Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Bai viet so 6 ngu van lop 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.94 KB, 13 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Bài viết số 6 Ngữ văn lớp 9
Dàn ý bài viết số 6 Ngữ Văn 9 - Bài mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” và vẻ đẹp, số
phận bi kịch của Vũ Nương.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
Là cơ gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.
Ngày chồng tòng quân: nàng đau lịng, dặn dị và mong chồng bình an trở về.
Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ chăm sóc con trai và chăm sóc mẹ chồng
những ngày cuối đời.
→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công - dung - ngôn - hạnh” đáng
ngưỡng mộ.
→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm
hạnh tốt đẹp.
b. Số phận bi kịch của Vũ Nương
Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó đêm nào
cũng đến thăm nó → Trương Sinh đem lịng nghi ngờ, ghen tuông.
Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin
và thanh minh.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

→ Người phụ nữ khơng được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ thuộc


vào người đàn ơng tỏng gia đình. Tuy mình bị oan nhưng khơng được thanh minh.
Để chứng minh tấm lịng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sơng tự tử.
→ Đau khổ, xót thương trước số phận bất hạnh của nàng sau những điều tốt đẹp
nàn dã làm cho nhà chồng.
Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khuất của nàng đã vơ cùng đau xót nhưng
nàng khơng thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây
được coi là cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng
nàng cũng được minh oan và khiến cho người làm nàng đau khổ là Trương Sinh
nhận ra lỗi lầm, ân hận về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại nhân
gian để sống tiếp kiếp người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp
nàng đã làm.
3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp, số phận của Vũ Nương và giá trị của tác phẩm.

Dàn ý Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã
hội cũ qua nhân vật Vũ Nương - Bài mẫu 2
1. Mở bài
Từ xa xưa, người phụ nữ đã trở thành một đề tài quen thuộc trong các tác phẩm
văn chương, trong ca dao, trong những truyện dân gian.
Đến văn học trung đại: hình ảnh người phụ nữ đã được thể hiện cụ thể, sâu sắc hơn.
Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của
Nguyễn Dữ là nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn và số phận đầy đau khổ của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
2. Thân bài
a. Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời lại đầy đau khổ,
bất hạnh:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Là một người phụ nữ đẹp: vẻ đẹp hình thức (tư dung tốt đẹp); vẻ đẹp nhân cách
(yêu thương và thủy chung với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng, thương con, hết
lòng chăm lo hạnh phúc gia đình).
Phải chịu những đau khổ, bất cơng, ngang trái: bị chồng nghi oan mà không nghe
nàng thanh minh, giãi bày; bị mắng nhiếc thậm tệ rồi đuổi đi, đau khổ tột cùng,
nàng phải tìm đến cái chết.
Khơng tự bảo vệ được hạnh phúc của mình.
b. Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
Sống cam chịu, nhẫn nhục… (sự cam chịu, nhẫn nhục càng làm cho những bất
công, ngang trái đè nặng lên cuộc đời, số phận của họ).
Không thể quyết định được tương lai và hạnh phúc của mình (Vũ Nương, người
phụ nữ trong “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, Thúy Kiều trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du…)
Hiểu nguyên nhân gây ra nỗi bất hạnh cho họ (chế độ đa thê, tư tưởng trọng nam
khinh nữ, chiến tranh…đã gây ra những bất hạnh, oan trái…cho người phụ nữ
trong thơ Hồ Xuân Hương, trong “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm…).
Cảm thương cho số phận đau khổ, bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội
phong kiến.
3. Kết bài
Qua cuộc đời, số phận đầy đau khổ của Vũ Nương, người đọc càng hiểu hơn
những bất hạnh, oan trái mà người phụ nữ phải chịu đựng trong xã hội phong kiến.
Liên hệ với hiện tại: người phụ nữ ngày càng được bình đẳng, được tơn trọng…từ
đó, thêm trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc sống hiện tại.
Mơ ước về tương lai: Người phụ nữ khơng cịn phải chịu những bất cơng, đau
khổ…

Bài viết số 6 Ngữ văn 9 - Bài mẫu 1
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Nhà thơ Huy Cận từng viết:
"Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ"
Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tơn vinh. Hình ảnh
người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều
hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội
cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương: Văn học
thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình
trong số ấy là nhân vật Vũ Nương "Chuyện người con gái Nam Xương".
Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ
đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách, nhưng mỗi người lại mang một vẻ
đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt.
Tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" là tiếng nói đồng cảm, trân trọng,
ngợi ca của tác giả đối với con người đặc biệt là người phụ nữ. Toàn bộ câu chuyện
xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp, nết na tên là
Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Phải nói rằng Nguyễn Dữ khơng có ý định cho
Vũ Nương mang đức tính của một phụ nữ yêu nước hay một mỹ nhân nơi gác tía
lầu son. Vũ Nương là người phụ nữ bình dân vốn con kẻ khó có một khát khao bao
trùm cả cuộc đời - Đó là thú vui nghi gia nghi thất. Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của
một người phụ nữ lý tưởng “tính đã thuỳ mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp”.
Càng đi sâu vào câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung
thể hiện rõ nét. Trong những ngày đồn viên ít ỏi, dù Trương Sinh con nhà hào phú
tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng nàng khéo léo cư
xử, giữ gìn khuân phép nên gia đình khơng khi nào phải thất hồ. Khi tiễn chồng đi
lính, mong ước lớn nhất của nàng khơng phải là cơng danh phú q mà là khao khát
ngày chồng về “mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Những ngày chồng đi
xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền, dâu thảo, chăm sóc thuốc thang tận tình khi

mẹ chồng đau yếu, ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời. Nguyễn Dữ đã đặt
những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng của chính mẹ chồng nàng
khiến nó trở nên vơ cùng ý nghĩa “sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức,
giống dịng tươi tốt con cháu đơng đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như
con đã chẳng phụ mẹ”. Người thiếu phụ tận tuỵ, hiếu nghĩa ấy còn là một người vợ
thuỷ chung đối với chồng. Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến, người thiếu
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

phụ trẻ trung xinh đẹp đó một lịng một dạ chờ chồng, ni con: “cách biệt ba năm
giữ gìn một tiết, tơ son điểm phấn từng đã ngi lịng, ngõ liễu tường hoa chưa hề
bén gót”. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được mọi người u mến bằng
tính tình, phẩm hạnh của nàng. Trong cái nhìn nâng niu trân trọng của ơng, Vũ
Nương là con người của gia đình, đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người vợ
hiền, dâu thảo, một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ gìn,
vun vén cho hạnh phúc.
Tục ngữ có câu “Hoa thơm ai chẳng nâng niu – Người ngoan ai chẳng thương u
mọi bề” hay "Gái có cơng thì chồng chẳng phụ" thế nhưng công lao của Vũ Nương
chẳng những không được biết đến mà chính nàng cịn phải hứng chịu những phũ
phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm ni già dạy trẻ,
những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những
tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì khơng ngờ giơng bão đã
ập đến, bòng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ
nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng.
Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi
nàng đi, không cho nàng thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương
phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người. Có lẽ bi kịch của Vũ Nương
khơng phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em

phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra
làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn dữ đã góp
phần khái quát nên thành lời kiếp đau khổ của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận
ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao
‘Thân em như hạt mưa xa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng
Trong tác phẩm này có được sự sáng tạo tài tình chi tiết về chiếc bóng oan nghiệt
để phê phán xã hội phong kiến và nói lên số phận của người phụ nữ trong xã hội đó
thật mong manh. Cái bóng là 1 chi tiết nghệ thuật sáng tạo, độc đáo, giàu ý nghĩa.
Chi tiết này xuất hiện tác dụng thắt nút câu chuyện (đẩy các mâu thuẫn đến đỉnh
điểm). Cái bóng xuất hiện trong lời nói đùa của Vũ Nương khi nói với con. Những
ngày xa cách, bé Đản ln hỏi về bố, Thương con: thương đứa con ra đời chưa biết
mặt cha, muốn tạo cho con ý niệm đầu tiên về người cha để nó khơng cảm thấy
thiếu vắng, ln cảm thấy hình ảnh cha gần gũi bên mình. Vũ Nương chỉ cái bóng
mình trên vách và nói với con đó là cha Đản. Trong những ngày tháng xa chồng,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

nàng ln nghĩ về người chồng u dấu, trong suy nghĩ của nàng, chồng luôn ở bên
cạnh, vợ chồng như hình với bóng. Vũ Nương Chỉ vì muốn con vui, muốn bớt
buồn, và giải khuây khi sống cơ đơn vị võ ni con. Chắc hẳn người thiếu phụ chỉ
muốn ngi đi cảm giác con mình đang sống vắng cha. Nhưng nàng đâu thể ngờ từ
trò chơi này làm tan nát đời nàng, khơng ngờ 1 lời nói đùa trong thương nhớ lại trở
thành sợi dây vơ tình, oan nghiệt thắt chặt cuộc đời nàng. Chính điều này đã gây ra
cho nàng bao nỗi bất hạnh, tủi nhục. Chính vì cái bóng mà nàng đã mất chồng, Đản
đã mất mẹ
Nếu truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải
được kể trước khi Trương Sinh trở về. Nhưng không ngờ Nguyễn Dữ lại tài hoa

đến như vậy. Đã ém nghẹm lại cái chi tiết giật gân ấy. Rồi bùng nén ra ở 1 vị trí
thích hợp đã gây ra bão giơng, khuấy lên sóng gió. Khơng cịn gì để ngăn được cơn
tức tối của kẻ có tính hay ghen Trương Sinh nổ bùng. "Thú vui nghi gia nghi thật,
hạnh phúc duy nhất, niềm mong ước duy nhất của 1 đời Vũ Nương trong phút chốc
trở nên hồn tồn tan vỡ. Cái bóng khơng là một nhân vật nhưng nó lại tham gia
đắc lực vào câu chuyện, nó trở thành 1 chi tiết nghệ thuật đắt giá khiến câu chuyện
hấp dẫn người đọc. Chính cách thắt nút và mở nút câu chuyện bằng chi tiết cái
bóng đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm oan ức và giá trị tố cáo xã hội nam
quyên đầy bất công với phụ nữ càng thêm sâu sắc: Bình đã rơi, trâm đã gãy, liễu đã
tàn trước gió, sen đã rũ trong ao, người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh chỉ cịn
có thể tìm đến cái chết để giãi bày tấm lòng trong trắng của mình
Người phụ nữ đẹp là thế, vậy mà đáng tiếc thay họ lại sống trong một xã hội phong
kiến thối nát với bộ máy quan lại mục rỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập số
phận họ. Càng xinh đẹp ngoan hiền thì họ lại càng đau khổ, lại càng phải chịu
nhiều sự chén ép, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy giờ "hồng
nhan bạc phận". Đớn đau thay số phận của nàng. Nàng đã gieo mình xuống sơng
Hồng Giang tự vẫn. Và người đời sẽ lưu truyền thêm 1 tấm bi kịch về số phận
người phụ nữ. Tấm bi kịch về cái đẹp bị chà nát phũ phàng Tấm bi kịch này là sự
đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tng ích kỉ, sự hồ đồ vũ phu
của gã đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác hủ bại... Đó
cịn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư tưởng nam quyền độc đoán đã biến
Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình… Để ngàn đời trên bến Hồng Giang,
khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung,
xinh đẹp, hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh!

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào
hình tượng Vũ Nương, khi thì cách xử thế, khi thơng qua lời nói, khi hành động,
khi thái độ, hình ảnh Vũ Nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu
lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là
một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hố. Đó là lời nhắn nhủ. Hãy quan tâm đến
thân phận người phụ nữ, đến số phận con người. Hãy tôn vinh hạnh phúc và đừng
làm bất cứ điều gì có thể làm huỷ hoại tổn thương đến hạnh phúc đôi lứa và gia
đình. Và điều quan trọng hơn hết để có được hạnh phúc là phải thực sự hiểu được
nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ nhận đáng tiếc. Có được hạnh phúc
đã là một điều khó khăn, nhưng giữ hạnh phúc cho được lâu bền lại càng là một
điều khó khăn hơn. Đó là tất cả ý nghĩa mà chúng ta có thể nhận ra được từ:
Chuyện người con gái Nam Xương.
Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư âm về sự bất bình, căm ghét xã
hội phong kiến bất lương, vơ nhân đạo thì cịn mãi. Thời đại phong kiến trọng nam
khinh nữ, đầy rẫy những sự bất công oan trái. Bị ảnh hưởng và phải chịu đựng
nhiều nhất chính là người phụ nữ. Thế nhưng, những người phụ nữ ấy vẫn luôn
xinh đẹp, nết na, giàu lòng thương yêu và hết mực quan tâm đến mọi người xung
quanh. Ta có thể bắt gặp lại hình ảnh của họ qua các tác phẩm văn học dân gian và
văn học trung đại Việt Nam. Trong một xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc
bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong lận đận. Có lẽ vì thế mà
em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em đang sống hôm nay.

Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua
nhân vật Vũ Nương - Bài mẫu 2
Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện hay trong Truyền kỳ mạn lục,
một tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt
Nam. Truyện phản ánh một vấn đề bức thiết của xạ hội, đó là thân phận của người
nơng dân nói chung và người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến. Thế lực
bạo tàn và lễ giáo phong kiến khắt khe đã chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ,
mặc dù họ là những người phụ nữ đáng trân trọng trong gia đình và xã hội.

Câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của Vũ Nương – một người con gái nết na,
thùy mị. Chồng nàng là Trương Sinh, con nhà giàu có nhưng ít học, vốn tính đa
nghi, đối với vợ thường phòng ngừa q mức. Trương Sinh lấy Vũ Nương khơng
phải vì tình yêu mà chỉ vì cảm mến dung hạnh, để rồi khơng có sự chan hịa, bình
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

đẳng trong cuộc hơn nhân đó. Mầm mống bi kịch của cuộc đời Vũ Nương bắt đầu
từ đây.
Mặc dù chồng là người lạnh lùng, khơ khan, ích kỉ nhưng Vũ Nương luôn đảm
đang, tháo vát, thủy chung. Nàng khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm
ấm thuận hịa nên ln giữ gìn khn phép, ăn nói chừng mực. Khi chồng đi lính,
Vũ Nương đã tiễn chồng bằng những lời mặn nồng, tha thiết: “Chàng đi chuyến
này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ
xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc qn khó
liệu, thế giặc khơn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế
chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín q kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền
lo lắng”. Thật xúc động với tình cảm của người vợ hiền trước lúc chồng đi xa. Tình
cảm ấy đã làm mọi người rơi lệ.
Khơng chỉ là người vợ hiền, Vũ Nương cịn là một nàng dâu hiếu thảo. Nàng chăm
sóc chu đáo mẹ chồng, hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng như mẹ đẻ của nàng vậy.
Chồng đi lính khi nàng có mang, biết bao khổ cực chỉ một thân một mình gánh
chịu. Rồi nàng sinh con, một mình ni dạy con và chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ
chồng mất, nàng vơ cùng thương xót, nàng lo ma chay, tế lễ hết sức chu đáo.
Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà chỉ vì tin lời con trẻ mà nghi ngờ vợ hư hỏng nên
chửi mắng vợ thậm tệ, mặc cho lời phân trần của Vũ Nương, mặc cho lời biện bạch
của họ hàng làng xóm, Trương Sinh vẫn hồ đồ đánh đuổi Vũ Nương. Đau đớn, tủi
nhục, Vũ Nương phải tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang.

Câu chuyện đã thể hiện nỗi oan khúc tột cùng của Vũ Nương, nỗi oan ấy đã vượt
ra ngồi phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội phong
kiến vùi dập con người, nhất là người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ bị vùi
dập, bị sỉ nhục, bị đày đến bước đường cùng của cuộc đời, họ chỉ biết tìm đến cái
chết để bày tỏ tấm lịng trong sạch. Điều này chứng tỏ xã hội phong kiến suy tàn đã
sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền, độc đốn, sống thiếu tình thương
đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra cái chết bi thương đầy oan trái
cho Vũ Nương.
Thân phận của Vũ Nương thật đáng thương và phẩm chất của nàng cũng thật đáng
khâm phục. Khi còn sống nàng là người vợ hiền dâu thảo, sống có nghĩa tình. Khi
chết, tuy được các nàng tiên cứu sống ở thủy cung nguy nga, lộng lẫy, nhưng lúc
nào nàng cũng nhớ đến quê hương bản quán của mình. Là người nặng tình nghĩa,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

nàng đã ứa nước mắt khi nghe người cùng làng gợi nhắc đến quê hương, nhắc đến
chồng con của mình. Thế nhưng, Vu Nương vẫn cịn đó nỗi đau oan khuất, nàng
muốn phục hồi danh dự: Nàng không trở về trần gian mặc dù Trương Sinh đã lập
đàn giải oan và đã ân hận với việc làm nơng nổi của mình. Nàng khơng trở về trần
gian đâu chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi – người đã cứu nàng, mà điều chủ yếu ở đây
là nàng chẳng cịn gì để về. Đàn giải oan chỉ là việc an ủi cho người bạc mệnh chứ
không thể làm sống lại tình xưa nghĩa cũ. Nỗi oan khuất được giải nhưng hạnh
phúc đâu thể tìm lại được. Sự dứt áo ra đi của nàng là thái độ phủ định trần gian
với cái xã hội bất công đương thời. Đây cũng là thái độ đấu tranh địi cơng lý của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn. Dù cái chết là tấn bi kịch của người
phụ nữ, nhưng họ thức tỉnh được tầng lớp phụ quyền, phong kiến. Sự vĩnh viễn
chọn cái chết mà không trở lại trần thế của Vũ Nương đã làm cho Trương Sinh
phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình. Trương Sinh biết lỗi thì đã quá muộn

màng.
Qua câu chuyện về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, Nguyễn Dữ tố cáo
xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ, tố cáo
chiến tranh phi nghĩa đã làm vợ xa chồng, cha xa con, gia đình tan vỡ. Nỗi đau của
Vũ Nương cũng là nỗi đau của biết bao người phụ nữ dưới chế độ phong kiến như
nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người cung nữ trong Cung oán
ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và
nhiều phụ nữ khác nữa. Phải chăng người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt
Nam luôn bị chà đạp dù họ có tài năng và phẩm chất cao đẹp. Bởi thế Nguyễn Dữ
đã viết:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời ràng bạc mệnh vẫn là lời chung.
"Phận đàn bà” trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể
xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi dây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ.
Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy ln tìm đến
cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.
Bằng bút pháp kể chuyện, tình tiết lúc chân thật đời thường, lúc hoang đường kì ảo,
Nguyễn Dữ đã xây đựng hình tượng nhân vật điển hình cho thân phận người phụ
nữ ngày xưa. Họ thật đẹp, thật lí tưởng nhưng xã hội khơng cho họ hạnh phúc. Tác

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

phẩm của ơng vừa đề cao giá trị người phụ nữ lại vừa hạ thấp giá trị của xã hội
phong kiến đương thời.

Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua
nhân vật Vũ Nương - Bài mẫu 3

Người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc được hể hiện trong văn học thời trung đại.
Viết về họ, Hồ Xuân Hương đã rất thành ông với bài thơ “Bánh trôi nước”, đại thi
hào Nguyễn Du với kiệt tác “Truyện Kiều” và Nguyễn Dữ - học trò của Nguyễn
Bỉnh Khiêm với “Chuyện người con gái Nam Xương” – thiên thứ 16 của “Truyền
kì mạn lục”. Qua nhân vật Vũ Nương, câu chuyện đem đến bao suy tư, trăn trở cho
người đọc về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
“Chuyện người con gái Nam Xương” xoay quanh về cuộc đời và số phận bi thảm
của Vũ Nương – người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là Trương
Sinh, con nhà hào phú nhưng ít học, có tính đa nghi và hay ghen. Cuộc sống gia
đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Chàng đi đầy tuần, Vũ
Nương sinh con trai, hết lịng ni dạy con, chăm sóc, lo ma chay cho mẹ già chu
đáo và thủy chung đợi chồng. Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và
nói với con đó là cha của bé. Giặc tan, Trương Sinh trở về, tin lời con nhỏ, nghi
ngờ vợ thất tiết, nhục mạ, đánh đuổi nàng đi. Phẫn uất, Vũ Nương nhảy xuống
sơng Hồng Giang tự vẫn. Qua câu chuyện kể, ta thấy người phụ nữ là nạn nhân
của xã hội phong kiến bất công. Cuộc đời của họ là một chuỗi dài những khổ đau,
bất hạnh.
Cũng giống như số phận của bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Vũ Nương
đã phải chịu sự ràng buộc bởi những lễ giáo khắt khe, ngặt nghèo. Biết nàng “tính
đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” cho nên Trương Sinh mến vì dung
hạnh nói với mẹ xin trăm lạng vàng cưới về. Đây là một cuộc hôn nhân không bình
đẳng, bởi lẽ nó khơng phải là sự rung động của hai trái tim cùng một nhịp mà là do
sự sắp đặt mang tính chất mua bán. Sự sắp đặt của con nhà giàu, lắm tiền nhiều của,
muốn gì được nấy, sắp đặt cho con nhà khó “cha mẹ đặt đâu thì con phải ngồi đó”.
Cuộc hơn nhân có sự cách bức giàu nghèo đã khiến Vũ Nương luôn luôn mặc cảm
“thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Dù Vũ Nương có ln giữ gìn
khn phép thì cuộc sống vợ chồng ấy vẫn tiềm ẩn nguy cơ tan vỡ và sau này cũng
là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia trưởng, đối xử với vợ một cách vũ phu, thô
bạo.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Trương Sinh vốn ít học, lại có tính đa nghi và hay ghen, do vậy sự nghi kị, ngờ vực
làm mầm mống của sự bất hòa đã ủ sẵn trong gia đình. Để rồi, sau ba năm xa cách,
khi trở về tưởng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì cũng lại là lúc
tại họa ập xuống cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây thơ của bé Đản: “Ơ hay!
Ơng cũng là cha tơi ư? Mà ơng lại biết nói chứ khơng giống như cha tôi trước
kia…”, làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ hư hỏng. Dù Vũ Nương có tha
thiết giãi bày, có hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lịng mình, dù họ hàng làng
xóm có hết lịng khun can và biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề
đếm xỉa tới, mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”,
Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội phong kiến với chế độ
nam quyền độc đốn, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã
dung túng cho phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô
bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ.
Giữ gìn khn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc
nhơ… Nàng khơng hiểu vì sao bị đối xử bất cơng, bị mắng nhiếc và đuổi đi, khơng
có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch
cho. Hạnh phúc gia đình, thú vui nghi gia nghi thất, niềm khao khát của cả đời
nàng đã tan vỡ, tình u khơng cịn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ
trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây, cũng
khơng cịn có thể có lại được nữa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hơn nhân đã khơng
có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn sơng Hồng Giang rửa sạch nỗi
oan nhục, giãi bỏ tấm lịng trong trắng của mình. Lời than của nàng như lời nguyền
xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: “Kẻ bạc mệnh này
duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ,
thần sơng có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch
gìn lịng, vào nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược

bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin
làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ".
Qua tác phẩm, ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần gắng gượng để vượt lên số phận
nhưng cuộc đời nàng khơng thốt khỏi là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán,
chà đạp và ức hiếp con người.
Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử - một cái chết đầy oan ức.
Vậy mà, Trương Sinh thấy nàng tự tận chỉ một chút động lịng mà khơng hề ân hận,
day dứt. Ngay cả khi, đứa con trỏ tay vào bóng chàng trên vách nói là cha, chàng
hiểu rõ nỗi oan của vợ thì cũng coi là việc đã qua rồi. Như thế, chuyện danh dự,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

chuyện sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người chồng, người
đàn ông mà khơng có hành lang đạo lí, khơng được dư luận xã hội bảo vệ, chở che.
Nỗi oan của Vũ Nương đã vượt ra ngồi phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn
oan khuất của cái xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ. Sống
trong xã hội đầy rẫy những oan trái, bất công, quyền sống của con người không
được đảm bảo, người phụ nữ với thân phận “bèo dạt mây trơi” có thể gặp bao
nhiêu tai họa giáng xuống bất kì lúc nào, vì những ngun cớ vu vơ khơng thể
tưởng tượng. Rõ ràng, xã hội phong kiến đã sinh ra bao Trương Sinh với đầu óc
gia trưởng, độc đốn, là ngun nhân sâu xa của những đau khổ mà người phụ nữ
phải chịu.
Không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đốn, người phụ nữ cịn là nạn
nhân của chiến tranh phong kiến. Cả cuộc đời Vũ Nương, chỉ vui thú nghi gia nghi
thất vậy mà về làm vợ Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng “sum họp chưa thỏa tình
chăn gối, chia phơi vì động việc lửa binh”. Buổi Trương Sinh ra đi, mẹ già bịn rịn,
vợ trẻ đương bụng mang dạ chửa chưa khuyến luyến sự thể rồi sẽ ra sao đã khiến
mọi người có mặt ở đó đều phải ứa hai hàm lệ: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng

dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo
được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc qn khó liệu, thế giặc khơn lường.
Giặc cuồng cịn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa
dưa chín q kì, khiến thiếp ơm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”
Những câu văn biền ngẫu, sóng đơi như trái tim người vợ trẻ phập phồng lo sợ cho
người chồng phải đi lính thú. Chiến tranh xa cách, mẹ già cũng vì thương nhớ con
mà sinh bệnh rồi qua đời. Con thơ được sinh ra không biết mặt cha, vợ trẻ nhớ
chồng chỉ cịn biết trỏ vào bóng mình trên vách, bảo là cha của bé… Chính chiến
tranh làm cho gia đình li tán, vợ chồng xa cách dẫn đến hiểu lầm. Cũng chính cái
mối nghi ngờ khơng thể gỡ ra ấy của Trương Sinh đã trở thành nguyên nhân gây
bất hạnh cho cuộc đời Vũ Nương. Nếu khơng có chiến tranh, Trương Sinh khơng
bị bắt đi lính, thì đâu bé Đản khơng chịu nhận cha, thì đâu Vũ Nương phải chịu nỗi
oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến đã gây
ra cảnh sinh li và cũng góp phần dẫn đến cảnh từ biệt, làm tan nát bao nhiêu gia
đình.
Có thể nói, sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao người
phụ nữ khác – người con gái bình dân trong “Bánh trôi nước”, Thúy Kiều, Đạm
Tiên trong “Truyện Kiều” đều phải sống long đong, trơi dạt, phải tìm đến cái chết
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

giải nỗi oan ức, phải thốt khỏi cuộc đời đầy khổ đau ở chốn nhân gian. Đại thi hào
Nguyễn Du đã khái quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ bằng tiếng kêu đầy
ai oán:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Viết về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến, tác giả Nguyễn Dữ đã tố cáo, lên án xã hội bất công, vô nhân đạo, chà

đạp lên quyền sống của con người. Đây cũng là tiếng kêu thương đầy nước mắt, là
sự xót xa thương cảm của tác giả trước nỗi oan khiên mà người phụ nữ phải gánh
chịu.
Qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta xót xa thương cảm cho người phụ nữ
bất hạnh trong xã hội xưa bao nhiêu, ta càng căm giận cái xã hội thối nát, bất cơng
đã đẩy người phụ nữ vào vịng oan trái bấy nhiêu. Đọc tác phẩm, ta lại càng thêm
nâng niu, trân trọng cái tài, cái tâm của người con huyện Thanh Miện, Hải Dương
dành cho những thân phận bọt bèo trong xã hội phong kiến đương thời.
--------------------------Mời các bạn tham khảo thêm tài liệu tại: Tài liệu học tập lớp 9.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×