Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bản án sơ thẩm không công nhận vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.36 KB, 10 trang )

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 93/2016/HNGĐ - ST
Ngày: 03/11/2016
V/v không công nhận vợ chồng
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa: Ơng Hồng Ngọc Thụ.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ơng Đỗ Huy Hồng;
2. Ơng Trần Đăng Khoa.
Thư ký Tịa án ghi biên bản phiên tịa: Ơng Lương Khánh Sơn - Cán bộ Tòa
án nhân dân thành phố Hải Phòng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phịng: Ơng Nguyễn Văn
Thuận-Kiểm sát viên
Ngày 03 tháng 11 năm 2016 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phịng
xét xử cơng khai vụ án thụ lý số 72/2016/TLST - HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm
2016 về việc " Không công nhận vợ chồng" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số 1286/2016/QĐST - HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2016 giữa các đương sự.
1. Nguyên đơn: Chị Lê Bích Ngọc, sinh năm 1990; Địa chỉ: Xóm Gương
Mẫu, thơn Hồng Lâu, xã Hồng Phong, huyện An Dương, Hải Phịng;
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngun đơn: Ơng Phạm Xn
Thủy-Văn phịng Luật sư Đơng Bắc-Chi nhánh Cơng ty Luật TNHH Đơng Bắc


thuộc Đồn Luật sư tỉnh Quảng Ninh
2. Bị đơn: Anh Jung Inkyo, sinh năm 1968; Địa chỉ cư trú tại Hàn Quốc: 6549 Jeongdam-gil, Paju-si, Gyunggi-do, Korea (Hàn Quốc).
Hiện tạm trú tại Việt Nam: Công ty TNHH Bucheon thuộc nhà xưởng C3-6
lô C3 khu Cơng nghiệp Tràng Duệ, huyện An Dương, Hải Phịng. Quốc tịch: Hàn
Quốc.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ơng Nguyễn Quang Khải, sinh
năm 1976; địa chỉ: Thơn Trang Quan, xã An Đồng, huyện An Dương, Hải Phòng.

1


3. Người phiên dịch do anh Jung Inkyo mời: Chị Phạm Thị Thủy, sinh năm
1975; địa chỉ: Số 68 thôn Trang Quan, xã An Đồng, huyện An Dương, Hải
Phòng.
Chị Ngọc, ông Thủy, anh Jung Inkyo, anh Khải, chị Thủy đều có mặt tại
phiên tịa.
NHẬN THẤY
Trong đơn khởi kiện của ngun đơn và các lời khai tại Tòa án là chị Lê
Bích Ngọc trình bày: Năm 2014 chị và anh Jung Inkyo có chung sống với nhau
như vợ chồng đến nay đã có 01 con chung. Giữa chị và anh Jung Inkyo khơng có
đăng ký kết hơn, khơng làm thủ tục đăng ký kết hơn vì anh Jung Inkyo là người
nước ngồi nên làm thủ tục kết hơn rất phức tạp. Anh chị chung sống hạnh phúc
với nhau được 1 thời gian ngắn. Trong thời gian chung sống chị đã nhiều lần yêu
cầu anh Jung Inkyo đăng ký kết hôn nhưng anh liên tục từ chối. Qua tìm hiểu chị
được biết anh Jung Inkyo đã có vợ con nên từ đó phát sinh mâu thuẫn. Nay để
đảm bảo quyền lợi cho chị và cháu Lê Tuấn Kiệt, sinh ngày 03 tháng 01 năm
2016 chị đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phịng khơng cơng nhận quan hệ
vợ chồng giữa chị và anh Jung Inkyo.
- Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Lê Tuấn Kiệt, sinh ngày
03/01/2016, hiện nay cháu đang ở với chị. Sau khi có quyết định của Tịa án

khơng cơng nhận vợ chồng giữa chị và anh Jung Inkyo. Chị đề nghị Tòa án giao
con chung cho chị nuôi dưỡng đến khi trưởng thành.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Tại đơn khởi kiện chị đề nghị Tòa án giải quyết
theo quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án chị Lê Bích Ngọc
đề nghị Tịa án buộc anh Jung Inkyo cấp dưỡng nuôi con chung là 10.000.000
đồng/ tháng.
- Về tài sản chung: Anh chị khơng có tài sản chung nên khơng u cầu Tịa
án giải quyết.
Bị đơn anh Jung Inkyo trình bày: Khoảng đầu năm 2014 anh có quen chị Lê
Bích Ngọc một vài lần tại nhà bà chủ nấu ăn cho cơng ty, sau đó chị Ngọc đã chủ
động làm quen và có rủ anh đi ăn uống, do cả nể anh đã đi uống nước và có lần
ăn tối cùng chị Ngọc. Vì bản thân anh khơng biết uống rượu bia nên có lần anh
say nên chị Ngọc đưa anh về nhà. Kể từ đó khoảng 1 năm trở lại đây anh và chị
Ngọc khơng cịn liên lạc không gặp nhau. Tuy nhiên gần đây chị Ngọc cho biết
chị đã sinh con, đứa con đó chị xác định là con của anh.
Sau khi chị Ngọc có đơn khởi kiện tại Tịa án nhân dân thành phố Hải Phịng
thì anh có u cầu phản tố đề nghị Tịa án ra quyết định giám định ADN để khẳng
định cháu Lê Tuấn Kiệt, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2016 là con đẻ của anh.

2


Về cấp dưỡng ni con chung: Anh Jung Inkyo có 02 phương án cấp dưỡng
nuôi con chung:
Phương án thứ nhất: Anh sẽ cấp dưỡng 1 lần cho chị Lê Bích Ngọc nuôi
cháu Lê Tuấn Kiệt với số tiền 150.000.000 đồng cho đến khi cháu Lê Tuấn Kiệt
trưởng thành cộng với số tiền 47.000.000 đồng anh đã đưa cho chị Ngọc trước
đó. Tổng cộng là 200 triệu.
Phương án thứ hai: Hàng tháng anh cấp dưỡng tiền nuôi con chung là
2.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung: Anh chị khơng có tài sản chung nên khơng u cầu Tịa án
giải quyết.
Tại phiên tịa hơm nay: Chị Lê Bích Ngọc và người bảo vệ quyền, lợi ích
của ngun đơn thống nhất trình bày: Chị vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, qua
hai lần hòa giải của Tòa án chị và anh Jung Inkyo thống nhất được về quan hệ
hôn nhân giữa chị và anh Jung Inkyo không phải là vợ chồng.
Về con chung: Chị và anh Jung Inkyo đều thừa nhận và khơng có ý kiến
phản đối với Kết luận giám định số 25/2016/GĐSV của Cơng an thành phố Hải
Phịng đã kết luận anh Jung Inkyo là cha đẻ của cháu Lê Tuấn Kiệt, sinh ngày 03
tháng 01 năm 2016 với độ tin cậy là 99,9999...% ( chín chín phẩy chín chín chín
chín...phần trăm). Chị đề nghị Tòa án giao con chung là cháu Lê Tuấn Kiệt, sinh
ngày 03/01/2016 cho chị nuôi dưỡng đến khi trưởng thành.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Hai bên chưa thống nhất được vì vậy chị đề
nghị Tịa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Thực tế chị phải chi phí ni con hàng tháng bao gồm các khoản sau:
- Tiền thuê người giúp việc: 3.000.000 đồng/tháng;
- Tiền mua sữa, bỉm, đồ ăn ngồi giờ trơng trẻ: 2.000.000 đồng/tháng;
- Tiền quần áo, sinh hoạt tinh thần cho cháu: 1.000.000 đồng/ tháng.
Tổng số tiền là 6.000.000 đồng/tháng.
Ngồi ra chị khơng có cơng việc ổn định hơn nữa hai mẹ con chị phải đi
th nhà ở nên rất khó khăn. Vì vậy chị đề nghị anh Jung Inkyo cấp dưỡng cho
cháu Lê Tuấn Kiệt theo một trong hai phương án: Phương án thứ nhất: Anh Jung
Inkyo thanh toán một lần với tổng số tiền là 500.000.000 đồng
Phương án thứ hai: Anh Jung Inkyo phải cấp dưỡng mỗi tháng từ 7.000.000
đồng đến 10.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung là cháu Lê Tuấn Kiệt
được đủ 18 tuổi.
Đối với mức cấp dưỡng hàng tháng như phía anh Jung Inkyo đưa ra là
2.000.000 đồng/ tháng hoặc đưa một lần với số tiền 160.000.000 đồng là không

3



đủ đáp ứng yêu cầu chăm nuôi cháu Lê Tuấn Kiệt. Ngồi ra sẽ có trượt giá nên
những thời gian sau này sẽ khơng đủ để chị Ngọc chăm sóc cháu Lê Tuần Kiệt.
Chị Lê Bích Ngọc và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ngun đơn
có ý kiến không đồng ý với bảng lương của anh Jung Inkyo cung cấp và yêu cầu
Tòa án xác minh mức lương của anh Jung Inkyo thông qua cơ quan thuế. Vì cho
rằng mức lương của anh Jung Inkyo là rất cao phải khoảng 80.000.000 đồng/ tháng.
Về tài sản chung: Chị và anh Jung Inkyo khơng có tài sản chung nên khơng
u cầu Tịa án giải quyết.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Jung Inkyo và anh Jung Inkyo thống
nhất trình bày: Thực tế anh và chị Ngọc chỉ quan hệ ở mức độ tình bạn mà khơng
hề có tình yêu. Khi chị Ngọc báo cho anh biết chị Ngọc đã có thai anh đã yêu cầu
chị Ngọc phá thai và chị Ngọc yêu cầu anh chuyển tiền để chị Ngọc phá thai. Khi
anh đã chuyển cho chị Ngọc 47 triệu đồng để chi phí phá thai nhưng chị Ngọc
khơng thực hiện mặc dù đã nhận tiền. Việc chị Ngọc sinh con là hoàn toàn ngoài
ý muốn của anh nên chị Ngọc phải chịu trách nhiệm chính cịn anh chỉ đóng góp
hàng tháng là 2.000.000 đồng chỉ mang tính hỗ trợ.
Việc chị Ngọc nêu ra chi phí ni con hàng tháng 6 triệu đồng là cao, vì
thực tế việc thuê người trông con chỉ dao động từ 1,5 triệu đến 2 triệu đồng. Mặt
khác việc đóng góp ni con phải căn cứ vào mặt bằng sinh hoạt và quy định của
pháp luật Việt Nam và phải căn cứ vào mức lương tối thiểu vùng quy định tại Hải
Phòng là 3.200.000 đồng/tháng. Vì vậy anh khơng chấp nhận u cầu về mức cấp
dưỡng nuôi con của chị Ngọc. Anh chỉ đồng ý đóng góp ni con là 2 triệu
đồng/tháng. Ngồi ra anh Jung Inkyo cam đoan Bản xác nhận lương của anh Jung
Inkyo là đúng sự thực, nếu sai thì anh hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm
về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm
phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng quy định của pháp luật việc chấp hành
pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng

xét xử nghị án khơng có gì sai phạm.
Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng
về việc giải quyết vụ án:
- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là quan hệ tranh
chấp ly hôn, nuôi con chung có yếu tố nước ngồi thuộc thẩm quyền giải quyết
của TAND thành phố Hải Phòng theo quy định của khoản 1 Điều 28, điểm a
khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngọc và anh Jung Inkyo đều có lời khai thống
nhất, phù hợp với tài liệu điều tra thể hiện cả hai có quan hệ như vợ chồng với
nhau nhưng anh Jung Inkyo đã có vợ, con đang trong thời kỳ hôn nhân bên Hàn

4


Quốc. Vì vậy cả hai đều xác định quan hệ giữa chị Ngọc và anh Jung Inkyo
không phải là quan hệ vợ chồng. Quan hệ của chị Ngọc và anh Jung Inkyo đã vi
phạm điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hơn nhân và Gia đình nên cần chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của chị Ngọc và anh Jung Inkyo là có căn cứ.
- Về ni con chung: Chị Ngọc đề nghị được nuôi con chung và yêu cầu anh
Jung Inkyo phải cấp dưỡng. Chị Ngọc cho rằng hàng tháng chị phải chi trả tiền
cho cháu bé gồm trả tiền cho người trông trẻ là 3.000.000 đồng, mua bỉm, sữa, đồ
ăn ngồi giờ trơng trẻ là 2 triệu, tiền quần áo, sinh hoạt tinh thần cho cháu bé là 1
triệu đồng. Tổng số tiền là 6 triệu đồng/tháng. Ngoài ra chị Ngọc hiện tại chưa có
nhà riêng, chưa có nơi ở ổn định nên anh Jung Inkyo phải hỗ trợ cho chị Ngọc
tiền thuê nhà. Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng
mức cấp dưỡng hàng tháng như phía anh Jung Inkyo đưa ra là 2 triệu đồng/tháng
hoặc đưa một lần 160 triệu là không đủ đáp ứng u cầu chăm ni cháu Kiệt.
Ngồi ra sẽ có sự trượt giá nên những thời gian sau này sẽ khơng đủ để chị Ngọc
chăm sóc cháu Kiệt. Chị Ngọc và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn có đưa ra quan điểm về việc cấp dưỡng theo một trong hai phương

án. Một là thanh toán một lần với tổng số tiền là 500 triệu, hai là anh Jung Inkyo
phải cấp dưỡng một tháng từ 7 triệu đồng đến 10 triệu đồng cho đến khi con
chung là cháu Lê Tuấn Kiệt được đủ 18 tuổi. Nếu phía anh Jung Inkyo khơng
chấp nhận theo đề nghị của chị Ngọc thì đề nghị xét xử theo pháp luật. Ngồi ra,
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ngun đơn có ý kiến khơng đồng ý với
bảng lương của anh Jung Inkyo cung cấp và yêu cầu Tịa án xác minh lương của
anh Jung Inkyo thơng qua cơ quan thuế. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của nguyên đơn cho rằng mức thu nhập của anh Jung Inkyo là rất cao phải vào
khoảng 80 triệu đồng/ tháng.
Theo người được anh Jung Inkyo ủy quyền, mức sống tối thiểu vùng tại
thành phố Hải Phòng được quy định là 3.200.000 đồng/ tháng nên chỉ chấp nhận
cấp dưỡng 2 triệu đồng/tháng. Với sự tính tốn như chị Ngọc đưa ra thì là hơi cao
so với mức sống trung bình tại Hải Phịng nhưng có thể chấp nhận được. Việc
nuôi cháu Kiệt phải do cả chị Ngọc và anh Jung Inkyo cùng chịu trách nhiệm,
khơng thể chỉ một mình anh Jung Inkyo phải chịu trách nhiệm. Nếu chị Ngọc
không chấp nhận thì đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật. Ngồi ra phía
anh Jung Inkyo cam đoan bản xác nhận lương của anh Jung Inkyo là đúng sự
thực. Nếu sai thì người cung cấp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Xét thấy, anh Jung Inkyo đã có gia đình bên Hàn Quốc, cháu Lê Tuấn Kiệt
chỉ được xác định là con ngoài giá thú của anh Jung Inkyo. Đồng thời chị Ngọc
có u cầu được ni con. Vì vậy giao cháu Lê Tuấn Kiệt cho chị Ngọc nuôi
dưỡng là hồn tồn có căn cứ.

5


Về trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung, xét thấy trách nhiệm nuôi dạy
con chung là nghĩa vụ chung của bố, mẹ. Vì vậy, việc ni cháu Lê Tuấn Kiệt là
trách nhiệm chung của cả chị Ngọc và anh Jung Inkyo. Căn cứ vào chi phí ni
con như chị Ngọc đã đưa ra thì anh Jung Inkyo có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu

Lê Tuấn Kiệt là 3.000.000 đồng/ tháng là có cơ sở chấp nhận.
Về tài sản chung: Chị Ngọc và anh Jung Inkyo đều tự khai khơng có tài sản
chung khơng đề nghị Tịa án giải quyết. Vì vậy khơng xem xét giải quyết.
Từ phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 5,
Điều 8, Điều 9, Điều 14, Điều 15 của Luật Hơn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 3
Thông tư liên tịch số 01 ngày 06/01/2016 của Liên ngành Tòa án, Viện kiểm sát,
Bộ Tư pháp; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Bích Ngọc, khơng chấp nhận quan
hệ vợ chồng giữa chị Lê Bích Ngọc và anh Jung Inkyo.
- Chấp nhận cho chị Ngọc được nuôi cháu Lê Tuấn Kiệt, anh Jung Inkyo có
nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Lê Tuấn Kiệt 3.000.000 đồng/ tháng cho đến khi
cháu Lê Tuấn Kiệt đủ 18 tuổi.
- Về tài sản chung: Các đương sự khơng u cầu Tịa án giải quyết nên
khơng xem xét giải quyết.
Căn cứ pháp lệnh, án phí Tịa án buộc chị Ngọc phải chịu 200.000 đồng án
phí ly hôn sơ thẩm và anh Jung Inkyo phải chịu 200.000 đồng án phí cấp dưỡng
ni con.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tịa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng dân sự: Chị Lê Bích Ngọc có đơn đề nghị Tịa án nhân dân
thành phố Hải Phịng giải quyết việc hơn nhân của anh chị. Theo quy định tại
Khoản 3 Điều 35, điểm b Khoản 1 Điều 37, điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật
tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Về quan hệ hơn nhân: Năm 2014 chị Lê Bích Ngọc và anh Jung Inkyo
quen biết nhau và nảy sinh tình cảm, có thời gian chung sống như vợ chồng được
1 thời gian ngắn nhưng khơng có đăng ký kết hơn. Sau đó chị Lê Bích Ngọc và
anh Jung Inkyo khơng cịn chung sống với nhau nữa. Trong q trình giải quyết
vụ án cũng như tại các biên bản hòa giải cũng như tại phiên tịa hơm nay cả chị

Lê Bích Ngọc và anh Jung Inkyo đều thống nhất khơng có quan hệ vợ chồng. Vì
vậy chị Lê Bích Ngọc đề nghị Tịa án khơng cơng nhận chị và anh Jung Inkyo là
vợ chồng là hồn tồn chính đáng cần được chấp nhận.

6


- Về con chung: Chị Lê Bích Ngọc trình bày trong quá trình chung sống
giữa chị và anh Jung Inkyo có 01 con chung là cháu Lê Tuấn Kiệt, sinh ngày 03
tháng 01 năm 2016. Sau khi có đơn khởi kiện của chị Lê Bích Ngọc, anh Jung
Inkyo có đơn đề nghị Tòa án giám định ADN để khẳng định cháu Lê Tuấn Kiệt là
con đẻ của anh do chị Ngọc sinh ra. Tại kết luận giám định số 25/2016/GĐSV
của Cơng an thành phố Hải Phịng đã kết luận anh Jung Inkyo là cha đẻ của cháu
Lê Tuấn Kiệt, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2016 với độ tin cậy là 99,9999...%
( chín chín phẩy chín chín chín chín...phần trăm).
Xét lời khai của chị Lê Bích Ngọc thống nhất và phù hợp với kết luận giám
định ADN và sau khi có kết luận giám định ADN anh Jung Inkyo khơng phản đối
với bản kết luận giám định. Như vậy khẳng định anh Jung Inkyo là cha đẻ của
cháu Lê Tuấn Kiệt, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2016 do chị Lê Bích Ngọc sinh ra
là hồn tồn có cơ sở, cần áp dụng Điều 88, Điều 101, Điều 102 của Luật Hơn
nhân và Gia đình năm 2014.
Về việc chăm sóc nuôi dưỡng con chung: Hiện nay cháu Lê Tuấn Kiệt, sinh
ngày 03 tháng 01 năm 2016 đang ở với chị Lê Bích Ngọc. Tại biên bản hịa giải
cũng như tại phiên tòa anh Jung Inkyo thống nhất với chị Lê Bích Ngọc giao con
chung là cháu Lê Tuấn Kiệt cho chị Ngọc nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Xét
việc thỏa thuận giữa chị Lê Bích Ngọc và anh Jung Inkyo là hoàn toàn tự nguyện,
phù hợp với quy định pháp luật, cần áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật
Hơn nhân và Gia đình năm 2014. Giao con chung là cháu Lê Tuấn Kiệt, sinh
ngày 03 tháng 01 năm 2016 cho chị Lê Bích Ngọc ni dưỡng đến khi trưởng
thành hoặc khi anh Jung Inkyo có yêu cầu khác.

Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.
- Về cấp dưỡng ni con chung: Chị Lê Bích Ngọc đề nghị Tịa án nhân dân
thành phố Hải Phịng buộc anh Jung Inkyo cấp dưỡng ni con chung là từ
7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng/ tháng đến khi trưởng thành hoặc chu cấp 1
lần với số tiền là 500 triệu đồng cho đến khi cháu Lê Tuấn Kiệt đủ 18 tuổi.
Nhưng anh Jung Inkyo không đồng ý.
Anh Jung Inkyo đề nghị Tịa án theo hướng cấp dưỡng ni con chung bằng
một trong hai phương án:
Phương án thứ nhất: Anh sẽ cấp dưỡng 1 lần cho chị Lê Bích Ngọc nuôi
cháu Lê Tuấn Kiệt với số tiền 150.000.000 đồng cho đến khi cháu Lê Tuấn Kiệt
trưởng thành cộng với số tiền 47.000.000 đồng anh đã đưa cho chị Ngọc trước
đó. Tổng cộng là 200 triệu.
Phương án thứ hai: Hàng tháng anh cấp dưỡng tiền nuôi con chung là
2.000.000 đồng/tháng.
Cả hai phương án anh Jung Inkyo đưa ra chị Lê Bích Ngọc cũng khơng
đồng ý.

7


Xét: Việc chăm sóc, ni dưỡng con chung là trách nhiệm nghĩa vụ của cả
chị Lê Bích Ngọc và anh Jung Inkyo. Để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho
cháu Lê Tuấn Kiệt có cuộc sống đảm bảo cũng như phát triển bình thường. Hội
đồng xét xử cần xem xét đến điều kiện kinh tế của mỗi người để áp dụng mức
cấp dưỡng cho phù hợp với thực tế.
Chị Lê Bích Ngọc đề nghị Tịa án buộc anh Jung Inkyo cấp dưỡng từ 7 triệu
đến 10 triệu đồng/tháng. Để chấp nhận đề nghị của chị Ngọc cần xem xét đến
điều kiện kinh tế của anh Jung Inkyo. Theo tài liệu chứng cứ anh Jung Inkyo
cung cấp thì lương tháng của anh là 15 triệu đồng/ tháng. Nếu buộc anh Jung
Inkyo phải chu cấp từ 7 triệu đến 10 triệu đồng/ tháng sẽ không đảm bảo sinh

hoạt của anh Jung Inkyo. Do đó khơng chấp nhận đề nghị của chị Lê Bích Ngọc.
Đối với đề nghị của anh Jung Inkyo cấp dưỡng 2 triệu đồng/ tháng Hội đồng
xét xử nhận thấy hiện nay chị Lê Bích Ngọc phải ni con nhỏ những điều kiện
tối thiểu như chị trình bày bao gồm trả tiền cho người trông trẻ là 3.000.000
đồng, mua bỉm, sữa, đồ ăn ngồi giờ trơng trẻ là 2 triệu, tiền quần áo, sinh hoạt
tinh thần cho cháu bé là 1 triệu đồng. Tổng số tiền là 6 triệu đồng/tháng. Thì mức
cấp dưỡng 2 triệu đồng/ tháng khơng thể đảm bảo cho cháu Lê Tuấn Kiệt do đó
cần căn cứ vào chi phí thực tế ni con của chị Ngọc cũng như áp dụng mức
lương tối thiểu vùng tại Hải Phòng để tăng mức cấp dưỡng lên 3 triệu đồng/
tháng mới đảm bảo cho sự phát triển của cháu Lê Tuấn Kiệt.
Từ phân tích trên Hội đồng xét xử buộc anh Jung Inkyo phải cấp dưỡng nuôi
con chung là cháu Lê Tuấn Kiệt, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2016 với mức cấp
dưỡng 3.000.000 đồng (ba triệu đồngtháng).
Về tài sản chung: Chị Lê Bích Ngọc và anh Jung Inkyo đều thống nhất
khơng có nên khơng u cầu Tịa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử khơng
đặt ra để giải quyết.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Bích Ngọc là nguyên đơn nên phải chịu
án phí ly hơn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Anh Jung Inkyo phải chịu án phí cấp dưỡng ni con chung theo quy định
của pháp luật.
- Về quyền kháng cáo chị Lê Bích Ngọc và anh Jung Inkyo được quyền
kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng Khoản 1 Điều 14, Điều 15, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

8



- Căn cứ Khoản 3 Điều 35, Điểm b Khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 39,
Khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 273, Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH 12 về án phí, lệ phí Tịa
án ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 12.
XỬ:
- Về quan hệ hơn nhân: Khơng cơng nhận chị Lê Bích Ngọc và anh Jung
Inkyo là vợ chồng.
- Về con chung: Chị Lê Bích Ngọc và anh Jung Inkyo có 01 chung là cháu
Lê Tuấn Kiệt, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2016. Giao con chung là cháu Lê Tuấn
Kiệt, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2016 cho chị Lê Bích Ngọc nuôi dưỡng đến khi
trưởng thành hoặc khi chị Ngọc và anh Jung Inkyo có u cầu khác.
Khơng ai được ngăn cản quyền gặp gỡ, chăm sóc con chung.
- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Buộc anh Jung Inkyo cấp dưỡng nuôi con
chung 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng)/tháng cho đến khi trưởng thành hoặc khi
chị Lê Bích Ngọc và anh Jung Inkyo có yêu cầu khác.
- Về tài sản chung: Chị Lê Bích Ngọc và anh Jung Inkyo thống nhất khơng
có và khơng u cầu Tịa án giải quyết nên Hội đồng xét xử khơng xem xét.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Bích Ngọc phải chịu 200.000 đồng (hai
trăm nghìn đờng) án phí sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân
sự sơ thẩm đã nộp là 200.000 đồng theo biên lai số 0003538 ngày 07 tháng 6 năm
2016 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị Ngọc đã nộp đủ.
Anh Jung Inkyo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đờng) án phí cấp
dưỡng ni con chung.
- Về quyền kháng cáo: Chị Lê Bích Ngọc và anh Jung Inkyo được quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều
2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người p0hải thi
hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,
7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy

định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Các Hội thẩm nhân dân

Đỡ Huy Hồng

Thẩm phán - Chủ toạ phiên tồ

Trần Đăng Khoa
9

Hoàng Ngọc Thụ


Nơi nhận:

T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TỊA

- VKSND TP Hải Phịng;
- THADS TP Hải Phịng;
- Đương sự (để thi hành);
- Lưu: TDS, hồ sơ.

Hoàng Ngọc Thụ

10




×