hải thuê nhà của cụ Hảo từ năm 1954 hay th nhà của ơng Chính từ năm 1968
đến khi cụ Hảo khởi kiện vào năm 2004 thì chị Vân vẫn đang chiếm hữu Nhà số 2
Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội và ước tính cho thấy con số chênh
lệch là khoảng hơn 40 năm và nhiều hơn rất nhiều so với điều luật đề ra nên khẳng
định tòa án là hợp lý và đúng lẽ.
Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết
suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tịa án?
Tịa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp
trên 30 năm trong Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm
là chiếm hữu ngày tình, liên tục, cơng khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật
dân sự xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về về
tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời hạn
mười năm đối với động7 sản, ba mươi năm đối với bất động sản


thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu. Từ định
nghĩa chiếm hữu ngay tình và việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin
rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu, xét từ tình huống trên chị Vân
có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ơng

Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ơng
Chính cũng khơng xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ơng Chính quản lý
căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bát từ năm
1954. Trên mặt nhận thức thì chị rằng rõ bản thân mình đã có quyền sở hữu thật sự
đối với căn nhà hay chưa và chị chỉ nhớ lại câu chuyện trước đây về giao dịch giữa
con cụ Hảo và cha của mình. Tịa án đã khẳng định quan điểm này dựa trên cơ sở
chị Vân đã tự ý bán cho vợ chồng chị Lan, anh Sơn là chị tin rằng bản thân mình có
quyền chiếm hữu với căn nhà đang có và em cảm thấy quyết định tịa án chưa được
thỏa đáng mà chỉ dựa trên tình huống một chiều.
Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án đã khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tịa án?
Tịa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp
trên 30 năm trong Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30
năm là chiếm hữu ngày tình, liên tục, cơng khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247
Bộ luật dân sự xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được
lợi về về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai
trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì
trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu. Dựa vào khoản
1 Điều 182 BLDS năm 2015: Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện
trong một khoảng thời gian mà khơng có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó
hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tịa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi
tài sản được giao cho người khác chiếm hữu. Mà từ thực tế cho thấy nhà chị Vân ở
đây trong suốt quá trình tranh chấp từ lời khai nguyên đơn 1975 đến nay và việc chị
Vân chiếm hữu liên tục là dựa trên hoàn cảnh xảy ra đúng với thực tiễn nên khẳng
định của Tòa án nêu trên là phù hợp.
Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án đã khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết

suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này8của Tòa án?


Tịa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm trong Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội
đồng thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao: Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên
30 năm là chiếm hữu ngày tình, liên tục, cơng khai theo quy định tại khoản 1 Điều
247 Bộ luật dân sự xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người
được lợi về về tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng
khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản
thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu. Dựa vào 1
Điều 183 BLDS 2015: Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một
cách minh bạch, không giấu giiếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính
năng cơng dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính
mình. Chị vân đã trực tiếp ở lại ngôi nhà sau khi cha chị mất và coi đây là tài sản
của chị đang chiếm hữu từ trước đến nay. Chị Vân cũng đã có tu sửa hồn thiện lại
căn nhà của mình nên Tịa án khẳng định là phù hợp.
Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo khơng
cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?
Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu
nhà đất có tranh chấp trong Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Mặc dù phía ngun đơn khai có địi
nhà đối với gia đình nhà chị Vân từ sau năn 1975 nhưng khơng có tài liệu chứng
minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy ban nhân dân phường Hàng Bố năm 2001);
đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là
khơng có căn cứ vì thực tế cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Căn
cứ vào khoản 1 điều 247 Bộ luật dân sự quy định như sau: Người chiếm hữu, người
được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai
trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì

trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này. Do cụ Hảo đã chuyển giao tài sản cho con mình là
ơng Nguyễn Đắc Chính là chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho con mình, sau đó
cho nhà chị Vân th nhưng giấy tờ đã mất tuy vậy, thời gian chị Vân đã chiếm hữu
đã trên 30 năm đối với bất động sản là chiếm hữu ngay tình, liên tục và cơng khai
đúng theo luật quy định và nếu gia đình cụ Hảo có kiện thì khơng có đủ chứng cứ
cho thấy nhà ở đây thuộc sở hữu chị Vân nhưng cũng không có bằng chứng chúng
minh rằng cụ Hảo hiện nay cịn quyền chiếm hữu đối với căn nhà, Tòa án dựa trên
9


thực tại khách quan thấy chị Vân đã ở đây qua nhiều thế hệ và cụ Hảo đã khơng
cịn quyền sở hữu nhà đất có tranh chấp là hợp tình hợp lý.
Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?
Theo khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân sự 2015: Người chiếm hữu, người được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời
hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu
tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác
có liên quan quy định khác. Vì cụ Hải đã thuê nhà cụ Hảo nên trách nhiệm chị Vân
phải trả lại nhà cho cụ Hảo nếu có cụ có kiện trước 30 năm nhưng thời hiệu đã hết
do chị đã chiếm hữu và sống ở dây hơn 40 năm và chị có quyền hưởng quyền lợi là
quyền sở hữu đối với nhà dất có tranh chấp và đồng thời miễn trừ nghĩa vụ phải trả
lại nhà cho cụ Hảo.

Chuyển rủi ro đối với tài sản
Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. (Điều 162

BLDS 2015)
Đối với hợp đồng mua bán tài sản thì bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước
khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời
điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
(Điều 441 BLHS 2015)
Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Tại thời điểm cháy chợ, bà Dung là chủ sở hữu số xồi. Vì bà Dung đã mua ghe
xoài của bà Thuỷ và bà Dung cũng đã nhận ghe xồi trước khi cháy chợ.
Bà Dung có phải thanh tốn tiền mua ghe xồi trên khơng? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Bà Dung phải thanh tốn tiền mua ghe xồi vì khi bà Dung mua thì quyền sở
hữu ghe xồi đã được chuyển từ bà Thuỷ sang bà Dung vì vậy bà Dung phải chịu
rủi ro đối với tài sản của mình và vẫn phải thanh tốn tiền mua xồi cho bà Thuỷ.
(Điều 441 BLHS 2015)
10


Danh mục tham khảo
Bộ luật dân sự 2015 số 91/2015/QH13
Bộ luật dân sự 2005 số 33/2005/QH11
06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa
Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện
Long Hồ tỉnh Vĩnh Long
Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến
Tre
Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao
Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao


11



×