Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Tiểu luận lớp CCLLCT, môn văn hóa học, Văn hóa học là khoa học liên ngành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 91 trang )

Văn hóa học là khoa học liên ngành

I. Lịch sử ra đời văn hóa học
Sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa ở thế kỷ XX và vai trị của nó ngày
càng tác động to lớn trong đời sống hiện đại, đang đặt ra những vấn đề cấp
bách cho nghiên cứu khoa học về văn hóa. Việc đẩy mạnh nghiên cứu Văn hóa
học đã dẫn đến những thay đổi lớn trong nhận thức đầy đủ và tồn diện về văn
hóa.
Văn hóa học là một bộ mơn khoa học tương đối mới, nó nghiên cứu văn
hóa nói chung và các hiện tượng văn hóa riêng biệt như văn hóa gia đình, tơn
giáo, nghệ thuật, lối sống, chính trị, kinh tế, giáo dục v.v..Theo quan niệm của
V.M. Rodin - nhà văn hóa học Nga cho rằng, Văn hóa học là một khoa học
nhân văn, từ đó tạo ra nghịch lý là khơng có một Văn hóa học thuần tuý. Có
bao nhiêu nhà Văn hóa học thì cũng có bấy nhiêu lý thuyết văn hóa, mỗi
khuynh hướng Văn hóa học đều quy định cách tiếp cận về đối tượng của mình.
Mặc dù vậy, các nhà khoa học về văn hóa đều hướng đến việc xây dựng tri
thức Văn hóa học theo hướng tiếp cận liên ngành, cách tiếp cận này có thể
giao tiếp được các ngành học với nhau trong quá trình nghiên cứu. Có thể nói,
cùng với triết học, sử học, các khoa học về văn hóa và phương pháp luận khoa
học, Văn hóa học thể hiện với tư cách là cơ sở của các khoa học nhân văn.
Người đầu tiên mở đường cho nghiên cứu khoa học về văn hóa có thể kể
đến Edward B.Tylor với tác phẩm nổi tiếng “Văn hóa nguyên thủy”. Cho đến
gần 40 năm sau, từ khi cuốn sách “Văn hóa nguyên thuỷ” ra đời, năm 1909
thuật ngữ Văn hóa học mới được khẳng định bởi Willhelm Ostwald – nhà
khoa học và triết học Đức. Thuật ngữ này dùng chỉ cho môn học mới mà ông
gọi là “Khoa học về các hoạt động văn hóa, tức là hoạt động đặc biệt của con
người”.
Nhưng người sáng lập thực thụ văn hóa học lại chính là Leslie Alvin White
(1900 – 1975) – nhà Nhân học Hoa Kỳ nổi tiếng với tồn bộ cơng trình lý luận
về sự tiến hóa của văn hóa và với nghiên cứu khoa học về văn hóa mà ơng gọi
1




là Văn hóa học. Trong các tác phẩm: “Khoa học về văn hóa” (The Science of
Culture. 1949),

và “Khái niệm văn hóa” (The Concept of Culture. 1973),

L.A. White đã đặt cơ sở cho Văn hóa học với tư cách là một khoa học độc lập,
lý giải văn hóa như một hệ thống toàn vẹn, làm rõ được phạm vi nghiên cứu,
nguyên tắc và đối tượng nghiên cứu Văn hóa học.
Khi nói về bộ mơn Văn hóa học, các nhà khoa học về văn hóa cho rằng, có
ba định hướng nhận thức cơ bản là: Văn hóa học triết học, Văn hóa học lịch sử
và Văn hóa học lý thuyết. Như vậy, ngày nay trong văn hóa học, người ta có
thể phân ra:
- Triết học văn hóa( Văn hóa học đại cương)
- Lịch sử văn hóa
- Các khoa học về văn hóa
Trong lĩnh vực nghiên cứu, các nhà văn hóa học thường hay đặt đối lập
giữa ba lĩnh vực nhận thức văn hóa học. Theo E.A.Ơ-rơ-lơ-va đặt đối lập nhận
thức lý luận về văn hóa khơng chỉ với triết học mà với cả lịch sử. Ông cho
rằng: Tiếp cận Triết học nghiên cứu văn hóa thường mang tính chất tiên
nghiệm (siêu hình) và khơng được kiểm tra bằng thực nghiệm, cịn tiếp cận Sử
học lại bị hạn chế bởi sự miêu tả các sự kiện và không vượt ra khỏi cấp độ giải
thích.
Vì thế, trong các khoa học về văn hóa, cho đến nay, đã có sự đóng góp của
nhiều mơn học khác nhau như: dân tộc chí, dân tộc học, nhân học, xã hội học,
tâm lý học, ngôn ngữ học, ký hiệu học v.v.. mà trước hết và chủ yếu là hai
môn: Nhân học và Xã hội học. Tất cả các mơn học này, từ nhiều khía cạnh
khác nhau, chúng nghiên cứu các hiện tượng văn hóa cũng bằng nhiều cách
tiếp cận khác nhau.

Như vậy, Văn hóa học là một khoa học nghiên cứu phức hợp về văn hóa.
Trong thực tế, đã trình bày trên đây có nhiều bộ mơn khoa học cùng nghiên
cứu văn hóa dưới nhiều góc cạnh khác nhau, song khơng loại trừ nhau, từ đó
Văn hóa học đã ra đời. Có thể nói, Văn hóa học được xem là mơn học mang
tính xun/ liên ngành – một khoa học tích hợp bao qt nhiều bộ mơn nghiên
2


cứu chuyên biệt về văn hóa. Đây là một phương hướng nghiên cứu lý luận bao
gồm phương pháp luận và bộ máy phân tích của Triết học văn hóa, Lịch sử
văn hóa, Nhân học văn hóa và Xã hội học văn hóa.
Khác với phần lớn các ngành học thuộc khoa học xã hội và nhân văn
nghiên cứu mọi lĩnh vực trong hoạt động đời sống của con người, được phân
biệt theo đối tượng đặc thù của hoạt động như: kinh tế, chính trị, quân sự, giáo
dục, nghệ thuật v.v.. và các khoa học khác, Văn hóa học thuộc về nhóm các
khoa học nghiên cứu với tư cách khách thể tất cả các hình thức và thể loại
thực hành, có mục đích trong hoạt động sống của con người. Nhóm này bao
gồm các khoa học Lịch sử, Tâm lý học Xã hội học, Nhân học v.v...
Văn hóa học Nga thường chia Văn hóa học ra thành Văn hóa học cơ bản
(lý thuyết) nghiên cứu văn hóa với mục đích nhận thức Lý luận và Lịch sử về
hiện tượng đặc biệt này(hiện tượng tinh thần), qua đó tạo lập hệ thống phạm
trù và phương pháp nghiên cứu v.v...và Văn hoá học ứng dụng định hướng
việc sử dụng các kiến thức cơ bản về văn hóa với mục đích dự báo, lập dự án
và điều chỉnh các q trình văn hóa cấp thiết có trong thực tiễn. Ở đây, trong
khn khổ Văn hóa học cơ bản lại chia ra những khuynh hướng tuỳ theo đối
tượng đã định hình nhiều hay ít như:
- Nhân học văn hóa và xã hội nghiên cứu văn hóa như các hiện tượng xã
hội đặc biệt và nghiên cứu tính vi mơ năng động xã hội trong sự hình thành và
hoạt động của các hiện tượng văn hóa.
- Văn hóa học lịch sử nghiên cứu tính năng động vĩ mơ trong sự hình

thành và hoạt động của các “cơng ước xã hội” trong hoạt động sống tập thể
của con người, cũng như nghiên cứu cách phân loại văn hóa - lịch sử các cộng
đồng người.
- Nhân học tâm lý xem xét cá nhân con người như “sản phẩm”, “người tiêu
thụ”và“người sản xuất” văn hóa, cũng như nghiên cứu tâm lý học các động cơ
văn hóa - xã hội, sự tự đồng nhất và tác động lẫn nhau giữa con người.
- Ký hiệu học văn hóa nghiên cứu các đặc điểm và chức năng ký hiệu –
giao tiếp của các hiện tượng văn hóa, sử dụng các phương pháp của ngôn ngữ
3


học và ngữ văn học để “giải mã” và tái cấu trúc các khách thể văn hóa với tư
cách là các văn bản mang ý nghĩa
Trong mỗi bộ môn của Văn hóa học cơ bản (lý thuyết) có thể đưa ra vài
cấp độ nhận thức và tổng kết tư liệu như cấp độ lý luận đại cương, cấp độ tiểu
hệ thống khách thể, cấp độ cụ thể hóa (các hình thức có tính khn mẫu,
chuẩn mực), cấp độ các ngun mẫu riêng lẻ của văn hóa. Trong Văn hóa học
ứng dụng cũng hình thành các hướng nghiên cứu như: quản lý văn hóa, lập dự
án văn hóa - xã hội, hoạt động bảo tồn văn hóa, phục hồi văn hóa - xã hội,
cơng tác giáo dục văn hóa và thời gian rỗi, công tác bảo tàng, thông tin - thư
viện, cơng tác lưu trữ v.v..
Khác với Văn hóa học lý thuyết thuần t, các ứng dụng có tính nghiên cứu
văn hóa được xem xét trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động chun mơn nào của
con người, ngồi các mục đích và cơng nghệ đạt kết quả thực dụng chủ yếu,
cịn tồn tại một hệ thống các quy tắc và hiệu chỉnh có tính phi thực dụng. Từ
đó xác định các hình thức được xã hội chấp nhận để thực hiện hoạt động nào
đó và các kết quả của nó, xác định các ảnh hưởng mang giá trị xã hội của mọi
hoạt động, xác định đạo đức chuyên môn và truyền thống nghề nghiệp, các
tiêu chí của tính chuyên nghiệp, các ngôn ngữ trao đổi thông tin nghiệp vụ
v.v... Tổng thể các đặc điểm này tạo nên một hiện tượng như là “văn hóa nghề

nghiệp” trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của các chuyên ngành như: văn
hóa kinh tế, văn hóa quản lý, văn hóa du lịch, văn hóa tổ chức....v.v .(1)
Ngoài định nghĩa miêu tả theo quan điểm của Tylor, ngày nay, Văn hóa
học gắn liền với tên tuổi của L.A. White – nhà nhân học người Hoa Kỳ nổi
tiếng với những cơng trình lý luận văn hóa và với nghiên cứu khoa học về văn
hóa mà ơng gọi là “Văn hóa học”. L.A. White trong định nghĩa về văn hóa của
mình hướng tới cách giải thích vật chất – vật thể. Văn hóa theo ơng, là lớp vật
thể và các hiện tượng phụ thuộc vào khả năng “tượng trưng hóa” của con
người được xem xét trong một văn cảnh nhất định. Văn hóa đối với ơng là
hình thức tổ chức hoàn chỉnh đời sống của con người, được xem xét từ góc
cạnh của lớp đặc biệt các vật thể và hiện tượng.
4


Ở bình diện lý thuyết chung, L.A. White đã xác định văn hóa học là “một
lĩnh vực nhân học”. Ơng định nghĩa văn hóa như là truyền thống ngồi thân
xác, trong đó biểu tượng đóng vai trị chủ đạo và hành vi biểu tượng là một
trong những đặc điểm chủ yếu của văn hóa. Ơng cịn nhấn mạnh, phải tách
văn hóa ra khỏi sự trừu tượng khơng nắm bắt được, khơng tồn tại một cách
siêu hình và nên thay thế nó bằng một đối tượng nghiên cứu là vật chất có thể
nhận thức được. Và Ơng đi đến kết luận: “Văn hóa là lớp các đối tượng và
hiện tượng phụ thuộc vào khả năng “tượng trưng hóa” của con người, lớp này
được xem xét trong văn cảnh thân xác con người”. (2)
Văn hóa học ln gắn liền với tên tuổi của L.A. White. Thậm chí người ta
nói đến “Văn hóa học của White” (Cultureology of White) hoặc gọi Văn hóa
học là “Lý luận của White” (Theory of White). L.A. White được mời viết mục
từ Văn hóa học trong bộ “Bách khoa thư quốc tế về các khoa học xã hội”
(Internationnal Eneyelopedia of the Social Science).
Trên thực tế, dù có nhiều hướng tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu văn
hóa, song quan niệm của các tác giả về những định nghĩa văn hóa khác nhau

này vẫn có một sự đồng thuận nào đó. Họ thống nhất với nhau ở chỗ, xem văn
hóa là cái làm phân biệt giữa người và động vật, và là cái đặc hữu chỉ có ở xã
hội người. Đương nhiên, họ nhất trí với nhau rằng, văn hóa khơng “kế thừa”
theo con đường sinh học mà phải qua con đường học thuật, đồng thời nó trực
tiếp gắn liền với các tư tưởng, tồn tại và được truyền đạt dưới hình thức biểu
tượng (Symbol). Đó là những phán đốn chung nhất về văn hóa mà các nhà
nghiên cứu thuộc mọi khuynh hướng khác nhau trong các khoa học xã hội và
nhân văn đều có thể chấp nhận.
II.. Văn hóa học là một mơn học liên ngành
Liên ngành là một khái niệm nói lên một thực tế diễn ra trong lý luận và
nghiên cứu khoa học nói chung cũng như trong văn hóa học nói riêng. Nó
được hiểu như là một cách tiếp cận hiện đại trong nghiên cứu khoa học và là
một sự phản ứng trước hiện tượng chun mơn hóa ngày càng cao trong
những chun ngành khoa học đã mang tính ổn định. Vì vậy, tính đa tầng của
5


các lĩnh vực khoa học đang đặt ra hiện nay ngày càng thu hút sự quan tâm của
các nhà khoa học trên thế giới.
Liên ngành cịn đóng một vai trị hết sức quan trọng trước sự đòi hỏi cần
phải quay về cách tư duy nguyên hợp, tổng hợp trước đây nhưng ở cấp độ cao
hơn. Bởi vì, ban đầu con người nhận thức thế giới một cách tổng hợp, tư duy
huyền thoại như là một đặc trưng, rồi sau đó, khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội không phân chia. Sau nhiều thế kỷ, tư duy nhân loại phát triển theo
hướng phân tích đã dẫn đến sự ra đời các ngành chuyên môn hẹp càng chuyên
sâu và chuyên biệt. Tư duy phân tích đã thể hiện tính ưu việt của nó. Song, thế
giới hiện thực dù tự nhiên hay xã hội lại chằng chịt các mối liên hệ biện chứng
và mang tính liên ngành, người ta khơng thể nhận thức thế giới một cách đơn
tuyến và siêu hình. Sự liên ngành trong khoa học hiện đại dựa trên nền tảng
phát triển cao của các khoa học phân tích đã ra đời. Đó chính là sự nghiên cứu

mang tính hợp đề.
J. Kokelmans – nhà triết học người Đức đã đưa ra một cách phân biệt các
thuật ngữ trong nghiên cứu khoa học hiện đại (phân loại mang tính hình thức)
như sau:
+ Ngành (hay bộ môn): Lĩnh vực tri thức hay là phạm vi nghiên cứu được
quy định bởi những phương pháp liên hợp nghiên cứu đối tượng.
+ Chuyên ngành: Lĩnh vực tri thức hay là phạm vi nghiên cứu mang tính
chuyên biệt ở phạm vi hẹp.
+ Đa ngành: Khái niệm chỉ q trình nghiên cứu trong đó ít nhất có hai
ngành hoặc hai khái niệm tham gia.
+ Liên ngành: Khái niệm để chỉ một khoa học nào đó, mà sự hoạt động
của nó có được là nhờ một hay nhiều khoa học khác. Trong ngành khoa học
này, người ta tìm ra được những vấn đề để giải quyết, mà kết quả của chúng
chỉ có thể đạt được là nhờ vào sự liên kết giữa các bộ phận của những chuyên
ngành đã ổn định trong một ngành khoa học mới. Ví dụ: ngôn ngữ học tâm lý,
phân tâm học tôn giáo, hoá sinh, lý sinh..v.v...

6


Cách giải thích sự khác biệt giữa các thuật ngữ trên đây của J. Kokelmans
hồn tồn mang tính hình thức. Nó khơng tạo ra được một thuật ngữ có tính
chính xác khoa học.
J. Mittelstrass – nhà khoa học người Đức đề nghị, nên xác định sự chun
ngành hóa đích thực là sự xuyên ngành. Các chuyên ngành phải định rõ đối
tượng và phạm vi nghiên cứu cho đến những vấn đề cần được giải quyết, mà
khơng cịn phụ thuộc vào cách lý giải của một chuyên ngành đơn lẻ. Ông định
nghĩa:“Sự xuyên ngành là làm cho các ngành riêng lẻ khơng cịn như nó vốn
có”.
Với định nghĩa này thì các khái niệm đa ngành, liên ngành và xuyên

ngành là những cấp độ và là những hình thức tham gia của nhiều chuyên
ngành khác nhau vào phương pháp nghiên cứu nào đó. Nhưng chỉ có sự xuyên
ngành mới đạt đến chất lượng cao của phương pháp mà ta gọi là phương pháp
liên ngành. Đó chính là sự hợp đề (Synthese). Sự liên ngành không chỉ là sự
bổ sung của những phương pháp luận, mà cịn là một ngành hay một chương
trình độc lập đối với việc cải tiến khoa học trong thực tiễn nghiên cứu mới. (3)
Có thể nói, liên ngành không phải là sự cộng lại của các ngành khoa học
với nhau, mà là sự tổng tích hợp các cách tiếp cận, các phương pháp nghiên
cứu của các chuyên ngành vào trong một ngành khoa học mới.
Vì vậy, để nghiên cứu các biểu thị văn hóa, bắt buộc người nghiên cứu
phải tiếp cận nhiều môn học khác nhau: Xã hội học, Nhân học, Sử học, Khảo
cổ học, Ký hiệu học, Tâm lý học v.v... Bởi lẽ, văn hóa là một lĩnh vực rất rộng
và hết sức trừu tượng. Theo nhà giáo Đồn Văn Chúc thì văn hóa là cái “vơ sở
bất tại”, muốn hiểu biết về văn hóa cần phải đứng ở nhiều góc độ khác nhau
để có thể nhận thức về nó một cách đầy đủ và tồn diện.
Con người khơng chỉ có hình hài, cịn có cả một đời sống xã hội và cá
nhân vô cùng phức tạp. Văn hóa học đã khơng dừng lại nghiên cứu con người
sinh học đơn thuần, mà còn được mở rộng sang các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội.

7


Con người ở đây được coi như là sự tổng hoà các mối quan hệ trong đời
sống xã hội, mà con người với tư cách là chủ thể sáng tạo và là tạo vật của văn
hóa.
Khi nghiên cứu các khái niệm con người văn hóa - xã hội thì nhận thấy các
khái niệm này đã có tính liên ngành, chẳng hạn con người chỉ có thể tồn tại
trong những điều kiện xã hội và văn hóa nhất định, nhưng con người cũng là
chủ thể sáng tạo ra những giá trị văn hóa và giá trị xã hội. Và xã hội là những

nhóm người được tổ chức lại theo một định chế chung đồng thời cũng bị quy
định bởi một nền văn hóa chung. Cịn văn hóa là những kết quả sau cùng,
những giá trị chuẩn mực xã hội được sáng tạo bởi các thành viên xã hội.
Do vậy, Nhân học nghiên cứu đời sống của các tập đoàn người thuộc các
cộng đồng xã hội khác nhau; Xã hội học thì nghiên cứu các mối quan hệ trong
đời sống xã hội; Triết học nghiên cứu bản chất, quy luật vận hành của các sự
vật hiện tượng và Sử học nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng trong lịch sử.
Bản thân đối tượng nghiên cứu đã có tính liên ngành thì tất yếu sẽ địi hỏi
phương pháp nghiên cứu liên ngành.
Nhìn chung, Con người, Xã hội và Văn hóa được gắn kết với nhau một
cách biện chứng, hữu cơ và liên tục trong suốt chiều dài lịch sử (ba trong
một), nếu như chỉ tập trung nghiên cứu nhằm vào một lĩnh vực khơng có mối
liên quan nào đến hai lĩnh vực kia thì sẽ đi vào lối mịn và bế tắc.
Vì vậy, trong khi nghiên cứu văn hóa nên tránh cái nhìn chia cắt của các
chuyên ngành khác nhau và nên đi vào hướng tiếp cận một khoa học mang
tính xuyên / liên ngành – Văn hóa học. Khoa học này thống nhất được các kết
quả nghiên cứu của Triết học, của Xã hội học, của Nhân học và Sử học thành
một hợp đề (synthese). Đến đây có thể đưa ra định nghĩa như sau:
“Văn hóa học là một khoa học nhân văn, chuyên nghiên cứu về lĩnh vực
Văn hóa tinh thần. Nó được hình thành từ nhiều hướng nghiên cứu và lý
thuyết khác nhau của các ngành khoa học xã hột đang có xu hướng tiếp cận
liên ngành, đổi mới phương pháp và mở rộng đối tượng như: Triết học, Sử
học, Nhân học, Xã hội học, Ký hiệu học, Tâm lý học, Nghệ thuật học... Nói
8


chung, Văn hóa học là những khoa học về văn hóa, nghiên cứu đời sống xã
hội và hoạt động của con người, cùng những sáng tạo văn hóa của nhân loại
trong lịch sử”
III. Cấu trúc bộ mơn Văn hóa học

Như đã trình bày ở trên, Văn hóa học là một khoa học liên ngành. Văn hóa
học nghiên cứu những nét đặc thù, những mối tương quan của các lĩnh vực
khác nhau, các loại hình văn hóa, sự tồn tại và phát triển của văn hóa trong
lịch sử, những dạng hoạt động trong văn hóa cũng như vấn đề văn hóa tinh
thần.
Theo nhận định của A.A. Gorelov - nhà văn hóa học Nga, trong giáo trình
Văn hóa học của ơng (năm 2001) là: “Một trong những nhiệm vụ quan trọng
của ngành khoa học này là chỉ ra những quy luật phát triển của văn hóa khác
với những quy luật tự nhiên và quy luật của cuộc sống vật chất của con người,
nó xác định tính đặc thù của văn hóa như một lĩnh vực quan trọng của đời
sống” (4)
Như một bộ mơn tách ra từ triết học, văn hóa học có những mối liên hệ
bền vững với Triết học văn hóa. Và, bản thân văn hóa lại thuộc về lĩnh vực
tinh thần, thuộc về khoa học nhân văn. Nên Văn hoá học còn được coi như là
khoa học: “Triết học nhân văn” của mọi thời đại. Văn hóa học gắn liền với các
bộ môn khoa học xã hội khác: Xã hội học văn hóa, Nhân học văn hóa, Lịch sử
văn hóa, Tâm lý học văn hóa.v.v... Dưới đây là cấu trúc của bộ mơn Văn hố
học:
+ Triết học văn hóa đóng vai trò như là phương pháp luận và thế giới quan
của Văn hóa học như Triết học, qua đó, trình bày bản chất, ý nghĩa, chức năng
của văn hóa đang vận hành trong đời sống xã hội. Thuật ngữ “Triết học văn
hóa” lần đầu tiên được đưa vào đầu thế kỷ XIX bởi nhà văn người Đức
A.Muller (1779 – 1829).
+ Nhân học văn hóa phân tích những mối liên hệ của văn hóa trên các đặc
điểm thực chất của con người như tâm lý, trí tuệ của họ, tức là nghiên cứu con
người dưới góc độ văn hóa tộc người. Có thể nói, Nhân học văn hóa có cơ sở
9


là ngành dân tộc chí, dân tộc học và nghiên cứu văn hóa các tộc người, đồng

thời nghiên cứu cả q trình phát triển của các dân tộc dưới góc độ những
sản phẩm văn hóa do con người sáng tạo nên.
+ Xã hội học văn hóa một mặt nghiên cứu những đặc điểm của mối quan
hệ văn hóa, của các tầng lớp xã hội khác nhau như: văn hóa lối sống, văn hóa
thanh niên, văn hóa tơn giáo v.v.., mặt khác, Xã hội học nghiên cứu đời sống
văn hóa đang tồn tại, vận động và phát triển trong lòng đời sống xã hội, tức là
nghiên cứu sự vận hành xã hội của văn hóa trong các xã hội đã phân tầng.
+ Lịch sử văn hóa nghiên cứu q trình phát triển của văn hóa trong tiến
trình phát triển của lịch sử. Lịch sử văn hóa có quan hệ cấp dưới theo chủ
nghĩa kinh nghiệm hay tính thực tiễn của Văn hóa học, trong khi Triết học văn
hóa là cấp độ siêu lý thuyết. Như là cơ sở của văn hóa học, Lịch sử văn hóa
cùng với Triết học văn hóa, Xã hội học văn hóa, Nhân học văn hóa cấu thành
nên bộ mơn Văn hóa học.
Dưới đây là sơ đồ cấu trúc Văn hóa học và mối liên hệ của nó với các bộ
mơn liên quan theo quan điểm của A.A. Gorelov. (5)

10


1. SƠ ĐỒ CẤU TRÚC VĂN HÓA HỌC CỦA A. A. GORELOV
( Cơ cấu văn hóa học và mối liên hệ của nó với các bộ mơn liên quan)
Sau đây là mơ hình cơ cấu Văn hóa học của người viết, dựa trên ba yếu tố
cốt lõi trong đời sống xã hội: con người – xã hội – văn hóa (ba trong một). Ba
bộ phận này tạo thành một phức thể thống nhất tồn vẹn làm nên đời sống văn
hóa - xã hội. Như trình bày ở trên, khi nghiên cứu về Con người- Văn hóa - Xã
hội, ta nhận thấy các yếu tố này đã có tính liên ngành, chúng được gắn kết với
nhau một cách biện chứng, hữu cơ và liên tục trong suốt chiều dài lịch sử.
Vì vậy, trong nghiên cứu văn hóa để tránh cái nhìn chia cắt, cần tiếp cận
theo phương pháp xuyên/ liên ngành – Văn hóa học. Khoa học này thống nhất
được các kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học khác nhau như: Triết học

văn hóa, Xã hội học văn hóa, Lịch sử văn hóa, Nhân học văn hóa là bốn mơn
học cốt lõi, tạo thành Cơ cấu Văn hóa học cơ bản. Bên cạnh đó cịn có một số
chun ngành học khác hỗ trợ thêm trong quá trình nghiên cứu như là: Ký
hiệu học văn hóa, Tâm lý học văn hóa, Sinh thái học văn hóa v.v..

2. SƠ ĐỒ CẤU TRÚC CỦA VĂN HÓA HỌC
11


(Nghiên cứu của người viết cơng trình này)
GIẢI THÍCH SƠ ĐỒ
Sơ đồ trên có thể giải thích như sau:
+ Triết học văn hóa ở cấp độ siêu lý thuyết là mơn học chủ chốt của Văn
hố học (văn hóa học đại cương) thực hiện vai trò là phương pháp luận và thế
giới quan của các khoa học về văn hoá.
+ Lịch sử văn hóa là cơ sở của Văn hóa học, nghiên cứu q trình sáng
tạo văn hóa của nhân loại trong lịch sử.
+ Nhân học văn hóa nghiên cứu con người dưới góc độ văn hóa, từ đó
tìm hiểu quá trình sáng tạo của mọi dân tộc qua các “tác phẩm văn hóa” do
con người làm ra.
+ Xã hội học văn hóa nghiên cứu văn hóa dưới góc độ xã hội, cũng được
hiểu là áp dụng các phương pháp xã hội học để giải thích sự vận hành và phát
triển của văn hóa, coi văn hóa như một mảng tồn tại xã hội (tác phẩm) dưới
góc độ hoạt động của nó trong đời sống xã hội.
Đó cũng chính là cơ cấu của văn hóa học. Q trình nghiên cứu được áp
dụng theo phương pháp liên ngành, thông qua mối liên hệ biện chứng hữu cơ
giữa ba yếu tố cốt lõi nhất của đời sống xã hội, đó là: con người – văn hóa –
xã hội. Chính bản thân các khái niệm này đã có tính liên ngành (như đã trình
bày kỹ ở mục liên ngành). Tức là, con người chỉ có thể hình thành, tồn tại và
phát triển trong những điều kiện xã hội và văn hóa nhất định. Và xã hội là

những nhóm người được tổ chức lại và bị quy định bởi một nền văn hóa
chung. Cịn văn hóa là thành quả của con người được sáng tạo ra trong một xã
hội nhất định. Ba yếu tố này quan hệ với nhau một cách hữu cơ, biện chứng,
khơng gì chia cắt được, như một cấu trúc hồn chỉnh và thống nhất (tam vị
nhất thể)
Dường như, trong việc nghiên cứu các đối tượng này cũng có sự phân
cơng khá hợp lý, như một định hướng mang tính quy luật. Nhân học văn hóa
thì nghiên cứu con người – văn hóa. Xã hội học văn hóa thì nghiên cứu văn
12


hóa - xã hội. Triết học văn hóa (siêu lý thuyết) và Lịch sử văn hóa (cơ sở của
Văn hóa học) thì nghiên cứu cội nguồn, bản chất, ý nghĩa và q trình phát
triển của văn hóa trong lịch sử.
Bản thân đối tượng (con người - văn hóa – xã hội) đã có tính liên ngành thì
phương pháp nghiên cứu phải mang tính liên ngành. Điều này ngày càng biểu
hiện rõ rằng, cá nhân, xã hội và văn hóa được gắn kết với nhau hết sức mật
thiết trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại. Nếu một nhà khoa học nào đó
chỉ tìm cách nghiên cứu nhằm vào một lĩnh vực, mà khơng có mối liên quan
đến hai lĩnh vực kia thì tất yếu sẽ phá vỡ hệ thống nghiên cứu. Có phải chăng,
việc hình thành một khoa học về con người, mà khoa học đó thống nhất được
các thành quả của các chuyên ngành học khác nhau như :Triết học văn hóa,
Lịch sử văn hóa và các Khoa học về văn hố ( Xã hội học văn hóa , Nhân học
văn hoá v.v... ), chúng tạo thành một cấu trúc chặt chẽ của liên ngành học
mang tính hợp đề, thì đó là một việc làm đúng đắn và cần thiết trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học hiện đại.Và, đó cũng là lý do để ngành Văn hố học
được ra đời trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Ngoài ra, khi nhìn vào sơ đồ trên cịn thấy các ngành học như: Sinh thái
học văn hoá, Tâm lý học văn hố, Ký hiệu học văn hóa..v.v...thì đó là các mơn
học hổ trợ cho q trình nghiên cứu đối tượng - văn hố. Ký hiệu học văn hố

nghiên cứu hình thái biểu hiện của văn hố( biểu tượng- ngơn ngữ của tư duy).
Tâm lý học văn hoá nghiên cứu văn hoá cá nhân( phần bên trong của con
người với nhiêù chiều cạnh của đời sống tinh thần). Sinh thái học văn hố
nghiên cứu mơi trường và điều kiện sống của con người. Qua đó, hình thành
nên thói quen và phong cách sống của họ. Ngoài ra, những chuyên ngành học
khác thuộc về Văn hoá học ứng dụng sẽ tạo nên những hiệu quả tốt đẹp cho
quá trình hoạt động của con người trong cuộc sống. Tựu trung lại, mọi chuyên
ngành học đều giúp người nghiên cứu có thể nhìn thấy mọi góc cạnh khác
nhau của một lĩnh vực vốn dĩ đã là phức tạp và đa nghĩa. Đó là văn hoá- một
lĩnh vực thuộc về đời sống tinh thần của con người. Qua quá trình nghiên cứu

13


trên đây có thể khẳng định được rằng, Văn hố học là một khoa học liên
ngành.
CHÚ THÍCH
(1). Lược dẫn theo AI.A. Phlier:“Văn hóa học” trong “Thơng báo Khoa học số
8”, 2003, Viện Văn hóa Thơng tin, từ trang 73 đến trang 77

(2)Dẫn

theo A.A. Belik: “Văn hóa học – Những lý thuyết Nhân học văn hóa”, Tạp chí
Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, trang 117.
(3). Lược dẫn theo Nguyễn Tri Nguyên “Khái niệm liên ngành” trong Thông
báo Khoa học số 8, Viện Văn hóa Thơng tin, 2003, trang 39.
(4). Dẫn theo A.A. Gorelov: Cấu trúc và những khái niệm cơ bản của văn hóa
học trong “Thơng báo Khoa học số 8”, Nxb Viện Văn hóa Thơng tin, Hà Nội,
2003, trang 78.
.(5). Dẫn theo A.A. Gorelov: Sơ đồ cấu trúc văn hóa học và mối liên hệ của nó

với các bộ môn liên quan trong “Thông báo Khoa học số 8”, Nxb Viện Văn
hóa Thơng tin, Hà Nội, 2003, trang 80.

14


Biểu tượng như là "đơn vị cơ bản" của văn hóa (1)
(ĐHVH)- Văn hố là một lĩnh vực hết sức rộng lớn, nó bao la như chính cuộc
sống của lồi người. Đó là vấn đề thuộc về mặt nhận thức của con người trong
tồn bộ cách nhìn, cách ứng xử của cá nhân đối với tự nhiên và cộng đồng xã
hội. Có thể nói, văn hố là sự hiểu biết, là phương thức hoạt động sống của
con người và là những kinh nghiệm do con người đúc kết được trong quá trình
lịch sử hình thành nên đời sống của nhân loại.
Có nhiều cách tiếp cận văn hố là do đứng ở nhiều góc độ khác nhau để
nghiên cứu về lĩnh vực này. Từ cách tiếp cận nghiên cứu văn hoá theo Triết
học, Sử học, Dân tộc học, Xã hội học, Tâm lý học, Ký hiệu học v.v.. mỗi
môn học nghiên cứu văn hố lại gồm nhiều trường phái, do đó có nhiều quan
niệm về văn hố khác nhau. Song, nhìn chung những định nghĩa ở bình diện
khác nhau của khái niệm văn hoá đều bộc lộ một quan điểm chung nhất, văn
hố - đó là sự thăng hoa các lực lượng bản chất tự nhiên của con người.

Quan niệm của các tác giả về những định nghĩa văn hố nhìn chung đã có một
sự tương đối đồng thuận. Họ thống nhất với nhau ở một điểm, văn hố - đó là
15


cái làm nên sự khác biệt giữa người và động vật và là cái đặc trưng cho xã hội
loài người. Nhà văn hố học Nga L. Iơ-nhin trong lời kết thúc bản tóm tắt giới
thiệu các định nghĩa khác nhau về văn hoá đã nhận định "... Các tác giả định
nghĩa về văn hoá đã đồng ý với nhau, rằng văn hố di truyền khơng theo

con đường sinh học mà bằng con đường học tập. Tiếp đó, họ thừa nhận văn
hoá trực tiếp gắn liền với các ý tưởng, chúng tồn tại và được truyền đạt
dưới hình thức biểu tượng (Symbol)"(2)
Hiện nay, theo quan điểm xã hội học hiện đại, các nhà khoa học đang có xu
hướng đi tìm "đơn vị cơ bản" di truyền đầu tiên của xã hội nhằm xác định sự
hình thành của xã hội như một loại hình tổ chức đặc biệt. Theo ý kiến của họ,
“đơn vị cơ bản" xác định của xã hội phải là "chìa khố", dùng cho việc
khám phá và giải thích về quan niệm di truyền học này. Họ cũng cho biết,
muốn tìm hiểu bản chất của sự di truyền xã hội cần phải tìm kiếm trực tiếp
trong lĩnh vực "văn hố tinh thần" của con người.
Và, bộ mơn ký hiệu học (Semeiology) đã và đang trở thành một phương pháp
tiếp cận quan trọng trong nghiên cứu khoa học về văn hố. Cách tiếp cận này
cho rằng, có thể xác định “đơn vị cơ bản" của văn hoá bằng ký hiệu, thể hiện
trong hoạt động sáng tạo và vận thông bằng ngơn ngữ ký hiệu - biểu tượng
(symbol).
Ngày nay, vai trị to lớn của biểu tượng trong hoạt động của đời sống con
người đã được quan tâm và nghiên cứu một cách sâu sắc với tinh thần hết sức
khoa học, vai trị của trí tưởng tượng khơng cịn bị xem nhẹ, thậm chí khơng
cịn bị đánh giá thấp như trước đây. Nó đã được xác định lại vị trí và được
xem là mặt thứ hai của lý trí, chính nó là nhân tố cốt lõi giúp cho con người có
những phát hiện tìm ra cái mới. Biểu tượng ln ở vị trí trung tâm và được coi
như "tế bào" của đời sống văn hoá.
Trong đời sống xã hội, dù biết hay chưa biết, chúng ta đều nhận thức và hành
động theo biểu tượng. Nó có tầm ảnh hưởng rộng khắp trong mọi mặt của đời
sống con người. Từ lĩnh vực khoa học cho đến lĩnh vực nghệ thuật, từ đời
sống tâm linh cho đến quan hệ ứng xử và giao tiếp. Người ta ngày càng tìm
16


cách "giải mã" ngôn ngữ biểu tượng, vừa để mở rộng trường nhận thức, khám

phá ra những giá trị văn hố truyền thống cịn chìm khuất trong lịng đời sống
cộng đồng - xã hội, vừa nhằm làm chủ một "năng lượng tinh thần" của một
loại hình ngơn ngữ đặc biệt mà ta vừa mới bắt đầu khẳng định về sức mạnh
của nó.
Vậy, biểu tượng (symbol) là gì? (3)
Thuật ngữ symbol bắt nguồn từ Hy Lạp. Symbolon có nghĩa là ký hiệu (Sign),
dấu hiệu, lời nói, tín hiệu, triệu chứng, hợp đồng v.v...
Cũng có thuyết cho rằng chữ symbol bắt nguồn từ động từ Hy Lạp "Symballo"
có nghĩa là "ném vào một vị trí", "liên kết", "suy nghĩ về", "thoả thuận", "ước
hẹn" v.v...
Biểu tượng trong tiếng Hán: Biểu có nghĩa là: "bày ra", "trình bày", "dấu
hiệu", để người ta dễ nhận biết một điều gì đó. Tượng có nghĩa là "hình
tượng". Biểu tượng là một hình tượng nào đó được phơ bày ra trở thành một
dấu hiệu, ký hiệu tượng trưng, nhằm để diễn đạt về một ý nghĩa mang tính
trừu tượng.
Khởi nguyên, biểu tượng bắt nguồn từ một tập quán Hy Lạp cổ đại, nói về một
phiến đá bị đập vỡ ra thành nhiều mảnh và chia đều cho mỗi thành viên trong
một bộ tộc nào đó, trước sự phân tán của họ, sau này khi được triệu tập trở lại
thì những mảnh đá vỡ đó được ghép lại (Sumballein) nhằm xác nhận sự hiện
diện trở lại của tồn nhóm.
Bản chất khó xác định và sống động của biểu tượng chính là sự chia ra và kết
lại với nhau, nó hàm chứa hai ý tưởng phân ly và tái hợp. Mọi biểu tượng đều
chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ, ý nghĩa của biểu tượng ln biến ảo, nó bộc lộ
ra trong cái vừa gãy vỡ vừa là nối kết, vừa xuất hiện lại vừa mất đi, khiến cho
tư duy ln phải truy tìm, liên tưởng và muốn nắm bắt lấy vơ vàn những ý
nghĩa đang cịn tiềm ẩn ngay trong lịng của nó.
Jean Chevalier và Alain Gheerbrant cho rằng : "Tự bản chất của biểu
tượng, nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các thái cực lại trong
cùng một ý niệm. Nó giống như mũi tên bay mà không bay đứng im mà biến
17



ảo, hiển nhiên mà không nắm bắt được. Ta sẽ cần phải dùng các từ để gợi ra
một hay nhiều ý nghĩa của một biểu tượng" (4).
Nói như Georges Gurvitch: "Các biểu tượng tiết lộ mà che giấu và che giấu
mà tiết lộ"(5)
Theo quan niệm của Freud: "Biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng
gió và ít nhiều khó nhận ra niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là
mối liên kết thống nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, mọi lời
nói với ý nghĩa tiềm ẩn của chúng"(6)
Đối với C. G. Jung, ông cho rằng: "Biểu tượng không phải là một phúng dụ,
cũng chẳng phải một dấu hiệu đơn giản, mà đúng hơn là một hình ảnh thích
hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất, ta mơ hồ nghi hoặc của tâm linh"(7)
Nói như vậy, bản chất của biểu tượng là khó xác định, sự hiểu biết về nó
đương nhiên còn tuỳ thuộc vào sự từng trải và kinh nghiệm vốn có của mỗi cá
nhân cũng như trình độ nhận thức của từng người. Khơng những thế, việc
"giải mã" tìm ra ý nghĩa của biểu tượng cũng phải tính đến thói quen, phong
tục, tập qn của các nền văn hố trong từng cộng đồng dân tộc khác nhau.
Điều bí ẩn vẫn ln cịn ngun vẹn và mơ hồ về mặt ý nghĩa nếu như biểu
tượng chưa được "giải mã". Một biểu tượng thường có nhiều nghĩa và ngược
lại một ý nghĩa lại có nhiều biểu tượng cùng biểu thị.
Vậy, có thể hiểu biểu tượng là những hình ảnh tượng trưng được phơ bày
khiến người ta có thể cảm nhận một giá trị trừu xuất nào đó đang tiềm ẩn trong
lịng của nó.
Tự điển Larousse cho rằng : "Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, con vật
sống động, hay đồ vật, biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể
của một sự vật hay một điều gì đó"(8).
Một định nghĩa khác của nhà tâm phân học C. G. Jung về biểu tượng như sau:
"Cái mà chúng ta gọi là biểu tượng là một từ ngữ, một danh từ hay một hình
ảnh, ngay cả khi chúng là quen thuộc trong đời sống hàng ngày vẫn chứa

đựng những ý nghĩa khác, bổ sung vào cái ý nghĩa ước định hiển nhiên và
trực tiếp của nó"(9)
18


Theo Chu Hy, nhà triết học Trung Quốc nổi tiếng đời Tống (1131 - 1200)
trong "Dịch thuyết cương lĩnh" khi bàn về biểu tượng đã viết: "Tượng là lấy
hình này để tỏ nghĩa kia"(10).
Như hình bát quái, đã lấy 8 quẻ trong kinh Dịch làm đồ hình. Mỗi quẻ là một
tượng lớn, được cấu thành bởi hai tượng nhỏ cơ bản: Một vạch liền (-) là
tượng của nguyên lý dương, một vạch đứt (--) là tượng của nguyên lý âm. Về
mặt ý nghĩa của biểu tượng, còn cho phép đọc : vạch liền là tượng của giống
đực, mặt trời, đàn ông, ánh sáng, sự sống, tiến lên, cái thiện, hạnh phúc, hồ
bình v.v... vạch đứt là tượng của giống cái, mặt trăng, đàn bà, bóng tối, sự
chết, thối lui, cái ác, đau khổ, chiến tranh v.v... Biểu tượng luôn mở rộng sự
liên tưởng để trí tuệ có thể truy tìm, khám phá ra những ý nghĩa cịn chìm
khuất trong chiều sâu nhận thức của con người.
Qua một số quan niệm vừa nêu trên, ta thấy sự ra đời của biểu tượng được gắn
liền với sự thực hiện khiếu năng tinh thần đặc biệt chỉ có ở lồi người - năng
lực tượng trưng hoá. Biểu tượng được hiểu là một hiện tượng vật thể, nhờ thể
hiện trong đó một nội dung cụ thể - cảm tính mà hiện tượng này thể hiện, trình
ra những ý nghĩa, những giá trị trừu xuất nào đó. Có thể nói, biểu tượng chính
là một loại hình ngơn ngữ - ký hiệu (Sign).
Ngành nghiên cứu mối quan hệ giữa vật làm biểu tượng với thế giới ý nghĩa
làm nên giá trị của biểu tượng cũng như đời sống của các ký hiệu trong lòng
sinh hoạt xã hội, được F.De Saussure gọi là ký hiệu học (semeiology). Tiếp
cận ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng cũng chính là muốn tìm thấy được bản
chất của hệ thống ngơn ngữ ký hiệu đặc thù này. Trong lĩnh vực nghiên cứu
chuyên ngành về ký hiệu học có nhiều quan niệm và các khuynh hướng khác
nhau. Song, chỉ có một số tên tuổi được nhắc đến như: F.De Saussure,

Charles Sanders Peirce, William Morris, G.Mounin v.v.. và nổi trội hơn hết
là R.Barthes và Louis Trolle Hjelmslev, trong lĩnh vực nghiên cứu hệ thống
ký hiệu học hàm nghĩa - biểu tượng.
Theo L.Hjelmslev mỗi ký hiệu là hiện tượng được nẩy sinh bằng mối quan hệ
giữa sự biểu đạt (Signifiant) còn gọi là cái biểu đạt (CBĐ): như các sự kiện,
19


hiện tượng, cái dùng để biểu thị (một đồ vật, một hình ảnh v.v..) và nội dung
được biểu đạt (Signifié) cịn gọi là cái được biểu đạt (CĐBĐ). Đó là những
giá trị, quan niệm, ý nghĩa, ý tưởng v.v.. Vậy ký hiệu là nội hàm của mối quan
hệ CBĐ/CĐBĐ. Nói cách khác mỗi ký hiệu là bộ ba:
Sự biểu đạt - Quan hệ - Nội
dung
(CBĐ - QH - CĐBĐ)
Trình bày mơ hình bộ ba trên đây thành tam giác ký hiệu như sau:

Sơ đồ ký hiệu học biểu thị của L.Hjelmslev (11)
Điều đóng góp quan trọng nhất của L.Hjelmslev là có sự phân biệt giữa “ký
hiệu học biểu thị” với “ký hiệu học hàm nghĩa”.
Ngôn ngữ thông thường là hệ thống ký hiệu biểu thị. Một ngôn ngữ hàm nghĩa
là một ngơn ngữ mà bình diện biểu đạt (hình thức) của nó cũng là một hệ
thống ngơn ngữ thơng thường (ký hiệu biểu thị) và cả hai hệ thống đã lồng vào
nhau tạo thành một hệ thống kép - hệ thống siêu ký hiệu.
R.Barthes đã tiếp thu khái niệm ký hiệu học biểu thị và ký hiệu học hàm
nghĩa của Hjelmslev vào sơ đồ cú pháp ký hiệu học hàm nghĩa của mình. Có
thể tóm tắt hệ thống "siêu ký hiệu" của R.Barthes như sau: Một là hệ thống
ký hiệu học biểu thị (A) cịn gọi là ngơn ngữ thơng thường. Hai là hệ thống
ký hiệu học hàm nghĩa (B) cịn gọi là "siêu ngơn ngữ" (Metalanguage) -


20


ngôn ngữ biểu tượng. Hai hệ thống ký hiệu này lồng trong nhau, biểu hiện
thành sơ đồ sau:
Sơ đồ cú pháp ký hiệu học hàm nghĩa của R.Barthes (12)
A

CBĐ:
Sự

B

CĐBĐ:

biểu

thịSự

(HT)
CBĐ:
Sự

biểu

đạt

(ND)
CĐBĐ:
hàm


nghĩa

Sự hàm nghĩa

(HT)
(ND)
(A): Ký hiệu học biểu thị (Semeiotic denotative) - Ngôn ngữ thông thường
(B): Ký hiệu học hàm nghĩa (Semeiotic connotative) - "Siêu ngơn ngữ".
Sơ đồ này có nghĩa là ở siêu ngơn ngữ (B) ở bình diện biểu đạt (hình thức) lại
là một ký hiệu biểu thị - ngôn ngữ thông thường.
Để hiểu được hệ thống ký hiệu học hàm nghĩa của R.Barthes trong quá trình
tiếp cận ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng ta có thể chuyển đổi sơ đồ mẫu
trên đây thành sơ đồ giải thích như sau:
Sơ đồ giải thích ký hiệu học hàm nghĩa của người viết
(Hệ thống siêu ngơn ngữ - ngơn ngữ biểu tượng)
Hình
A

thức

sựNội dung sự biểu

biểu thị Sự vật,thị nội dung, ý
hiện

tượng,

nghĩa,


tên

cái dùng biểu thị v.v..
Hình thức sự hàm

gọi

nghĩaNội dung sự hàm nghĩa

B (Ký hiệu biểu thị – hiển ngôn)

(Ký hiệu ẩn dụ – mật

ngôn)
Siêu ký hiệu - ngôn ngữ biểu tượng
(Symbol)
(A): Ký hiệu học biểu thị (Semeiotic denotative) - Ngôn ngữ thông thường.
(B): Ký hiệu học hàm nghĩa (Semeiotic connotative) - Ngôn ngữ biểu tượng.
Vận dụng mơ hình siêu ký hiệu của R.Barthes "giải mã"
hệ thống ngôn ngữ biểu tượng (Symbol)
21


Ví dụ 1: Trong tác phẩm kiến trúc
CBĐ
A

CĐBĐ

Hình tượng của Lồi hoa sống dưới

Hoa sen

bùn có hương thơm
CĐBĐ

CBĐ
B




hiệu

hiển

ngơn

hiệu

mật

ngơn

gần bùn mà chẳng hơi tanh mùi bùn

"THANH
CAO"

Siêu ký hiệu - biểu tượng
(Symbol)

Ví dụ 2: Trong lễ thức dân gian
CBĐ
A

Hình tượng LingaVật biểu thị giao
- Yoni
CBĐ

B

CĐBĐ
phối
CĐBĐ

Ký hiệu hiển ngơn
Âm dương giao hịa
Siêu

hiệu

Ký hiệu mật ngôn
-

"PHỒN THỰC"
biểu
tượng

(Symbol)
Bằng hướng tiếp cận ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng cùng sự phân tích hệ
thống siêu ký hiệu của R.Barthes ta thấy biểu tượng bao giờ cũng là những

ký hiệu hai mặt: cái biểu đạt là những hình thức tồn tại dưới dạng các sự vật,
hiện tượng trong thế giới thực tại; cái được biểu đạt là phần nội dung với
những giá trị, chuẩn mực xã hội. Chúng tạo nên thế giới ý nghĩa, được "tượng
trưng hoá" trở thành hệ thống ngôn ngữ biểu tượng. Hệ thống ký hiệu học
biểu thị (A)và hệ thống ký hiệu học hàm nghĩa (B) tạo nên hệ thống "kép", tức
là "hệ thống trong hệ thống" - hệ thống ngôn ngữ biểu tượng. Ta có thể hình
dung bằng lược đồ đơn giản như sau:
Lược đồ đơn giản kí hiệu học hàm nghĩa (13) (Lược đồ của người viết)

22


(CBĐ)
* A là hệ thống ký hiệu học biểu thị
* B là hệ thống đôi, hệ thống nội hàm của kí hiệu học hàm nghĩa
* S là ngơn ngữ biểu tượng
- (a) là hình tượng
- (b) là nội dung của hình tượng
- (a’) Ký hiệu hiển ngơn
- (b’) Ký hiệu mật ngơn (ẩn dụ)
Hệ thống biểu tượng cũng chính là hệ thống các khn mẫu văn hố, nó quy
định mọi hành vi ứng xử của con người và "hoạ kiểu" cho lối sống. Quá trình
"giải mã" hệ thống các biểu tượng cũng là nhằm mục đích thấy được kiểu lựa
chọn khác nhau về văn hoá giữa cộng đồng văn hoá này với cộng đồng văn
hố khác. Mơ hình lựa chọn đó sẽ tạo nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc. Như vậy, văn hố được hình thành và tồn tại nhờ vào trí tuệ và sự
sáng tạo ra các biểu tượng của con người. Bản thân một sự vật hiện tượng cụ
thể nào đó vẫn chưa là văn hố, nếu như chưa cho nó một ý nghĩa, một giá trị
nào đó. Có lẽ, đó cũng là lý do để chúng ta nghiên cứu các vật thể vật chất đã
được coi như một biểu hiện của văn hoá. Chúng là những vật thể vật chất đã
được biểu tượng hoá trở thành những biểu tượng, và được cả cộng đồng xã hội

chấp nhận đồng thời được xem như là bảng giá trị định hướng của tồn thể
cộng đồng, ví dụ như: biểu tượng chùa một cột, biểu tượng tháp rùa, biểu
tượng long, lân, quy, phượng v.v.... Tóm lại, khi chưa có một ý nghĩa nào đó
được ký thác vào các vật thể thì chúng cũng chỉ là những vật thể vật chất
23


thơng thường, có giá trị sử dụng, giá trị kinh tế hoặc giá trị khoa học v.v...
nhưng chưa nói lên được giá trị văn hố, ví dụ: quả bom, thuốc nổ, vàng, cái
quạt, cái bàn, cái bóng đèn v.v.. có thể mang giá trị sử dụng, giá trị khoa học,
giá trị kinh tế v.v.. nhưng chưa thể khẳng định là có hàm chứa trong nó những
"giá trị văn hố" hay khơng, nếu một khi mục đích và động cơ sử dụng nó
khơng đem lại một "giá trị nhân bản" nào cho cuộc sống của con người. Các
vật thể vật chất này, biểu thị cho một nền "văn minh".
E. Cassirer, nhà triết học nổi tiếng người Đức, tác giả của quyển sách "Triết
học các hình thái biểu tượng" đã có kiến nghị thay thế định nghĩa con người
như một "Động vật lý trí" bằng định nghĩa con người như một "Động vật sản
xuất ra các hình thái biểu tượng". Ơng đã nhận định như sau: "Tư duy và
hành vi biểu tượng hoá là đặc trưng tiêu biểu nhất của đời sống nhân loại
và tồn bộ văn hố nhân loại phát triển đều dựa vào những điều kiện này...
chúng ta nên định nghĩa con người là động vật biểu trưng (animal
symbolicum)... chỉ có như thế, chúng ta mới có thể vạch ra chỗ độc đáo của
con người, cũng mới có thể lý giải được con đường mới khai phóng cho con
người - con đường hướng về văn hoá"(14).
Ở lĩnh vực nghiên cứu văn hố học, L.White nhà nhân học Hoa Kỳ cũng
khơng đồng ý cách hiểu văn hoá như một trừu tượng lý thuyết, một cấu trúc
logic chỉ tồn tại trong tư duy của con người. Ông cho rằng, phải nghiên cứu
văn hoá theo hướng tiếp cận khác, nên giới hạn và tách nó ra khỏi những trừu
tượng khơng sờ mó được, khó nắm bắt được, mang tính "bản thể luận" - siêu
hình và cần phải cung cấp cho việc nghiên cứu văn hố một đối tượng "vật

chất" có thể nhận thức được. L.White xem: "Văn hoá là một lớp vật thể và
hiện tượng phụ thuộc vào khả năng tượng trưng hoá của con người, lớp vật
thể ấy được nghiên cứu trong bối cảnh "siêu hữu cơ" (Extra somatique)”
(15)
L.White cho rằng, văn hoá được quan niệm như là hành vi của Homo sapiens
khi sử dụng những vật thể vật chất, nó được xem như là bộ phận hoà nhập
toàn vẹn với hành vi này. Trên từng mặt cắt chuyên biệt, văn hoá bao gồm các
24


mặt như: ngôn ngữ, tư tưởng, tập quán, phong tục, các thiết chế, những cơng
trình nghệ thuật, các lễ thức v.v... Sự tồn tại, phát triển của văn hoá và việc sử
dụng văn hoá phụ thuộc vào một "năng lực" chỉ riêng con người mới có. Đó
là năng lực tượng trưng hoá - một năng lực quy định cho những sự vật và
hiện tượng nào đó những ý nghĩa mà chỉ bằng giác quan thông thường con
người không thể nắm bắt được. Sự khác biệt giữa trí tuệ con người với những
động vật hạ đẳng, đó là sự khác biệt về giống lồi. Thật vậy, có thể khẳng định
rằng, chẳng có động vật nào có thể có được năng lực nhận thức, đánh giá hoặc
hiểu biết được ít nhiều những ý nghĩa xã hội mang tính người như: tưởng
niệm về ngày giỗ tổ, ngày sinh, hoặc phân biệt được sự đúng sai, đẹp xấu, xác
định thế nào về sự loạn ln trong quan hệ tính giao v.v
Q trình tượng trưng hố chính là q trình nội nhập (introjection) văn hố
vào đời sống của linh trưởng. Sự tượng trưng hoá đã tạo thêm một chiều kích
(dimension) mới vào cuộc sống của vượn người, một khi mọi sự vật qua lăng
kính nhận thức đều có sự biến hố và có sự tiếp nhận những ý nghĩa mới
thông qua hệ thống các biểu tượng. Một cái rìu đá khơng cịn mang ý nghĩa sử
dụng đơn thuần mà nó đã mang ý nghĩa tượng trưng cho quyền uy, một con
vật nào đó đã được tượng trưng hoá để trở thành biểu tượng vật tổ (totem)
của một bộ tộc nào đó trong tín ngưỡng cổ xưa.
Thế giới tự nhiên trong nhận thức sơ khai của người ngun thuỷ thì mọi vật

thể, từ hịn đá cuội bên đường đến con sông, khe suối, con vật, cây trồng v.v..
cả đến bầu trời trăng sao lấp lánh trong đêm đều trở thành vật linh có sự sống.
Có thể nói tất cả những gì nhìn thấy được đều hàm chứa trong nó một ý nghĩa
thâm sâu. Năng lực tượng trưng hoá đã giúp vượn ngườii thật sự trở thành
người. Thế giới biểu tượng là thế giới của ý nghĩa và hàm chứa trong lịng nó
những giá trị mang bản chất người. Để nhấn mạnh vào đặc trưng này, một số
nhà nhân học đã gọi con người là một động vật sử dụng biểu tượng (Homo Symbolling).
Về "khái niệm ký hiệu về con người" đã được L. White nhắc đến liên tục
trong các cơng trình nghiên cứu của mình. Ơng khẳng định, con người khác
25


×