Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG bước HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG lối CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.99 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH

BÀI TẬP NHỎ
ĐỀ TÀI: 
Q TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC HỒN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI 
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
LỚP TT01 --- NHÓM 04 --- HK221
Giảng viên hướng dẫn:  TS. Đào Thị Bích Hồng

Sinh viên thực hiện

Mã số sinh viên

Trần Anh Gia Huy

1951144

Quách Gia Hưng

1913650

Trần Quốc Huy

1951005

Nguyễn Doãn Khải

2010332

Nguyễn Bảo Khang



1951061

Phạm Viết Huy

1851071


MỤC LỤC
Giai đoạn 1 (1930 – 1935)
Luận cương chính trị (10/1930)
Bối cảnh lịch sử
Tình hình thế giới
Tình hình xã hội trong nước
Bối cảnh ra đời của luận cương chính trị
Nhiệm vụ, lực lượng và phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhiệm vụ
Lực lượng cách mạng
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhận xét
Nghị quyết đại hội đại biểu lần thứ nhất (3/1935)
Bối cảnh ra đời
Nhiệm vụ, lực lượng và phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhiệm vụ
Lực lượng cách mạng
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhận xét
Tiểu kết

3

3
3
3
3
3
4
4
4
4
5
6
6
7
7
8
8
9
9

Giai đoạn 2 (1935 – 1939)
Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7/1936)
Bối cảnh lịch sử
Quốc tế
Trong nước
Nhiệm vụ và lực lượng cách mạng
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhận xét
Chung quanh vấn đề chính sách mới (10-1936)
Nhiệm vụ cách mạng
Lực lượng cách mạng

Tiểu kết

10
10
10
10
11
12
14
14
15
15
15
16

Giai đoạn 3 (1939 – 1945)
Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 6 (11/1939)
Bối cảnh lịch sử

17
17
17
1


Nhiệm vụ, lực lượng và phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhiệm vụ
Lực lượng cách mạng
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhận xét

Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 7 (11/1940)
Bối cảnh lịch sử
Nhiệm vụ, lực lượng và phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhiệm vụ
Lực lượng cách mạng
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhận xét
Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 8 (5/1941)
Bối cảnh lịch sử
Nhiệm vụ, lực lượng và phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhiệm vụ
Lực lượng cách mạng
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhận xét
Tiểu kết

17
17
18
18
18
19
19
19
19
20
20
20
20
20

21
21
21
22
22
22

Tổng kết

23

Tài liệu tham khảo

24

2


I.

Giai đoạn 1 (1930 – 1935)
1.

Luận cương chính trị (10/1930)
1.1.

Bối cảnh lịch sử
1.1.1.

Tình hình thế giới


Từ nửa sau thế kỷ XIX , Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang độc
quyền thông qua việc xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ thuộc châu Á, châu Phi biến
các nước này thành thuộc địa của đế quốc. Trước bối cảnh đó nhân dân của các dân tộc
bị áp bức đã đứng lên đấu tranh chống áp bức bóc lột giải phóng khỏi ách đơ hộ của
thực dân. Cộng với đó là phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư
sản ở châu Âu phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa ngày càng trở
nên quan trọng. Và sự thành cơng của Cách mạng Tháng 10 tại Nga có tác động lên
phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản lẫn giải phóng thuộc địa.
Năm 1929-1930, Liên Xơ đã đạt được những thành công nhất định trong công
cuộc xây dựng đất nước thì ở các nước tư bản đang xảy ra một cuộc khủng hoảng kinh
tế mang lại nhiều hậu quả nặng nề cho nền kinh tế thế giới.
1.1.2.

Tình hình xã hội trong nước

Năm 1930, do tình hình khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng lớn lên các thuộc địa
nên chính phủ Đông Dương do thực dân Pháp giật dây đã gia tăng bóc lột, cướp bóc tài
sản của nhân dân Đông Dương. Đặt ra nhiều loại thuế mới chồng với những loại thuế
từ trước đã có sẵn. Dưới tình hình đó nhân dân ta ai nấy đều lầm than, đau khổ,… dẫn
đến mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp cùng với tay sai của chúng
ngày càng sâu sắc.
1.1.3.

Bối cảnh ra đời của luận cương chính trị

Tháng 4 năm 1930 sau thời gian học tập ở Liên Xô, Trần Phú được Quốc Tế
cộng sản cử về nước. Vào tháng 7 năm 1930 ông được đưa vào Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Tháng 10 năm 1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ
nhất tại Hương Cảng quyết định đổi tên Đảng Cộng Sản Việt Nam thành Đảng Cộng

Sản Đông Dương do Trần Phú làm tổng bí thư đồng thời hội nghị đã thơng qua luận

3


cương chính trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo. Cương lĩnh đã nêu lên hai mâu thuẫn
chính trong xã hội các nước Đông Dương là mâu thuẫn kinh tế và mâu thuẫn giai cấp.
1.2.

Nhiệm vụ, lực lượng và phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
1.2.1.

Nhiệm vụ

Luận cương chính trị nêu rõ tính chất của cuộc cách mạng ở Đông Dương là
cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”. “ Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để
làm xã hội cách mạng”. Cũng tức là đó phương hướng, nhiệm vụ chiến lược của ta.
Khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi chính phủ Xơ-viết được thành lập, kinh tế
phát triển thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền tiến lên Chủ Nghĩa Xã hội bỏ qua thời
kỳ Tư Bản Chủ Nghĩa.
Ngồi ra luận cương chính trị còn xác định thêm một nhiệm vụ cụ thể khác là
đấu tranh giai cấp khi cách mạng “có tính chất thổ địa và phản đế”. Thổ địa là “đánh
đổ các di tích phong kiến, đánh đổ theo cách bóc lột theo lối tiền tư bản”. Phản đế là
“đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp” giúp cho Đơng Dương hồn tồn độc lập. Hai vấn
đề trên đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau vì khi ta đánh đổ được chế độ phong kiến
thì mới chiến thắng đế quốc và cũng chỉ khi ta đánh đuổi đế quốc ta mới hủy diệt chế
độ phong kiến. Trong đó vấn đề thổ địa là quan trọng hơn khi nó đã đặt mâu thuẫn giai
cấp lên trên mâu thuẫn dân tộc và cũng giúp Đảng có được long tin của giai cấp nông
dân.
1.2.2.


Lực lượng cách mạng

Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, giai cấp công nhân và giai cấp nông
dân là lực lượng chính của cuộc cách đó. Trong khi giai cấp vơ sản là động lực chính là
giai cấp lãnh đạo thì giai cấp nơng dân là lực lượng đơng đảo nhất cũng là động lực
mạnh của cuộc cách mạng. Với phương thức đấu tranh bằng vũ trang. Và luận cương
cũng xác định chỉ khi cuộc cách mạng nằm dưới sự lãnh đạo của giai cấp vơ sản thì sẽ
dẫn đến thắng lợi sau cùng.
1.2.3.

Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Trong luận cương chúng ta đã xác định nhiệm vụ “đánh đổ các di tích phong
kiến, đánh đổ theo cách bóc lột theo lối tiền tư bản”, “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
4


Pháp” giúp cho Đơng Dương hồn tồn độc lập. Vậy phạm vi của vấn đề dân tộc là
chống đế quốc để Đơng Dương độc lập. Khi đó chúng ta có thể xây dựng chính quyền
Xơ-viết cơng nơng qua đó giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nông dân cũng như
các mâu thuẫn giai cấp khác. Luận cương ra đời là vì cả ba nước Đơng Dương khơng
phải chỉ riêng Việt Nam độc lập mà cịn đó là cả Lào và Campuchia coi trọng giải
quyết vấn đề điền địa là vấn đề về giai cấp.
1.3.

Nhận xét

1.3.1. Ưu điểm
Luận cương đã nêu được vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Việt

Nam nói riêng và các nước Đơng Dương nói chung. Luận cương đã đề cập đến vấn đề
ruộng đất của người dân giải quyết vấn đề giai cấp trước vấn đề dân tộc vì khi các giai
cấp cùng đồn kết thì mới có thể hồn thành cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”. Ta
thấy được việc xác định hai nhiệm vụ của luận cương là đúng đắn thế nào khi nó

đáp ứng hầu hết các nhu cầu của các giai cấp khác nhau tạo nên sự đoàn kết xóa
nhịa mâu thuẫn giai cấp để tạo nên một làn sóng ủng hộ cách mạng mạnh mẽ. Luận
cương đã xác định được những vấn đề chiến lược của cách mạng ngồi ra cịn trang bị
cho những người cộng sản tư tưởng để chống Đế Quốc.
1.3.2. Hạn chế
Luận cương cịn có nhiều mặt hạn chế như chưa công nhận hết các nỗ lực của
mọi giai cấp mà chỉ công nhận giai cấp công nhân và nông nhân trong sự nghiệp cách
mạng đánh giá sai về khả năng của tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, địa chủ,… khi
có thể lôi kéo họ vào mặt trận chống đế quốc. Luận cương cũng chưa nêu được hết
những mặt hạn chế, mâu thuẫn trong đời sống xã hội, chính trị các nước Đông Dương.
Không đưa tinh thần dân tộc lên mà đưa công cuộc đấu tranh chống phong kiến đế
quốc chống phong kiến lên hang đầu dẫn đến luận cương chưa phù hợp với tình hình
Việt Nam. Ta có thể thấy thời bấy giờ do ba nước Đơng Dương đều có tình hình chính
trị, xã hội khác nhau dẫn đến phạm vi giải quyết các vấn đề dân tộc tồn tại nhiều mặt
hạn chế. Khi mà Đảng Cộng Sản Đông Dương nhưng hầu hết người lãnh đạo đều
thuộc Việt Nam dẫn đến nhiều điều Đảng không thế giải quyết.

5


Dù có nhiều hạn chế nhưng hầu hết đều đến từ lý do khách quan như sự ảnh
hưởng của các tư tưởng khuynh tả của Quốc tế Cộng Sản hay những vấn đề chủ quan
như khơng nắm được tình hình thực tiễn của đất nước không xác định được mâu thuẫn
chủ yếu dẫn đến không xác định được tầng lớp ngồi cơng nhân và nơng dân cũng có
thể là tầng lớp phù hợp cho cách mạng.

2.

Nghị quyết đại hội đại biểu lần thứ nhất (3/1935)
2.1.

Bối cảnh ra đời

Sau cao trào cách mạng kéo dài trong khoảng thời gian từ 1930-1931, Đảng và
cách mạng bị đế quốc Pháp khủng bố, đàn áp mạnh mẽ, Trung ương Đảng bị xóa sổ,
đồng thời các phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống. Đại hội đại biểu lần thứ nhất
của Đảng Cộng sản Đông Dương diễn ra khi lực lượng cộng sản trong nước gần như
hoàn toàn bị triệt tiêu sau đợt khủng bố trắng của Pháp sau Xô-viết Nghệ Tĩnh nay đã
dần dần phục hồi trở lại. Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ thị triệu tập đại hội
Đảng.
Trên cơ sở phong trào cách mạng đã được phục hồi và sự chuẩn bị trước đó, từ
ngày 28 đến 31-3-1935. Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã họp tại một địa điểm
ở phố Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc) nhằm xác định đường lối cho thời kỳ đấu
tranh mới khi Đảng đã phục hồi.
Dự Đại hội có 13 đại biểu thuộc các đảng bộ trong nước và tổ chức của Đảng
hoạt động ở ngồi nước, trong đó có hai đại biểu của Đảng bộ Bắc Kỳ, hai đại biểu của
Đảng bộ Trung kỳ, ba đại biểu của Đảng bộ Nam Đông Dương, một đại biểu Đảng bộ
Lào, ba đại biểu cho các đảng viên hoạt động ở Thái Lan, hai đại biểu của Ban lãnh
đạo hải ngoại. Trong thời gian này, sau khi thoát khỏi nhà tù của đế quốc Anh ở Hương
Cảng, Nguyễn ái Quốc đã sang Liên Xô và vào học Trường Quốc tế Lênin, trường
dành cho cán bộ lãnh đạo các đảng công nhân trên thế giới. Lê Hồng Phong, Trưởng
ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng cùng với Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn
đi Moscow dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản.

6



2.2.

Nhiệm vụ, lực lượng và phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
2.2.1.

Nhiệm vụ

Nhiệm vụ chiến lược:
Đảng đã chỉ ra được nhiệm vụ chiến lược là phải thực hiện cách mạng tư sản
dân quyền - phản đế và điền địa (phản phong kiến). Đây là hai nhiệm vụ rõ rệt và có
quan hệ mật thiết với nhau. Văn kiện nêu rõ: "Chiến lược của Đảng Cộng sản Đông
Dương là phải làm cách mệnh tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền
của cơng nơng bằng hình thức Xơ viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ
nghĩa, đó là mục đích cuối cùng của cuộc cách mệnh trong giai đoạn này". Từ đó cho
thấy, Đảng vẫn thừa nhận sự cấp thiết của việc thực hiện song song hai cuộc cách
mạng phản đế và điền địa giống như Luận cương chính trị 10/1930
Nhiệm vụ cụ thể:
Đại hội nhận định hệ thống tổ chức của Đảng đã được khơi phục. Đó là một
thắng lợi to lớn của Đảng. Các cuộc đấu tranh của quần chúng do Đảng lãnh đạo trong
khoảng vài năm qua đều giành được thắng lợi ở mức độ khác nhau, khiến cho quần
chúng công nông thêm hăng hái đấu tranh. Song, hệ thống tổ chức của Đảng chưa thật
thống nhất, sự liên lạc giữa các cấp bộ chưa thật thông suốt, tổ chức cơ sở của Đảng
chưa được phát triển mạnh ở các vùng công nghiệp... Đại hội đã nêu ra ba nhiệm vụ
chủ yếu trong thời gian trước mắt của toàn Đảng:
Củng cố và phát triển Đảng: tăng cường phát triển lực lượng đảng vào các xí
nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thơng quan trọng, biến mỗi xí nghiệp thành một
thành luỹ của Đảng; đồng thời, phải đưa nơng dân lao động và trí thức cách mạng đã
trải qua thử thách vào Đảng. Phải chăm lo tăng cường các đảng viên ưu tú xuất thân từ
công nhân vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Để bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng

và hành động, các đảng bộ cần tăng cường phê bình và tự phê bình, đấu tranh trên cả
hai mặt chống "tả" khuynh và hữu khuynh, giữ vững kỷ luật của Đảng.
Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng: "Đảng mạnh là căn cứ vào
ảnh hưởng và thế lực của Đảng trong quần chúng... Muốn đưa cao trào cách mạng mới
lên trình độ cao tới toàn quốc vũ trang bạo động, đánh đổ đế quốc phong kiến, lập nên
7


chính quyền Xơ viết thì trước hết cần phải thâu phục quảng đại quần chúng. Thâu phục
quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm căn bản cần kíp của Đảng hiện thời.
Nếu Đảng không mật thiết liên lạc với quần chúng, không được quần chúng tán thành
và ủng hộ những khẩu hiệu của mình thì những những nghị quyết cách mạng đưa ra
vẫn chỉ là lời nói khơng. Muốn thâu phục quảng đại quần chúng thì nhiệm vụ trung
tâm, căn bản, cần kíp trước mắt của Đảng là: Bênh vực quyền lợi của quần chúng;
củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng. Đại hội chủ trương tổ chức quần chúng
chủ yếu theo hình thức bí mật, bất hợp pháp, đồng thời coi trọng những hình thức công
khai, hợp pháp.
Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc: chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xơ,
thành trì của cách mạng thế giới và ủng hộ cách mạng Trung Quốc... Vạch trần luận
điệu “hồ bình” giả dối của bọn đế quốc, giải thích cho quần chúng thấy rõ chiến tranh
đế quốc đã bắt đầu. Đại hội xem nhiệm vụ chống chiến tranh đế quốc bảo vệ Liên bang
Xô Viết là nhiệm vụ của Đảng và của toàn thể cách mạng. Đại hội quyết định thành lập
Ban Chống chiến tranh đế quốc do Đảng lãnh đạo, bao gồm đại biểu nhiều tổ chức
cách mạng và cá nhân u nước, hồ bình và công lý.
2.2.2.

Lực lượng cách mạng

Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị của Đảng, các nghị quyết về vận
động công nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính, về mặt

trận phản đế, về đội tự vệ, về các dân tộc ít người...Bên cạnh đó, số lượng phần tử công
nhân và vô sản trong hàng ngũ của Đảng cũng được tăng lên, đồng thời kết nối các lực
lượng lẻ tẻ lại để tăng thêm tính liên kết. Dù vậy, lực lượng cách mạng chính vẫn là
công nhân và nông dân.
2.2.3.

Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Đảng đặt ra mục tiêu cụ thể là phải đánh đuổi đế quốc Pháp ra khỏi Đông
Dương, để thành lập liên bang cộng hịa Xơ Viết Đơng Dương. Đồng thời ủng hộ Liên
bang Xô Viết và cuộc cách mạng Trung Quốc. Các dân tộc có quyền tự quyết, muốn
lập ra nhà nước độc lập, muốn theo liên bang cộng hịa xơ viết Đơng Dương hay theo
chính thể nào cũng được
8


2.3.

Nhận xét

Có thể thấy những thay đổi về mặt tích cực trong sự phát triển của Đảng được
thể hiện trong Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất so với Luận Cương chính trị. .
Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh vai trò lãnh đạo quan trọng của Đảng trong con đường
giải phóng dân tộc, đồng thời cũng xác định lực lượng chính sẽ là cơng nhân và nơng
dân, nhưng vẫn sẽ kéo thêm các lực lượng từ khắp các tầng lớp, giai cấp trong xã hội
(nếu như trước đây chỉ có giai cấp nơng dân thì bây giờ có thêm các giai cấp khác như
công nhân, tiểu tư sản, trí thức yêu nước… ).
Tuy nhiên, chiến lược đấu tranh trong khoảng thời gian này vẫn chịu ảnh hưởng
từ Luận cương chính trị 10/1930, cho rằng ta vẫn nên thực hiện cuộc cách mạng tư sản
dân quyền và nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng phản đế và cách mạng

điền địa. Nên lực lượng dù được tập hợp với nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau, nhưng
vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn để tập trung cho một cuộc đấu tranh.
Tóm lại, trong Nghị quyết đại hội đại biểu lần thứ nhất, Đảng vẫn đứng trên
quan điểm sai lầm của Luận cương chính trị và chưa đặt cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc lên hàng đầu. Nhưng bù lại, đã nhấn mạnh được vai trò quan trọng của Đảng
trong cuộc cách mạng dân tộc và từ đó có thể tập hợp được một lực lượng cách mạng
lớn hơn.
3.

Tiểu kết

Luận cương chính trị (10/1930) của Đảng chỉ rõ hai nhiệm vụ trong đó thực
hiện cách mạng tư sản dân quyền là nhiệm vụ chiến lược trong khi đó “có tính chất thổ
địa và phản đế” giành lại độc lập cho Đông Dương là nhiệm vụ cụ thể do giai cấp công
dân lãnh đạo cùng với giai cấp nông dân. So với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng thì cả hai có một số điểm giống nhau như đều nói đến sự độc lập dân tộc gắn liền
với Chủ nghĩa xã hội đều là đánh đổ đế quốc và phong kiến để thực hiện cách mạng tư
sản dân quyền, thống nhất vai trò của giai cấp cơ bản, vũ trang bạo động là phương
thức đấu tranh, thống nhất cách mạng Việt Nam là một phần của cách mạng thế giới,
và vai trị lãnh đạo của Đảng. Nhưng có một số điểm khác nhau là luận cương tháng
10/1930 như không đưa nhiệm vụ chống đế quốc lên đầu, không nêu mâu thuẫn chủ
9


yếu giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, đánh giá thấp vai trò của giai cấp tiểu tư
sản phủ nhận vai trị của họ khơng lơi kéo một bộ giai cấp địa chủ tham gia cách mạng.
Về lực lượng cách mạng Nghị quyết đại hội đại biểu tháng 3 năm 1935 đã quán
triệt tư tưởng của Đảng cho lực lượng cách mạng điều mà Luận cương tháng 10 năm
1930 cịn thiếu sót. Lực lượng cách mạng bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và các phần tử cách mạng lẻ tẻ bị bóc lột

Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc, Luận cương tháng 10 năm 1930 ưu tiên
giải quyết vấn đề điền địa là mâu thuẫn chủ yếu của giai cấp nông dân đối với địa chủ
và thực dân Pháp. Nghị quyết đại hội đại biểu tháng 3 năm 1935 thể hiện tầm nhìn xa
hơn của Đảng xác định nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến có mối quan hệ
mật thiết với nhau, tập trung giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc. Tuy nhiên vẫn chưa
giải quyết được các hạn chế mắc phải của Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930.
II.

Giai đoạn 2 (1935 – 1939)
1.

Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7/1936)
1.1.

Bối cảnh lịch sử
1.1.1.

Quốc tế

Bước vào giai đoạn 1929-1933, ở các nước tư bản phương Tây xuất hiện cuộc
khủng hoảng kinh tế, xã hội vô cùng lớn. Ở một số nước, giai cấp tư sản lũng đoạn
khơng muốn duy trì nền thống trị bằng chế độ dân chủ tư sản đại nghị như cũ, nên đã
âm mưu dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua
vũ trang, chuẩn bị phát động một cuộc chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phát xít
xuất hiện và thắng thế ở một số nơi, như Đức, Tây Ban Nha, ở Italia và Nhật Bản.
Chúng nuôi mưu đồ tiêu diệt Liên Xô, thành trì cách mạng thế giới, hy vọng đẩy lùi
phong trào cách mạng vô sản đang phát triển mạnh mẽ trong nước chúng. Nguy cơ chủ
nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hịa bình và an ninh
quốc tế.
Trước tình hình đó, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva (tháng

7-1935) đã xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là
10


chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm vụ trước mắt của giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động thế giới lúc này chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ
nghĩa tư bản, giành chủ nghĩa xã hội, mà là chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến
tranh, bảo vệ dân chủ và hịa bình. Mục tiêu của cách mạng Đông Dương lúc này là
chống phát xít, chống chế độ phản động thuộc địa của thực dân Pháp, chống chiến
tranh đế quốc, đòi tự do dân chủ, thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi. Khẩu hiệu đánh
đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ, phong kiến để giành độc lập dân tộc, ruộng đất
cho dân cày tạm thời gác lại.
1.1.2.

Trong nước

Mặt trận nhân dân Pháp mà nòng cốt là Đảng Cộng sản Pháp đã giành được
thắng lợi vang dội trong cuộc tổng tuyển cử tháng 5 năm 1936. Sau đó một Chính phủ
Mặt trận bình dân lên cầm quyền. Chính phủ này vẫn là đại diện cho quyền lợi của giai
cấp tư sản. Khi ra đời, cao trào nhân dân chống phát xít lên cao, buộc. Chính phủ Pháp
phải thi hành một số quyền lợi cho quần chúng lao động trong nước và ở các thuộc địa.
Cương lĩnh của Mặt trận bình dân nêu ra việc thành lập phái đoàn của Quốc hội Pháp
điều tra tình hình các thuộc địa, đặc biệt là Bắc Phi và Đơng Dương, tồn xá tù chính
trị, ban hành các quyền tự do dân chủ, tự do nghiệp đoàn, cải thiện điều kiện làm việc
cho giới lao động....
Trong tinh hình chính trị phức tạp thời đó, ở Việt Nam đã xuất hiện rất nhiều
đảng phái chính trị hoạt động nhưng Đảng Cộng sản Đông Dương là Đảng mạnh nhất,
vững vàng nhất, thu phục được đông đảo quần chúng nhân dân, có tổ chức chặt chẽ,
chủ trương, nhiệm vụ, mục tiêu rõ ràng.
Về kinh tế, thực dân Pháp tăng cường khai thác thuộc địa để bù đắp thiệt hại cho

nền kinh tế “chính quốc”. Trong nơng nghiệp, chính quyền thực dân tạo điều kiện tư
sản Pháp chiếm đoạt ruộng đất của nông dân và lập đồn điền (lúa,cà phê,cao su). Về
công nghiệp, Pháp đẩy mạnh ngành khai mỏ, sản lượng của các ngành dệt, rượu, xi

11


măng tăng.Các ngành điện nước cơ khí, đường .. ít phát triển. Về thương nghiệp,Pháp
độc quyền buôn bán thuốc phiện, rượu, muối.. thu lợi nhuận cao
Những năm 1936-1939,nền kinh tế Việt Nam đã kịp thời phục hồi và phát triển,
nhưng vẫn lạc hậu và phụ thuộc nền kinh tế Pháp. Mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn
có những cải cách dân chủ. Đảng Cộng sản Đông Dương đã phục hồi sau một thời kỳ
đấu tranh cực kỳ gian khổ, kịp thời lãnh đạo nhân dân ta bước vào một thời kỳ mới.
1.2.

Nhiệm vụ và lực lượng cách mạng

Tháng 7/1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ban Chỉ huy ở ngoài họp
Hội nghị tại Thượng Hải (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của Lê Hồng Phong và Hà Huy
Tập.. Xuất phát từ đặc điểm tình hình Đơng Dương và thế giới, vận dụng Nghị quyết
Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là
"cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền của cơng nơng
bằng hình thức Xơ viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa" Song xét
rằng cuộc vận động quần chúng hiện thời cả về chính trị và tổ chức chưa tới trình độ
trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền cơng nơng, giải quyết vấn đề điền địa.
Hội nghị chỉ rõ kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập
trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Từ đó Hội nghị
xác định những nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc,
chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hịa bình.
Đồng thời, Đảng quyết định tạm thời không nêu khẩu hiệu đánh đổ đế quốc

Pháp và giai cấp địa chủ, giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, đồng thời
chủ trương thành lập Đảng lập Mặt trận Nhân dân Phản đế rộng rãi bao gồm các giai
cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tơn giáo khác nhau, các dân
tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu đòi những quyền lợi hàng ngày, chống
chế độ thuộc địa vô nhân đạo, và để dự bị điều kiện cho cuộc vận động dân tộc giải
phóng được phát triển. Việc lập Mặt trận Nhân dân Phản đế rộng rãi là để cùng nhau
tranh đấu đòi những quyền dân chủ đơn sơ. Chính sách lập Mặt trận Nhân dân Phản đế
12


không phải là chống người Pháp, mà chỉ chống đế quốc Pháp, thực hiện dân chủ cho
xứ Đông Dương.
Biết được Quốc hội Pháp sẽ cử các phái đoàn sang điều tra tình hình Đơng
Dương, Đảng Cộng sản Đơng Dương chủ trương phát động một phong trào rộng lớn
trong người dân đấu tranh công khai, hợp pháp nêu lên nguyện vọng về tự do, dân chủ
và cải thiện đời sống. Phong trào Đông Dương Đại hội, từ một sáng kiến ở Sài Gịn đã
được nhân rộng khắp tồn quốc. Tại Nam Kỳ đến cuối tháng 9-1936 đã thành lập hơn
600 uỷ ban hành động của công nhân, nông dân, viên chức. Nhiều ủy ban hành động
có trụ sở, tổ chức sinh hoạt chính trị cơng khai, vạch trần hiện trạng bất công, cực khổ
dưới chế độ thuộc địa tàn bạo, thảo luận các biện pháp đấu tranh thích hợp nhằm đạt
được các yêu sách về tự do, dân chủ, cơm áo và hồ bình.
Đầu năm 1937, từ Bắc chí Nam người dân lao động mít tinh biểu dương lực
lượng nhân dịp Justin Godart, phái viên của chính phủ Pháp sang điều tra tình hình
Đơng Dương. Ngày 1-1-1937, ở Nam Kỳ, hơn 20.000 người đủ các giới, nhất là giới
lao động Sài Gịn - Chợ Lớn và nơng dân phụ cận đón Godart bằng những khẩu hiệu
địi tự do dân chủ, cơng bằng, thi hành luật lao động, thi hành chế độ ngày làm 8 giờ,
địi quyền phụ nữ, quyền nơng dân, công nhân, hủy thuế thân, giảm sưu cao thuế nặng,
ân xá chính trị phạm, v.v.
Hồn cảnh mới, chủ trương mới địi hỏi phải có một đường lối tổ chức mới. Vì
vậy, Hội nghị chủ trương phải chuyển hình thức tổ chức bí mật khơng hợp pháp sang

các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp
pháp, nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và
lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các hình thứ Trong khi tranh thủ mở rộng các hình
thức tổ chức đấu tranh công khai và hợp pháp, tránh sa vào chủ nghĩa công khai, mà
phải giữ vững nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt động bí mật của
Đảng, giữ vững mối quan hệ giữa bí mật và công khai, hợp pháp với không hợp pháp

13


và phải bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức Đảng bí mật đối với những tổ chức và hoạt
động cơng khai hợp pháp và khẩu hiệu thích hợp.
1.3.

Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đã buộc nhà chính quyền Đông
Dương ra Nghị định ngày 11-10-1936, quy định một số quyền lợi của công nhân như
thời gian làm việc không được quá 8 giờ/ngày kể từ ngày 1-1-1938; công nhân được
nghỉ chủ nhật và nghỉ phép năm có lương; cấm bắt phụ nữ và lực cai làm việc ban
đêm…
Kết quả của sự phối hợp đấu tranh giữa dân Pháp và dân Việt là đã buộc chính
quyền thuộc địa phải trả lại tự do cho 1.532 tù chính trị, phần lớn là các chiến sĩ cộng
sản. Ngay sau khi ra khỏi nhà tù thực dân, họ đã lao ngay vào cuộc chiến đấu mới, tổ
chức quần chúng, xây dựng lại cơ sở, đưa phong trào cách mạng đi lên.
Năm 1936, Đảng Cộng sản Đông Dương thảo ra bản "nguyện vọng" gửi tới phái
đồn chính phủ Pháp, đấu tranh địi tự do, dân chủ. Các ủy ban hành động thành lập
khắp nơi, phát truyền đơn, ra báo, mít tinh, thảo luận dân chủ, dân sinh. Tháng 9/1936
chính quyền Pháp giải tán Ủy ban hành động, cấm hội họp, tịch thu các báo.
1.4.


Nhận xét

Có thể thấy sự khác nhau giữa chủ trương 1930 – 1931 với chủ trương đấu tranh
giành quyền dân chủ dân sinh thể hiện ở việc tập trung lực lượng cách mạng khi ở giai
đoạn 1930-1935 chỉ tập trung thành lập liên minh cơng nơng cịn trong khi đó trong
q trình đấu tranh dân chủ dân sinh thì đã có thể liên kết tập trung mọi lực lượng và
giai cấp trong xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương. Việc quần
chúng nhân dân bước đầu giác ngộ về mặt chính trị, dần dần trở thánh lực lượng chính
trị hùng hậu cho cách mạng hay cán bộ cách mạng được tập hợp,dần trường thành và
tích lũy nhiều bài học xương máu cho công cuộc đấu tranh dài hạn về sau. Phương
pháp đấu tranh khi ở giai đoạn về sau, trong bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế,
14


điều kiện xả hội cũng như mục tiêu đường lối trước mắt có sự thay đổi rất lớn từ việc
bạo lực cách mạng, vũ trang, bí mật, bất hợp pháp sang hình thức đấu tranh chính trị
hồ bình, cơng khai, hợp pháp
2.

Chung quanh vấn đề chính sách mới (10-1936)

Tháng 10/1936, Trung ương Đảng tổ chức do Hà Huy Tập làm tổng Bí thư,
cùng với việc đề ra chủ trương mới đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc dân
chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương.
2.1.

Nhiệm vụ cách mạng


Về nhiệm vụ cách mạng, trong văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới
10/1936”, Đảng đã nêu một quan điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng khơng nhất định
phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là khơng thể nói rằng muốn đánh đổ
đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì
cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ khơng xác đáng”.
2.2.

Lực lượng cách mạng

Về lực lượng cách mạng, ngồi nơng dân làm vai trị nịng cốt, cịn có đơng đảo
tầng lớp, giai cấp tập hợp trong mặt trận dân chủ còn về mặt phạm vi dân tộc thì ở Việt
Nam diễn ra cuộc vận động to lớn và mạnh mẽ vì các quyền dân sinh, dân chủ với sự
tham gia của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là kết quả của sự
phối hợp, quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng Việt Nam và thế giới.
2.3 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Nhiệm vụ chống đế quốc là cần thiết cho lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết
điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước tập trung
đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa. Nên nếu phát triển cuộc đấu,

15


tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan
trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất là
chống phát xít, sau đó là đế quốc và cuối cùng là vấn đề điền địa.
So với
Với quan điểm văn kiện “Chung quanh vấn đề về chiến sách mới”, văn kiện đã
phê phán “Luận cương chính trị 10/1930” khi chỉ biết đặt đấu tranh giai cấp lên hàng
đầu và khắc phục những hạn chế đó qua đường lối mới khi đặt trọng trách dân tộc,
chống phát xít ưu tiên hàng đầu sau đó chống đế quốc, nhờ đó tập hợp được lực lượng

quần chúng đơng đảo, từ nơng dân, cơng nhân tới tầng lớp trí thức, cán bộ cách mạng.
3.

Tiểu kết

Tóm lại, so với giai đoạn đấu tranh 1930-1935, cuộc vận động dân chủ
1936-1939 là một phong trào đấu tranh chính trị diễn ra trên quy mơ rộng lớn, hình
thức đấu tranh phong phú, lơi cuốn đơng đảo quần chúng tham gia dưới sự lãnh đạo và
lớn mạnh của Đảng cộng sản Đông Dương. Đảng cũng cho thấy đã có sự thích nghi
với các bước thay đổi chủ trương sách lược, hình thức tập hợp lực lượng và hình thức
đấu tranh phải khác nhau để phù hợp với hoàn cảnh thế giới và trong nước.“Chủ
trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh 7/1936” đánh dấu sự trưởng thành từng
bước của Đảng về tất cả những mặt tư tưởng và chính trị khi đã giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng,
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Chung quanh vấn đề chiến sách mới (10/1936)
của Đảng chỉ rõ hai nhiệm vụ chống đế quốc và cách mạng ruộng đất không thể thực
hiện song song và kết hợp một cách máy móc, gây bất lợi cho cuộc đấu tranh dân tộc.
Những quan điểm trong văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới” phù hợp yêu
cầu thực tiễn, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị và khẳng định
tính đúng đắn của Cương lĩnh đầu tiên trong giải quyết mối quan hệ chống đế quốc và
chống phong kiến của Đảng.

16


Chủ trương của Đảng 1936 – 1939 chỉ có tính chất sách lược nhưng rất kịp thời
và phù hợp với tình hình mới. Phong trào dân chủ 1936 – 1939 để lại nhiều bài học về
xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất; về kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu
trước mắt, về sử dụng các hình thức đấu tranh….Đồng thời Đảng cũng xây dựng được
lực lượng quần chúng được giác ngộ về chính trị, trở thành lực lượng chính hùng hậu

của cách mạng,cán bộ được tập hợp và trưởng thành
III.

Giai đoạn 3 (1939 – 1945)
1.

Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 6 (11/1939)
1.1.

Bối cảnh lịch sử

Từ ngày phát xít Nhật bắn phát súng đầu tiên ở miền Đông Bắc Trung Quốc
(18-9-1931) để mở màn cho cuộc đế quốc chiến tranh lần thứ hai thì một số các nước
hèn yếu kế tiếp bị xâm lược. Cuộc chiến tranh cứ liên miên hoài cho tới ngày Đức
đánh Ba Lan và Pháp - Anh tuyên chiến với Đức (đầu tháng 9-1939) thì nó đã lan rộng
khắp thế giới và bước qua một giai đoạn khác.
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp ở Đông Dương
tiến hành khủng bố Đảng Cộng sản Đơng Dương và các đồn thể quần chúng. Trước
tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong ba ngày 6, 7,
8-11-1939 được triệu tập tại Bà Điểm (Hóc Mơn, Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Cừ chủ trì, nhằm giải quyết vấn đề chuyển hướng đường lối và phương pháp cách
mạng trong tình hình mới.
1.2.

Nhiệm vụ, lực lượng và phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
1.2.1.

Nhiệm vụ

Nhiệm vụ chiến lược:

Mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc
và tay sai, giải phóng các dân tộc Đơng Dương, làm cho Đơng Dương hồn tồn độc
lập. Hội nghị đã làm rõ mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, trong
đó xác định rõ nhiệm vụ phản đế là quan trọng, làm rõ thêm tính chất khăng khít nhưng
khơng tiến hành cùng lúc hai nhiệm vụ đó.

17


Nhiệm vụ cụ thể:
Hội nghị chủ trương tạm thay đổi khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất
cho dân cày”, bằng khẩu hiệu "tịch ký ruộng đất của đế quốc và việt gian cho dân cày
nghèo…" nhằm tập trung mọi lực lượng phục vụ nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến
tranh đế quốc, giành độc lập dân tộc.
Nhằm đoàn kết các giai cấp và đảng phái các dân tộc, Đảng quyết định chuyển
từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh lật đổ chính quyền của đế quốc và
tay sai. Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
(gọi tắt là Mặt trận Phản đế Đông Dương) thay cho Mặt trận Dân chủ Đơng Dương.
Khơng chỉ vậy, khẩu hiệu “lập chính quyền Xô viết công, nông binh” được thay thế
bằng khẩu hiệu “lập chính quyền dân chủ cộng hồ”.
1.2.2.

Lực lượng cách mạng

Hội nghị xác định được lực lượng chính của cách mạng là công nông dựa vào
các tầng lớp trung sản thành thị, thôn quê và đồng minh trong chốc lát hoặc trung lập
giai cấp tư sản bổn xứ, trung tiểu địa chủ. Mặt trận ấy phải dưới quyền chỉ huy của vô
sản giai cấp.
1.2.3.


Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Hội nghị đã đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng: đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu, đưa nhân dân ta bước vào thời ký chuẩn bị trực tiếp vận động
cứu nước. Thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo, giúp giương cao
ngọn cờ giải phóng dân tộc, đồn kết rộng rãi các tầng lớp, giai cấp và dân tộc đông
Dương trong cùng một Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
1.3.

Nhận xét

Hội nghị BCHTƯ lần thứ 6 đánh dấu một bước phát triển quan trọng về lý luận
và đường lối phương pháp cách mạng của Đảng Cộng sản đơng Dương. Đảng đã xác
định chính xác được lực lượng cách mạng chính. Đảng đã thể hiện sự nhạy bén về
chính trị và năng lực sáng tạo, giúp giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp, giai cấp và dân tộc đông Dương trong cùng một Mặt trận Dân tộc
Thống nhất. Tuy nhiên vẫn còn vài mặt hạn chế như đã xác định được hai mục tiêu là
18


2.

Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 7 (11/1940)
2.1.

Bối cảnh lịch sử

Tháng 6-1940, Pháp đầu hàng phát xít Đức, lập Chính phủ bù nhìn Visi (Vichy).Lợi
dụng cơ hội này, từ cuối tháng 9-1940, phát xít Nhật kéo quân vào chiếm Đông Dương.
Nhân dân Đông Dương lâm vào tình cảnh “một cổ hai trịng”. Trước tình hình đó, từ ngày

6-9/11/1940 hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 do đồng chí Trường Chinh chủ
trì đã được tổ chức tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh với sự tham gia của các đồng chí
Hạ Bá Cang, Hoàng Văn Thụ, Phan Đăng Lưu,Trần Đăng Ninh.
2.2.

Nhiệm vụ, lực lượng và phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
2.2.1.

Nhiệm vụ

Nhiệm vụ chiến lược
Tại hội nghị này Trung ương vẫn khẳng định “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách
mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn”, điều này là khác biệt lớn với luận
cương chính trị được soạn thảo tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương là
luận cương nhấn mạnh vào cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp.
Nhiệm vụ cụ thể
Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách
mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực
hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo
động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực
lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hồn tồn giải phóng.
Tại hội nghị, Đạng khẳng định lại một lần nữa nhiệm vụ chống đế quốc với
“khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng
hơn”, “Cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái
làm trước cái làm sau”

19


2.2.2.


Lực lượng cách mạng

Giai cấp vô sản, bao gồm cả vô sản thành thị là giai cấp công nhân và vô sản
nông thôn là giai cấp nông dân, các giai cấp khác được coi là lực lượng dự trữ của cách
mạng; tập hợp toàn bộ lực lượng phản đế và phản phong trên tồn cõi Đơng Dương
thành một mặt trận thống nhất, gọi là Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế.
2.2.3.

Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Đảng vẫn chủ trương giữ vững giải quyết vấn đề độc lập dân tộc trên tồn Đơng
Dương, vận động thành lập những đoàn thể phản đế ở mỗi nước Lào và Campuchia và
đưa tất cả các đoàn thể ấy vào một mặt trận thống nhất, Mặt trận dân tộc thống nhất
Đông Dương.
2.3.

Nhận xét

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 đã chỉ ra tính chất của cách mạng
Đơng Dương là làm cách mạng giải phóng dân tộc với 2 nhiệm vụ phản đế và điền địa,
tập trung vào đấu tranh giai cấp và ruộng đất, tuy nhiên, đó là điều mà đã được xác
định là không phù hợp với thực tiễn xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Phương pháp cách
mạng được hội nghị đề ra đó là phương pháp khởi nghĩa vũ trang. Ngồi ra, hội nghị
đã có chủ trương đúng về hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ.
3.

Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 8 (5/1941)
3.1.


Bối cảnh lịch sử

Phát xít Đức sẽ tấn cơng Liên Xơ và chiến tranh Thái Bình Dương sẽ bùng nổ.
Phe Đồng minh chống phát xít nhất định sẽ thắng lợi, phe phát xít nhất định sẽ thất bại,
phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị nhận định rằng cuộc
cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới, của phong trào dân
chủ chống phát xít.

20


Sau khi về nước một thời gian, với tư cách là đại biểu Quốc tế Cộng sản, đồng
chí Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941. Hội nghị tổ chức trong rừng Khuổi Nậm,
thuộc Pác Bó (Hà Quảng - Cao Bằng). Dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh,
Hồng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt, Vũ Anh và một số đồng chí khác.
3.2.

Nhiệm vụ, lực lượng và phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
3.2.1.

Nhiệm vụ

Nhiệm vụ chiến lược:
Đảng và toàn dân trong giai đoạn này chung sức đẩy mạnh công tác chuẩn bị
cuộc khởi nghĩa vụ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một
cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà
mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lơn. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tự do,
hạnh phúc cho đồng bào là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông Dương.
Nhiệm vụ cụ thể:

Tại hội nghị đã đề ra các nhiệm vụ cấp thiết cần làm gồm: đào tạo cán bộ, cán
bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và tăng thêm thành phần vô
sản trong Đảng, đồng thời cũng tiến hành bầu ra Ban Chấp hành Trung ương chính
thức. Hội nghị cũng xác định phương pháp đấu tranh là khởi nghĩa vũ trang từng phần,
mở đường cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền
3.2.2.

Lực lượng cách mạng

Hội nghị đã xác định, để đạt được cách mạng thành cơng thì cần sự tham gia
của tồn bộ thể nhân dân 3 nước Đông Dương, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân
tộc nào. Tất cả tập hợp trong mặt trận dân tộc phản đế, lấy tên là Mặt trận Việt Nam
Độc lập đồng minh (gọi tắc là Việt minh), lấy Đảng Cộng sản Đơng Dương là hạt nhân
chính trị và lãnh đạo.Từ đó chúng ta mới có khả năng và nguồn lực để thực hiện cách
mạng.

21


3.2.3.

Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Tuyên bố thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh, lấy chủ trương: “Liên hiệp
hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tơn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị
nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập
cho xứ sở. Việt Nam Độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao độc lập đồng
minh và Cao Miên độc lập đồng minh để cùng thành lập Đông Dương độc lập đồng
minh hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế tồn Đơng Dương để đánh được kẻ
thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà.”.

3.3.

Nhận xét

Hội nghị đã xác định được lực lượng tiến hành cách mạng này là toàn dân Việt
Nam bao gồm tất cả các tầng lớp, tổ chức chính trị, giai cấp, tơn giáo, dân tộc, lứa
tuổi,.
Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng mang một ý nghĩa lịch sử đặc biệt
quan trọng đối với cách mạng nước ta. Nghị quyết của hội nghị thể hiện một cách sâu
sắc và hoàn chỉnh về vấn đề giải phóng dân tộc, về sự thay đổi chiến lược cách mạng
được vạch ra từ Hội nghị lần thứ 6 (11/1939), chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng
thời hai nhiệm vụ phản đế, phản phong sang chiến lược giải phóng dân tộc Hội nghị đã
đặt nhiệm vụ giải phóng, đánh dấu bước tiến mới trong tư duy cách mạng và sự lãnh
đạo của Đảng, dân tộc lên hàng đầu, tập hợp những người Việt Nam yêu nước trong
Mặt trận Việt Minh; có ý nghĩa quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 8 và những chủ trương sáng suốt của Nguyễn Ái
Quốc được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu thực hiện, đi đến thành
cơng.
4.

Tiểu kết

Từ những thành cơng, khó khăn và kinh nghiệm đã đạt được ở các giai đoạn cao
trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939 đã giúp cho dân tộc ta nói chung và Đảng nói
riêng có những bài học giá trị, giúp ích trực tiếp trong việc tập hợp và lãnh đạo dân tộc
trong cuộc cách mạng.Về nhiệm vụ, Hội nghị Trung ương 8 đã đánh dấu một bước rất
22


lớn trong việc nhận định tầm quan trọng của cả hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống

phong kiến, thực hiện cả 2 nhiệm vụ cùng lúc với mức độ quan trọng tương đương
nhau .Về lực lượng trong cách mạng, hai Hội nghị Trung ương 6 và 7 đã nêu ra quan
điểm mới so với Luận cương chính trị tháng 10 – 1930: lập Mặt trận rộng rãi tập hợp
mọi giai cấp, tầng lớp. Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc, hai Hội nghị trên vẫn
theo quan điểm xun suốt từ tháng 10 – 1930 là tồn Đơng Dương. Với những sự thay
đổi từ Hội nghị Trung ương 6 đến Hội nghị Trung ương 8 về nhiệm vụ cách mạng, lực
lượng và phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc chính là sự vượt lên hồn tồn khỏi tư duy
cũ của Hội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930. Từ bước ngoặt lịch sử đó, cách mạng
Việt Nam bước vào thời kỳ gấp rút chuẩn bị lực lượng, tồn thể nhân dân ta đồn kết
một lịng dưới lá cờ của Mặt trận Việt Minh, sẵn sàng tổng khởi nghĩa giành chính
quyền khi thời cơ tới.
IV.

Tổng kết
Trên con đường hoàn thiện được đường lối chiến lược cho cuộc cách mạng giải

phóng dân tộc dưới sự đơ hộ của thực dân Pháp trong giai đoạn từ 1930 đến 1945,
Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng hết sức kịch liệt và kiên cường. Từ
trực tiếp tuyên truyền, giáo dục phổ cập kiến thức, vận động tổ chức quần chúng đấu
tranh chống đế quốc thực dân, chống khủng bố dã man, vừa phát triển những lực lượng
bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích” khi
những định hướng đề ra không phù hợp với con đường cách mạng đương thời,... Trong
suốt một quá trình dài, những nội dung liên quan đến chính trị, kinh tế - xã hội và văn
hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta ban đầu cịn chưa chuẩn chỉnh,
khơng phù hợp với xu thế của các cuộc cách mạng thời bấy giờ. Tuy nhiên trong
khoảng thời gian sau đã đáp ứng đúng những yêu cầu khách quan của lịch sử và khát
vọng độc lập tự do của toàn dân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới. So
với giai đoạn đấu tranh đầu tiên 1930-1935, giai đoạn ra đời của hai luận cương chính
trị tháng 10 năm 1930 và nghị quyết đại hội đại biểu lần đầu tiên tháng 3 năm 1935 với
việc Đảng ưu tiên đánh đuổi thực dân Pháp giành quyền lợi cho toàn bộ giai cấp nên

nhận được nhiều sự ủng hộ, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đã có bước biến chuyển
23


mới, trở thành một phong trào quần chúng rộng lớn, có sự tổ chức dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương. Và giai đoạn 3, từ 1930 - 1945, từ hội nghị 6 đến 8,
Đảng ta đã dần hồn thiện q trình chuyển hướng chiến lược nhằm mục tiêu độc lập
dân tộc, đây là chủ trương đúng đắn trong tình hình mới.
Tóm lại, qua khoảng thời gian tìm hiểu, vạch ra các đường lối cách mạng, cùng
với chỉnh sửa và hoàn thiện, Đảng đã chỉ ra được đường lối chiến lược cách mạng giải
phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (tháng 5/1941) là
ngọn đèn pha soi sáng, cũng như là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành
thắng lợi vĩ đại trong cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
V.

Tài liệu tham khảo

-

Giáo trình Lịch sử Đảng

-

Đại hội đại biểu lần thứ nhất (3/1935)

-

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất


-

LỊCH SỬ BIÊN NIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TẬP 2

-

Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trong đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)

-

Chủ trương đòi quyền dân chủ dân sinh

-

Phong trào dân chủ

24


×