Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

KINH TẾ KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.42 KB, 123 trang )

NTTULIB
- 1 -
- 1 -
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
KHOA CÔNG NGHỆ HÓA HỌC & THỰC PHẨM





KINH TẾ KỸ THUẬT








Biên soạn: ThS. Lê Kiên Cường

Lưu hành nội bộ
Biên hòa 09-10-2010

NTTULIB
- 2 -
- 2 -
Mở đầu
“Tiến bộ trong vấn đề hóa học, môi trường là không
thể thực hiện được nếu không hiểu rõ hệ thống kinh tế
hoạt động trong môi trường như thế nào và những lựa


chọn giải pháp nào có thể loại bỏ các vật cản đối với chất
lượng môi trường”. Hội đồng chất lượng môi trường, báo
cáo thường niên thứ nhất.
“ Một con sông sạch sẽ có lợi ích gì nếu bạn không
có lấy một việc làm?” Liên hiệp công nhân ngành thép ở
Youngstown, Ohio.












NTTULIB
- 3 -
- 3 -
Chương 1
Các Vấn Đề Chung Về Kinh Tế kỹ thuật
1.1. Khái quát về Kinh tế kỹ thuât
Xét về bản năng, hầu hết mọi người đều không thích ý tưởng đo giá trị
của một môi trường sạch hơn bằng tiền đồng, đôla và cents. Nhưng cũng có thể
đồng ý rằng bỏ ra hai nghìn tỷ đôla để tránh được bệnh đục nhẵn mắt thì quả thật
là quá đắt. Phải có sự cân bằng nào đấy giữa lợi ích của một môi trường sạch sẽ
hơn và chi phí để thực hiện điều này.
Kinh tế môi trường mới chỉ xuất hiện và phát triển trong những thập kỷ

cuối của thế kỷ XX do nhu cầu bức bách của thực tiễn. Để hiểu rõ hơn nội dung
nghiên cứu của môn khoa học non trẻ này, trước hết cần phải nắm bắn được cơ
sở nền tảng của kinh tế học.
Kinh tế môi trường tập trung chủ yếu vào vấn đề người ta ra quyết định
như thế nào, tại sao gây ra những hậu quả đối với môi trường và chúng ta có thể
thay đổi các thể chế, chính sách kinh tế ra sao để đưa các tác động môi trường
vào thế cân bằng hơn, ổn định hơn với những mong muốn và yêu cầu của chúng
ta và của bản thân hệ sinh thái.
Cách lý giải thư nhất: Môi trường bị suy thoái là do hành vi và thái độ
ứng xử của con người trái với luân thường, đạo lý.
Cách trả lời thứ hai cho vấn đề tại sao người ta lại gây ô nhiễm môi
trường, làm cho môi trường bị suy thoái là cách xem xét về mặt kinh tế và xem
xét các cơ quan, thiết chế kinh tế (và xã hội) được cấu trúc ra sao và hoạt động
như thế nào mà có thể tạo điều kiện dễ dàng cho người ta phá hoại môi trường
Có ý kiến cho rằng, người ta gây ô nhiễm, làm suy thoái môi trường là vì
động cơ lợi nhuận. Do đó, cách duy nhất để giảm ô nhiễm môi trường, nâng cao
chất lượng môi trường là làm giảm động cơ lợi nhuận.

NTTULIB
- 4 -
- 4 -
Điều này đúng, nhưng hoàn toàn chưa đủ, bởi vì không chỉ có các công
ty, xí nghiệp do động cơ lợi nhuận thúc đNy, nên gây ra ô nhiễm môi trường, mà
cả các cá nhân người tiêu dùng cũng đang gây ra ô nhiễm môi trường khi đổ rác
thải bừa bãi xuống các cống rãnh, ao, hồ hoặc sử dụng các phương tiện giao
thông có động cơ cũ kỹ, lạc hậu, xả nhiều khói, v.v…, ở đây, các cá nhân người
tiêu dùng không hề nghĩ đến lỗ hay lãi.
Các biện pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường có quan hệ rất mật thiết với
tỷ lệ thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Ở đây có hàng loạt các câu hỏi mà các
nhà kinh tế môi trường cần phải tìm cho được các câu trả lời đúng đắn, thoả

đáng. Ví dụ: Các chính sách môi trường nghiêm ngặt hơn có tạo ra khuynh
hướng làm chậm sự tăng trưởng kinh tế và làm tăng tỷ lệ thất nghiệp hay không?
Nếu có, thì bao nhiêu? Các quy tắc, điều lệ về môi trường có tác động đến tỷ lệ
lạm phát hay không? Nếu có, thì tác động như thế nào? Tăng trưởng kinh tế có
tác động đến chất lượng môi trường hay không? Nếu có, thì tác động như thế
nào?
Môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu. Để giải quyết những vấn đề môi
trường cấp bách toàn cầu như bảo tồn đa dạng sinh học, sự thay đổi khí hậu,
v.v…, cần động viên trí tuệ và nguồn lực của mọi quốc gia.
1.2. Đối tượng của môn học.
Kinh tế môi trường là một môn khoa học nghiên cứu mối quan hệ tương
tác, phụ thuộc và quy định lẫn nhau giữa kinh tế và môi trường (hệ thống hỗ trợ
cuộc sống của trái đất) nhằm bảo đảm một sự phát triển ổn định, hiệu quả, liên
tục và bền vững trên cơ sở bảo vệ môi trường và lấy con người làm trung tâm.
1.3. Nhiệm vụ của môn học.
1. Trang bị những cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường .
2. Trang bị những cơ sở lý luận để nhìn nhận, phân tích đánh giá môi
trường trong bối cảnh của cơ chế thị trường.

NTTULIB
- 5 -
- 5 -
3. Đánh giá những tác động (tích cực và tiêu cực) của các hoạt động phát
triển (kinh tế và xã hội) đến môi trường. Tiếp cận phân tích kinh tế của những
tác động tới môi trường.
4. Nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa tài nguyên, dân số, kinh tế và
môi trường.
5. Góp phần thNm định các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển thông
qua phân tích chi phí - lợi ích và phân tích chi phí - hiệu quả.

6. Góp phần hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển, những
phương thức quản lý môi trường hợp lý.
7. Nâng cao nhận thức về môi trường, về mối quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc
và quy định lẫn nhau giữa môi trường và phát triển để mọi cá nhân, mọi cộng
đồng có hành vi đúng đắn vì mục đích phát triển bền vững. Đặc biệt là đối với
các chuyên gia kinh tế và quản trị kinh doanh.












NTTULIB
- 6 -
- 6 -
Chương 2
Nguyên nhân suy thoái môi trường

2.1. Mối đe dọa của môi trường
Lỗ thủng trong tầng ôzon và nhiệt độ của trái đất đang tăng lên là những
mối quan tâm về môi trường hàng đầu hiện nay. Tất nhiên, những vấn đề môi
trường còn có nhiều hơn nữa và cũng có từ rất lâu rồi. Ngay từ năm 61 sau công
nguyên, Seneca, một nhà triết học và cũng là nhà chính sách có uy tín thời bấy
giờ đã than phiền về những luồng khói tỏa ra từ những ống khói trong các gia

đình ở Roma. Và các nhà sử học nhắc nhở chúng ta rằng những chiếc cống nối
chạy dọc phố phường đã một thời là cách xử lý chất thải chính ở đô thị và những
dịch thương hàn là những sự trừng phạt thường tái diễn cho việc làm ô nhiễm
nước. Như vậy chúng ta không thể nói rằng, hủy hoại môi trường là một hiện
tượng mới hoặc là hiện nay chúng nghiêm trong hơn trước kia.
Thế nhưng hiện nay chúng ta biết nhiều hơn những thế hệ trước về những
nguyên nhân hủy hoại môi trường và chúng ta có điều kiện hơn để làm việc gì
đó để bảo vệ môi trường và chúng ta có điều kiện hơn để làm việc gì đó để bảo
vệ môi trường. Những hiểu biết của chúng ta về tính kinh tế của ô nhiễm môi
trường tạo ra chi phí trực tiếp đối với nền kinh tế.
Ô nhiễm môi trường làm suy yếu sức khỏe và do vậy nó làm giảm các
hoạt động của lực lượng lao động và sản lượng. Ô nhiễm môi trường còn phá
hủy các công trình xây dựng cơ bản (ví dụ như những tác động với kết cấu thép)
và làm hướng các nguồn lực vào các hoạt động không mong muốn (ví dụ như
rửa xe, giặt và lau chùi). Ô nhiễm môi trường làm giảm trực tiếp phúc lợi xã hội
của chúng ta bởi việc không cho chúng ta tận hưởng những bãi biển, nguồn
nước và không khí trong sạch.

NTTULIB
- 7 -
- 7 -
Ô nhiễm không khí: Ô nhiễm không khí cũng gần như tầm nhìn bị che
mờ đi. Nhưng khói mờ chỉ là một dạng của ô nhiễm không khí. Có 5 chất gây ô
nhiễm không khí chính là: ôxít cacbon (CO), toàn bộ các thành phần lơ lửng
trong không trung (TSP), dioxit sul-phua (SO
2
), các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
(VOCs) và oxit nito (NO
x
).

Ôxit cacbon (CO) là loại khí độc không màu không mùi. Nó được sinh ra
bởi đốt cacbon trong các nhiên liệu trong điều kiện thiếu oxi. Nói chung, oxit
cacbon làm giảm tốc độ phản ứng và gây ra nhiều bệnh tim, phổi. Nguồn chính
gây ra ô nhiễm oxit cacbon là các động cơ ô tô.
Mồ hóng và khói công nghiệp gây ra các vấn đề thuộc hô hấp và làm nhân
tố chính trong việc làm giảm thị lực. Một vài chất đặt biệt như amiăng (trong
nguyên liệu xây dựng và các má phanh) và chì (trong chất thải của ô tô) cũng
được xác định là rất nguy hiểm đến sức khỏe con người.
Ôxit lưu huỳnh (SO
2
) là loại khí gây cay mắt, gây ra hiện tượng ăn mòn
và độc. Nó được tạo ra khi đốt nhiên liệu có chứa hàm lượng lưu huỳnh cao.
Ngành điện và các nhà máy công nghiệp đốt than lưu huỳnh cao hoặc dầu là
những nguồn tạo ra SO
2
chính. Việc đốt than chiếm 60% lượng SO
2
thải ra. Ôxit
lưu huỳnh được xác định là thủ phạm chính của những thảm họa ô nhiễng không
khí. Năm 1948, tại Donora, Pennsylvania, một nửa thị trấn 14.000 dân này đã
nhiễm độc và 20 người đã chết. Năm 1952, ở London, một luồng khói độc đã
giết chết 1.600 người.
Mưa axit: Ô xít lưu huỳnh cũng là một thành phần chính tạo ra các cơn
mưa axit. Mưa axit phá hoại các loại rau quả và được xác định là thủ phạm phá
hoại những khu rừng ở Đức, Canada và Mỹ. Canada tố cáo rằng những trận mưa
axit phá hoại những khu rừng và hồ của nước này do các nhà máy sử dụng năng
lượng từ việc đốt than ở miền Trung Tây nước Mỹ.
Khói mù: Ô xít nitơ (NO
x
), một thành phần nữa gây ra mưa axit còn là

một thành phần chính tạo ra khói mù. Khói mù không chỉ gây viêm mắt làm
hỏng khả năng nhìn mà còn làm hại cây cối, đệm thực vật và lá phổi con người.

NTTULIB
- 8 -
- 8 -
Động cơ ô tô thải ta 40% khói mù trong đô thị. Các lò bánh mì, máy tNy hóa
học, sản xuất hàng tiêu dùng cũng sản sinh ra một lượng khói mù. Phần còn lại
là của các nhà máy điện và các nồi hơi công nghiệp.
Trái đất đang nóng lên - một thảm họa khủng khiếp: Ô nhiễm toàn cầu
đang gây ra hiện tượng tích tụ các loại khí trong bầu khí quyển. Những khí này
tạo thành một lớp ngăn cản sự bức xạ nhiệt và làm nóng Trái Đất. Vậy hiệu ứng
nhà kính gây ra những nguy hiểm như thế nào?
Mối đe dọa: Một số nhà khoa học nói rằng nhiệt độ trái đất đã tăng lên
0,6
o
C trong thế kỷ trước và xu hướng đang nóng lên đang trở lên nhanh hơn. Họ
tiên đoán rằng nhiệt độ tăng thêm 3-5 độ vào năm 2030. điều này cũng đủ để
mực nước các Đại Dương tăng 4 feet và khí hậu thế giới thay đổi một cách cơ
bản.
Những người hoài nghi: Một số nhà khoa học khác hoài nghi cả về sự
thay đổi nhiệt độ cũng như các nguyên nhân của hiện tường này. Một nghiên
cứu năm 1988 do cơ quan theo dõi khí quyển và Đại Dương quốc gia Mỹ thực
hiện đã kết luận rằng không có hiện tượng nóng các Đại Dương trong thế kỷ
trước. Bởi vậy, nhiệt độ lục địa tăng như đươc quan sát chắc chắn là do các hiện
tượng khác như là sự gia tăng đô thị hóa. Thêm vào đó nữa, lượng khí CO
2
thải
vào khí quyển do các hoạt động của con người (khoảng 7 tỷ tấn/năm) là một tỷ
lệ quá nhỏ bé so với việc thải CO

2
của tự nhiên (khoảng 200 tỷ tấn/năm) từ các
núi lửa, các đám cháy và tia chớp. Những người hoài nghi cũng chỉ ra rằng các
máy tính dự đoán nhiệt độ Trái Đất tăng lên trong thời gian tới cũng như trong
thế kỷ trước đó tăng nhiều hơn so với thực tế.
Núi lửa Pinatubô: Bản thân tự nhiên có thể đảm bảo bất cứ sự tăng nhiệt
độ của Trái Đất nào trong thế kỷ này. Năm 1991, núi lửa Pinatubô ở Philipin
hoạt động đã phun vào khí quyển tầng trên một lượng khói bụi chứa chất lưu
huỳnh đủ để trái đất lạnh đi một độ F trong vài năm. Tác động làm mát này được
đánh giá mạnh gấy hai lần tác động làm nóng gây ra bởi dioxit cacbon được đưa
vào khí quyển kể từ khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp.

NTTULIB
- 9 -
- 9 -
Không chắc chắn: Nếu xét theo những bằng chứng và cách thức mâu
thuẫn như trên thì không có sự nhất trí nào về những bước thực hiện. Tại hội
nghị tổ chức năm 1989, chính phủ Hà Lan đã đề nghị một sự ngừng gia tăng về
mức độ lan tỏa nhà kính và giảm 20% chất thải vào năm 2005. Gần một nửa
trong số 86 nước tham dự ủng hộ đề nghị này. Tại hội nghị thượng đỉnh về Trái
Đất tổ chức năm 1992 ở Riô Đờ Janêrô do liên hiệp quốc tế chủ trì đã đạt được
một thỏa thuận lớn về việc cần thiết phải thay đổi mức độ hủy diệt môi trường
và cách thức sản xuất nhưng lại không đưa ra một thời gian biểu cụ thể. Với hậu
quả tiềm năng bị ô nhiễm như chúng ta đã biết, việc đưa ra những giải pháp thực
tế được thỏa thuận. Đây là một chính sách phức tạp.
Hiệu ứng nhà kính. Hiệu ứng nhà kính được lưu ý ở đầu chương này được
gây ra bởi nhiều chất ô nhiễm không khí vừa đề cập. Dẫu sao, thủ phạm chính
trong hiệu ứng nhà kính là khí oxit cacbon (CO
2
) vô hại mà chúng ta thở ra.

Đáng tiếc là bây giờ chúng ta thải ra quá nhiều khí oxit cacbon đến nỗi các đại
dương và cây cỏ không thể hấp thu được nữa. “Sự vượt quá mức” CO
2
tạo ra
một lớp khí xung quanh Trái Đất.
Mặc dù việc tích tụ CO
2
và các khí khác trong khí quyển là không phải
bàn cãi nhưng mức độ đe dọa môi trường lại được tranh luận rất sâu sắc. Dẫu
sao mọi người đều đồng ý rằng đốt các nhiên liệu hóa thạch là nguồn gốc cơ bản
của tích tụ CO
2
. Việc phá rừng, nơi hấp thụ CO
2
cũng góp phần gây ra hiệu ứng
nhà kính.
Ô nhiễm nước: Ô nhiễm nước là một mối đe dọa môi trường nữa. Những
biểu hiện của nó rất rõ ràng như là nước uống bị ô uế, cấm bơi, những dòng
nước hôi thối, hang đàn cá chết và rác rưởi trôi lập lờ. Cơ quan bảo vệ môi
trường ước tính rằng 1/3 nguồn nước của Mỹ bị ô nhiễm và về một nghĩa nào đó
nó vi phạm tiêu chuNn chất lượng nước liên bang.
Ô nhiễm do chất hữu cơ: Hình thức phổ biến nhất của ô nhiễm nước là
dưới dạng các chất thải hữu cơ từ các nhà vệ sinh và rác thải. Những chất thải
này đổ vào hệ thống cống và cuối cùng đổ vào dòng nước gần nhất. Vấn đề

NTTULIB
- 10 -
- 10 -
chính đặt ra là liệu các chất thải có được xử lý (phân tích và phân hủy) trước khi
đổ vào hệ thống nước không. Các nhà máy xử lý nước thải phức tạp có khả năng

giảm ô nhiễm do chất hữu cơ gây ra tới 99%. Thật đáng tiếc là chỉ có 70% dân
số nước Mỹ được sử dụng hệ thống cống và các nhà máy xử lý thích hợp.
Những hệ thống xử lý chất thải không tốt thường dẫn tới phải đóng cửa các dòng
nước và các bãi biển.
Bên cạnh các chất thải trong sinh hoạt gia đình, các dòng nước còn bị ô
nhiễm bởi các chất thải công nghiệp. Hơn một nửa lượng chất thải công nghiệp
này có nguồn gốc từ một vài ngành công nghiệp mà cơ bản là công nghiệp giấy,
hóa hữu cơ, dầu và cơ khí. Và trong những ngàng công nghiệp nay chỉ có vài
công ty lớn là đóng vai trò chính trong việc thải các chất ô nhiễm. Trong một
nghiên cứu về ô nhiễm công nghiệp ở Đông Nam nước Mỹ, cơ quan bảo vệ môi
trường đã phát hiện ra rằng chỉ có 1% trong 1920 nhà máy đang hoạt động phải
chịu trách nhiệm hơn 50% tổng số chất thải không được xử lý.
Cuối cùng là chất thải từ các loại gia súc, gia cầm. Chất thải hữu cơ của
vật nuôi thâm nhập trực tiếp vào các dòng nước, đặc biệt là sau các trận mưa to.
Chất thải của động vật không gây ra những vấn đề tram trọng như ở Boston và ở
New York nhưng chúng lại có thể làm hỏng nặng các nguồn nước ở California,
Texas và Kansas.
Ô nhiễm về nhiệt: Ô nhiễm nhiệt là sự tăng lên về nhiệt độ của dòng nước
do hơi nước và nước nóng nhập vào. Tăng nhiệt độ có thể giết cá, cản trở chu kỳ
tái sinh biển, và làm gia tăng quá trình hóa sinh trong nước, bởi vậy làm giảm
khả năng giữ ôxy trong nước. Những nguyên nhân gây ô nhiễm nhiệt là rất ít và
đặc trưng. Như là nước làm mát động cơ xe hơi. Các nhà máy điện chiếm hơn
80% tổng số tăng nhiệt và các nhà máy tuyển quặng, hóa chất, hóa dầu chiếm
phần còn lại.
“Eutrophication”. Một hình thức nữa ô nhiễm nước là kết quả của việc đổ
trầm tích và những chất dinh dưỡng vào nước. Trầm tích có xu hướng làm nước
cạn đi trong khi các chất dinh dưỡng làm tăng sự phát triển của tảo. Trong quá

NTTULIB
- 11 -

- 11 -
trình này đặc điểm của dòng nước bị thay đổi và số lượng cá thay đổi và cuối
cùng là biến mất – Nấu quá trình này tiếp tục nữa thì hồ sẽ “chết”, cuối cùng
chuyển thành vùng đất lầy và đầm lầy. Phốt phát trong chất tNy dung trong gia
đình và phân hóa học là những nguyên nhân chính của hiện tượng này.
Ô nhiễm chất thải rắn: Chất thải rắn thể hiện một mối đe dọa một mối đe
dọa môi trường nữa. Ô nhiễm chất thải rắn hiển nhiên có ở mọi nơi từ vứt rác
bừa bãi trên phố và bãi biển đến những mảnh vỡ trong nước và các đống rác lộ
thiên. Dù rằng chúng ta có xu hướng nghĩ về tiêu dùng như là sự kết thúc của
quá trình các hoạt động kinh tế nhưng một khối lớn chất thải rắn đã tạo ra trong
việc tiêu dùng. Thực tế, xét theo quan điểm vật lý, chung ta tham gia và sản xuất
và tiêu dùng làm thay đổi thể dạng của các nguồn lực cố định của Trái Đất. Một
cây gỗ nguyên vẹn được chế biến thành bột giấy, bột giấy thành giấy in báo,
giấy in thành tờ, tờ báo được đọc (nghĩa là được tiêu dùng) và vứt bỏ; những tờ
báo bỏ đi kết thúc ở những đống rác. Không vật chất nào mất đi mà chỉ chuyển
hóa từ dạng này sang dạng khác. Đó chính là cái mà nhà môi trường học đề cập
như là “vấn đề cân bằng vật chất”. Các nguồn tài nguyên sẽ không mất đi một
khi chúng ta sử dụng chúng mà ngược lại phải được xáo trộn để chuyển hóa
thành một cách sử dụng mới hoặc bị che lấp.
Hàng ngày, những chiếc chai và can trống rống, kiện hàng không dùng
nữa, các túi giấy, những chiếc lốp cũ và xương bò là những sự nhắc nhở để cân
bằng vật chất. theo tính toán của cơ quan bảo vệ môi trường, chúng ta tạo ra hơn
5 tỷ tấn chất thải rắn hàng năm. Con số này gồm hơn 30 tỷ chai lọ, 60 tỷ can,
100 triệu lốp xe và hàng triệu ô tô thải và thiết bị chính.
Hầu hết chất thải rắn được tạo ra trong nông nghiệp (các chất thải từ sự
sát sinh, tỉa cây ăn quả, phần còn lại của vụ mùa) và khai khoáng (những đống
xỉ). Tuy nhiên, khối lượng nhỏ hơn nhiều chất thải rắn tạo ra trong hoạt động
thương mại và dân cư được xem là còn nguy hiểm hơn, đơn giản là chúng chất
thành đống xung quanh nơi chúng ta sống. Thực tế, trong hầu hết các thành phố
lớn, dân cư chỉ đơn giản chạy ra ngoài nơi của họ để đổ rác. Một mình thành phố


NTTULIB
- 12 -
- 12 -
New York tạo ra 24.000 tấn rác thải một ngày. Bởi vì nó không có cả khu đất
cũng như lò thiêu cần thiết cho việc xử lý, thành phố phải chuyển rác sang các
nơi khác.

2.2. Nguyên nhân suy thoái môi trường
2.2.1 Thất bại của thị trường
Đạo đức của câu chuyện này và nhân tố phê bình trong hành vi gây ô
nhiễm là mọi người có xu hướng tối đa hóa phúc lợi cá nhân, cân đối giữa lợi
ích riêng và chi phí riêng. Đối với nhà máy điện điều này có nghĩa là đưa ra
những quyết định sản xuất trên cơ sở doanh thu đạt được và chi phí gánh chịu.
Sự thật mà nhà máy năng lượng gây ra những chi phí lên người khác dưới dạng
ô nhiễm không khí và nước là không liên quan tới quyết định tối đa hóa lợi
nhuận của nó. Những chi phí này là ở bên ngoài đối với nhà máy và không xuất
hiện trong bảng kê khai của nhà máy. Những chi phí bên ngoài này hoặc là
những ngoại ứng – là không thực tế chút nào nhưng chúng bắt xã hội chứ không
phải là nhà máy phải gánh chịu nhiều hơn.
Những ngoại ứng trong sản xuất: Mỗi khi những ngoại ứng tồn tại, một
công ty tư nhân sẽ không phân bổ nguồn lực của mình và điều hành nhà mày
theo hướng tối đa hóa phúc lợi xã hội. Kết quả là xã hội chấp nhận việc nhà máy
điện sử dụng tự do các tài nguyên giá trị như nước và không khí trong sạch. Nhà
máy điện có một động cơ lớn để thay thế những tài nguyên này cho các loại
khác (như là nguyên liệu giá cao, hoặc những tháp làm nguội nước) trong dây
chuyền sản xuất. Tính không hiệu quả của một sự sắp đặt là hiển nhiên khi
chúng ta cho rằng chức năng của thị trường là phân bố những nguồn lực hiếm
theo những nhu cầu được thể hiện của người tiêu dùng. Vậy mà chúng ta đang
công bố một giá cao cho nước sạch và không khí sạch và đang khuyến khích nhà

máy điện sử dụng triệt để cả hai nguồn này bằng việc không bắt nhà máy không
phải trả chi phí nào cho việc sử dụng chúng.

NTTULIB
- 13 -
- 13 -
Tính không hiệu quả của sự sắp đặt thị trường này có thể được thể hiện
theo hướng phân biệt giữa những chi phí xã hội và những chi phí cá nhân.
Những chi phí xã hội là toàn bộ những chi phí của tất cả các nguồn lực đươc sử
dụng trong một hoạt động sản xuất cá biệt. Mặt khác, những chi phí cá nhân là
những chi phí nguồn lực mà một sản xuất nhất định gánh chịu.
Nói một cách lý tưởng là những chi phí các nhân của một nhà sản xuất sẽ
bao trùm toàn bộ chi phí xã hội kèm theo và những quyết định sản xuất sẽ phù
hợp với phúc lợi xã hội của chúng ta. Không may là đặc tính tốt này là không
phải luôn luôn tồn tại như kinh nghiệm của chúng ta và những minh họa của nhà
máy điện. Khi những chi phí xã hội khác với những chi phí cá nhân thì xuất hiện
những chi phí bên ngoài. Thực tế những chi phí bên ngoài bằng chênh lệch giữa
những chi phí xã hội và những chi phí cá nhân.
Những chi phí bên ngoài = những chi phí xã hội – Những chi phí cá nhân
Khi xuất hiện những chi phí bên ngoài, cơ chế thị trường sẽ không phân
bổ nguồn lực có hiệu quả được. Đây là một trường hợp của thất bại thị trường.
Tín hiệu giá cả đối với những nhà sản xuất là sai. Bằng việc không truyền đạt
đầy đủ chi phí (xã hội) của các nguồn lực khan hiếm, thị trường khuyến khích ô
nhiễm môi trường quá mức. Một luật lệ chung là nếu những chi phí của ô nhiễm
là bên ngoài thì các công ty sẽ sản xuất ra quá nhiều sản phNm gây ô nhiễm môi
trường.
Chúng ta kết thúc bằng một hỗn hợp sản lượng không tối ưu và một dây
chuyền sản xuất không đúng. Phúc lợi xã hội chung của chúng ta sẽ lớn hơn
nhiều với một hành vi thị trường khác và một môi trường sạch hơn.
Những ngoại ứng trong tiêu dùng: Sự phân kỳ giữa những chi phí cá nhân

và chi phí xã hội có thể được lấy trong các hành vi tiêu dùng. Một người tiêu
dùng cũng như một nhà sản xuất đều có xu hướng tối đa hóa phúc lợi bản thân.
Chúng ta mua và sử dụng nhiều hơn lượng hàng hóa và dịch vụ tạo được sự hài
lòng cao nhất (thỏa dụng biên) trên một đô la được tiêu. Bằng hàm ý (và quy
luật cầu), chúng ta có xu hướng dùng một sản phNm nhiều hơn nếu như chúng ta

NTTULIB
- 14 -
- 14 -
có thể mua nó với sự khấu trừ, nghĩa là trả ít hơn mức giá. Không may là sự
“khấu trừ” thường dưới dạng chi phí bên ngoài được đánh vào những người
hàng xóm và những người bạn.
Lái xe cơ giới phản ánh tình trạng này. Lượng sử dụng xe bị ảnh hưởng
bởi giá một chiếc xe và những chi phí biên của việc sử dụng xe. Một minh họa
thuyết phục trong một cuộc khủng hoảng năng lượng những năm 1970 là mọi
người mua những xe nhỏ hơn và ít sử dụng hơn khi những chi phí kèm theo
(như giá xăng) tăng một cách đáng kể. Nhưng việc sử dụng xe hơi không chỉ
liên quan tới các chi phí cá nhân mà còn liên quan tới các chi phí xã hội. Như đã
đề cập ở phần trên, các chất thải của ô tô (như CO, hydrocacbon và oxit nito) là
nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm không khí. Thực tế, các lái xe đã có thể sử
dụng nguồn không khí sạch có giá trị mà không trả bất kỳ chi phí nào. Rất ít lái
xe thấy được cái lợi bản thân trong việc lắp đặt các dụng cụ kiểm soát khí thải,
bởi vì lượng không khí mà họ thở sẽ chỉ ảnh hưởng rất ít do những cố gắng của
họ. Do vậy những chi phí cá nhân thấp đã dẫn tới ô nhiễm môi trường nặng và
chỉ những chi phí xã hội cao mới có thể làm cho không khí sạch hơn.
Sự phân kỳ giữa những chi phí xã hội và cá nhân có thể được quan
sát chỉ dưới các hành vi tiêu dùng nhỏ nhất như là ném một vỏ hộp bia ra ngoài
cửa sổ xe ô tô. Giữ vỏ hộp bia lại sao đó bỏ vào thùng rác liên quan tới sự cố
gắng cá nhân. Ném hộp bia ra khỏi cửa xe không những thú vị hơn mà còn
chuyển giao gánh nặng của chi phí xử lý rác cho người khác hiệu quả nhất.

Hình thức tương tự của sự phân kỳ giữa những chi phí xã hội và chi phí cá
nhân giúp được hiểu tại sao mọi người thích bỏ xe cũ trên đường hơn là chở
chúng đến bãi thải. Nó cũng giải thích tại sao mọi người dùng chỗ trống làm
những bãi rác tự nhiên. Trong tất cả những trường hợp này, người gây ô nhiễm
môi trường có lợi thay thế chi phí ngoại ứng cho chi phí cá nhân. Nói cách khác
là thị trường đã thúc đy thiệt hại về môi trường. Thất bại của thị trường phát
sinh do một số vấn đề như:

NTTULIB
- 15 -
- 15 -
Tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo: Trong thị trường cạnh tranh
hoàn hảo, quyết định sản xuất của các doanh nghiệp hướng tới điều kiện cân
bằng chi phí cận biên và giá cả của hàng hoá và do vậy cũng bằng lợi ích cận
biên đối với người tiêu dùng.
Trong các ngành cạnh tranh không hoàn hảo, người sản xuất tối đa hoá lợi
nhuận khi chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên; Trong khi đó người tiêu
dùng lại cân bằng giá cả với những lợi ích biên thu được từ việc tiêu dùng đơn
vị hàng hoá cuối cùng. Vì vậy, trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, lợi
ích cận biên sẽ vượt quá chi phí cận biên, người sản xuất có xu hướng thu hẹp
sản xuất và định giá sản phNm cao
Tác động của các ngoại ứng: Yếu tố ngoại ứng xuất hiện khi một quyết
định sản xuất hoặc tiêu dùng của một/một số cá nhân tác động trực tiếp đến việc
sản xuất hay tiêu dùng của những người khác mà không thông qua giá cả thị
trường.
Ngoại ứng có thể tạo ra tác động tích cực hoặc tác động tiêu cực (tạo ra
chi phí) cho những người khác, dẫn đến sự chênh lệch giữa chi phí hoặc lợi ích
cá nhân với chi phí hoặc lợi ích xã hội bởi vì không có hoạt động thị trường nào
chi phối được yếu tố ngoại ứng.


2.2.2 Vấn đề cung cấp các hàng hoá công cộng.
Hàng hoá được gọi là hàng hoá công cộng nếu các đơn vị của nó không
thể chia cắt và phân biệt rõ ràng. Đối với hàng hoá công cộng, mọi người đều tự
do hưởng thụ các lợi ích do hàng hoá đó mang lại và sự hưởng thụ của người
này không làm mất đi khả năng hưởng thụ của những người khác. Sẽ xuất hiện
những "kẻ ăn không", đó là những người có thể tiêu dùng mà không phải thanh
toán cho dù việc sản xuất ra hàng hoá đó là tốn kém. Nếu để các cá nhân riêng lẻ
đảm nhận việc cung cấp các hàng hoá công cộng nói trên sẽ dẫn đến tình trạng
cung không đủ với số lượng mong muốn ở mức có hiệu quả. Hàng hoá công

NTTULIB
- 16 -
- 16 -
cộng chính là một trường hợp đặc biệt của ngoại ứng mà tác động tạo ra hoàn
toàn là có lợi.

2.2.3 Sự thiếu vắng của một số thị trường
Khi thiếu vắng một số thị trường, sự cân bằng của thị trường tự do sẽ dẫn
đến việc phân bổ các nguồn lực không hiệu quả. Có thể giải thích các thị trường
thiếu vắng bằng ba đặc tính: thiếu các hàng hoá tương lai, rủi ro và thiếu thông
tin.
+Thiếu các hàng hoá tương lai:
+ Rủi ro: Thực tế đã có những cơ chế thị trường như bảo hiểm cho phép
rủi ro chuyển từ người ghét nó sang người sẵn sàng gánh chịu nó với một chi phí
nào đó. Phí bảo hiểm có thể làm cân bằng chi phí cận biên và lợi ích cận biên
của gánh chịu rủi ro. Tuy nhiên, không có thị trường bảo hiểm dành cho các hiện
tượng như sự ấm lên của trái đất, mực nước biển dâng lên và các rủi ro dài hạn
khác.
+ Thiếu thông tin: Thu thập thông tin là một việc tốn kém. Trong thực tế,
nhiều thông tin được giữ bí mật, một số thông tin khác như kiến thức kỹ thuật và

một số hàng hoá phù hợp có thể vẫn tồn tại nhưng không phải ai cũng có thể tiếp
cận. Bên cạnh đó, các thông tin về giá trị của các nguồn tài nguyên (ví dụ đa
dạng sinh học…) hay thiệt hại do ô nhiễm… nhiều khi cũng không đầy đủ, rõ
ràng; quyết định sản xuất hay tiêu dùng khi không có đầy đủ thông tin sẽ khó mà
đạt được điểm hiệu quả tối ưu.
+ Trường hợp thông tin không hoàn hảo: Thông tin không hoàn hảo sẽ
gây ra tình trạng không chắc chắn về các chi phí giảm thải cận biên và chi phí
thiệt hại cận biên, dẫn đến việc xác định chuNn mức thải và/hoặc phí thải thấp
hơn hoặc cao hơn mức cần thiết để đạt ô nhiễm tối ưu. Cụ thể hơn, có thể nói
rằng thiếu thông tin sẽ dẫn đến việc ban hành các quy định về chuNn thải hay phí

NTTULIB
- 17 -
- 17 -
thải không hiệu quả và gây ra những phí tổn gia tăng cho xã hội. Chúng ta gọi
đó là sự thất bại của chính sách.
Các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý tất nhiên không muốn
có sự thất bại về chính sách. Tuy nhiên, trong trường hợp thiếu thông tin, điều
này là khó tránh khỏi. Các nhà hoạch định chính sách môi trường sẽ ưa thích sử
dụng một công cụ nào đó nếu biết rằng việc sử dụng công cụ đó gây ra phí tổn
gia tăng cho xã hội nhỏ hơn so với khi sử dụng công cụ khác.




















NTTULIB
- 18 -
- 18 -
Chương 3
Các vấn đề kinh tế về tài nguyên thiên nhiên.

3.1. Khái niệm về tài nguyên
Dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, khái niệm
tài nguyên được mở rộng ra trên nhiều lĩnh vực hoạt động của con người. Hiểu
theo nghĩa rộng, tài nguyên bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu,
năng lượng, thông tin có trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ liên quan mà
con người có thể sử dụng cho mục đích tồn tại và phát triển của mình. Với nhận
thức mới nhất hiện nay, người ta định nghĩa tài nguyên như sau:
"Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, phi vật chất và tri thức được sử
dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới cho con người"
Như vậy, theo quan niệm mới này tài nguyên là đối tượng sản xuất của
con người. Xã hội loài người càng phát triển, số loại hình tài nguyên và số lượng
mỗi loại tài nguyên được con người khai thác ngày càng tăng.

3.2. Phân loại tài nguyên thiên nhiên.

Hiện nay quan điểm của các nhà Kinh tế học môi trường đều thống nhất
cách phân loại tài nguyên thiên nhiên như sau: Theo khả năng tái sinh và không
có khả năng tái sinh
Tài nguyên không có khả năng tái sinh là những nguồn tài nguyên có một
mức độ giới hạn nhất định trên trái đất, chúng ta chỉ được khai thác chúng ở
dạng nguyên khai một lần, đối với loại tài nguyên này được chia thành ba nhóm:
• Tài nguyên không có khả năng tái sinh nhưng tạo tiền đề cho tái
sinh, ví dụ như đất, nước tự nhiên

NTTULIB
- 19 -
- 19 -
• Tái nguyên không có khả năng tái sinh nhưng tái sinh. Ví dụ như
kim loại, thủy tinh, chất dẻo
• Tài nguyên cạn kiệt. Ví dụ như than đá, dầu khí

3.3. Khan hiếm tài nguyên không có khả năng tái sinh.
3.1.1. Giới thiệu chung.
Tài nguyên không tái sinh như dầu mỏ, than đá, khí đốt…có thể bị cạn
kiệt do đó con người phải tìm tài nguyên thay thế (như trồng rừng) hoặc tìm
công nghệ sử dụng các loại năng lượng được coi là vĩnh cửu (như năng lượng
gió, mặt trời, thủy triều…).
Theo nhiều dự báo, nếu con người cứ khai thác như mức hiện nay, trong
số các tài nguyên khoáng vật (tài nguyên không tái sinh được) có thể duy trì: sắt
được 173 năm, than được 150 năm, đồng được 48 năm, nhôm được 55 năm,
vàng được 29 năm; Các nguồn tài nguyên sinh vật, rừng rậm trong 170 năm nữa
sẽ bị đốn hết, trong đó mưa rừng nhiệt đới có thể hết hẳn sau 40 năm nữa. Các
nhà khoa học chỉ ra rằng, hiện nay trên trái đất đã không tìm thấy một vùng đất
nào hoàn toàn không bị ô nhiễm. Sự ô nhiễm nghiêm trọng môi trường trái đất
không chỉ tạo ra sự khủng hoảng sinh thái mà còn tạo ra sự khủng hoảng sinh

tồn của con người. Vì thế vấn đề hài hòa giữa việc sử dụng tài nguyên thiên
nhiên có sẵn trong môi trường với việc phát triển kinh tế có thể nói là rất quan
trọng đối với một đất nước bởi nó có mối liên hệ rất chặt chẽ: tài nguyên thiên
nhiên góp phần làm cho nền kinh tế phát triển và nền kinh tế có tác động mạnh
đến môi trường.
Đặc tính riêng biệt của những nguồn tài nguyên không có khả năng tái
sinh là có một tổng trữ lượng cố định do thiên nhiên tạo ra, do vậy hiện tại càng
sử dụng nhiều thì trong tương lai tính khan hiếm lại càng cao, khái niệm về sản
lượng bền vững sẽ không phù hợp đối với nguồn tài nguyên này, thay vào đó
điều cần quan tâm trong quản lý nguồn tài nguyên không tái sinh là tốc độ cạn

NTTULIB
- 20 -
- 20 -
kiệt dần và số lượng nên khai thác là bao nhiêu cho nền kinh tế. Liên quan đến
vấn đề này, chúng ta cần xem xét tới những nguyên tắc kinh tế trong khái niệm
khan hiếm tài nguyên thiên nhiên và cách đo sự khan hiếm đó .
Thuật ngữ kinh tế đơn giản, sự khan hiếm sẽ được phản ánh bằng chi phí
và giá cả. Thực tế cho thấy việc đo lường và dự đoán khả năng sẵn có và sự
khan hiếm của tài nguyên thiên nhiên hiện nay và tương lai là rất phức tạp. Việc
đó đòi hỏi phải có một sự kết hợp hài hoà của các ngành khoa học như vật lý,
khoa học kỹ thuật, nguyên vật liệu và dữ liệu, các phương pháp và kỹ thuật phân
tích kinh tế. Đem đối chiếu trữ lượng tiềm năng của các nguồn tài nguyên không
tái sinh với tốc độ sử dụng tài nguyên trong tương lai (gắn với sự gia tăng dân
số, tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, khả năng đáp ứng và yêu cầu
của nền kinh tế quốc dân v.v ) rõ ràng đây là một việc làm không chắc chắn.
Cho nên những sự tranh luận về khan hiếm sẽ là một phần của vấn đề ý thức hệ
môi trường.
Quan điểm “Giới hạn về sự tăng trưởng” (LTG- Limits to growth) đồng
nghĩa với “giới hạn khả năng có sẵn tài nguyên đối với sự tăng trưởng” bao hàm

hai giới hạn thích hợp có thể đối với sự tăng trưởng kinh tế là :
* Khả năng hạn chế của môi trường thiên nhiên tiếp nhận chất thải do các
hệ thống kinh tế thải ra
* Tính chất giới hạn của nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái sinh:
Chúng gắn liền với những nhìn nhận triển vọng của Malthus (theo tên của
Malthus, người có bài viết nổi tiếng về sự khan hiếm được xuất bản năm 1798).
Từ triển vọng này, sự khan hiếm vật chất tuyệt đối. Sự cạn kiệt hết nguồn tài
nguyên thiên nhiên, được tiên đoán sẽ là hậu quả có thể xảy ra nhất trong tương
lai gần và trung hạn.
Một luận điểm khác liên hệ học thuyết tân Manthus nhấn mạnh sự quan
trọng của các giới hạn môi trường đối với các hoạt động khai thác tài nguyên.
Lập luận này chủ yếu cho rằng để tiếp tục khai thác các tài nguyên có chất lượng
ngày càng thấp hơn sẽ phải đòi hỏi một khối lượng rất lớn năng lượng, do đó sẽ

NTTULIB
- 21 -
- 21 -
tạo ra một mức độ ô nhiểm không thể chấp nhận được và làm tổn hại đến cảnh
quan và những tiện nghi đáp ứng cho con người.
Sau khi tác phNm của Ricardo được xuất bản vào năm 1817, với quan
điểm đối lập lại của Ricardo, một bức tranh lạc quan hơn nhiều về sự khan hiếm
tài nguyên đã được nổi lên cho rằng, các ảnh hưởng của sự cạn kiệt tài nguyên
sẽ tự biểu hiện ở việc tăng chi phí và giá nguyên vật liệu qua thời gian khi các
công ty khai thác các mỏ tài nguyên phNm chất thấp. Tuy nhiên những ảnh
hưởng này sẽ được bù trừ bởi những yếu tố khác. Các công ty khai thác sẽ đặt
nhiều nỗ lực hơn vào việc thăm dò và khám phá những mỏ mới, đồng thời
những tiến bộ công nghệ sẽ cho phép sử dụng các mỏ thay thế, chẳng hạn các
phương pháp khoan và thăm dò cho phép khai thác có hiệu quả hơn và các
phương pháp chế biến mới sẽ nâng cao chất lượng của nguồn tài nguyên. Ngoài
ra thị trường sẽ phản ứng lại đối với các tín hiệu tăng chi phí hoặc giá cả bằng

cách cho sự thay thế nguyên liệu mới hoặc cách thức mới về sử dụng nguyên vật
liệu, khả năng tăng các hoạt động tái sử dụng phế liệu sẽ là xu hướng được các
doanh nghiệp lựa chọn và ưa thích hơn. Vậy, tài nguyên sẽ bị khai thác đến cạn
kiệt nếu:
- Không tìm được nguồn tài nguyên thay thế, nghĩa là, không có công
nghệ thay thế.
- Có nguồn tài nguyên thay thế nhưng có bước nhảy lớn về giá, nghĩa là,
giá công nghệ khai thác nguồn tài nguyên mới lớn hơn.
3.1.2 Khan hiếm tài nguyên có khả năng tái sinh
Tài nguyên có thể tái sinh được là loại tài nguyên mà trữ lượng có thể
phục hồi sau khi thu hoạch, nghĩa là có thể tăng hoặc giảm. Trữ lượng sẽ tăng
nếu có điều kiện thuận lợi cho tài nguyên phát triển, ngược lại tài nguyên có thể
cạn kiệt. Tài nguyên tái sinh như nước, đất, rừng, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm
nghiệp nghĩa là có thể tồn tại mãi với thời gian, nếu được quản lý tốt.
Đặc điểm của nguồn tài nguyên có thể tái sinh: Trữ lượng có thể thay
đổi tăng hay giảm so với trữ lượng ban đầu nhất định và không thể tăng quá sức

NTTULIB
- 22 -
- 22 -
chứa của môi trường. Có thể bị cạn kiệt nếu không được quản lý khai thác hợp
lý. Ví dụ như nguồn cá ở một số vùng biển không được quản lý chặt chẽ thì các
ngư dân khai thác tự do có thể sử dụng các phương tiện khai thác mang tính hủy
diệt như dùng mìn đánh bắt cá làm chết không chỉ cá mà cả các sinh vật khác
sống trong vùng. Sự trăng trưởng của một loài phụ thuộc vào rất nhiều hệ sinh
thái mà chúng tồn tại. Các loại trong một hệ sinh thái tác động qua lại lẫn nhau
phục vụ cho sự tồn tại của tự nhiên. Các loại tài nguyên chỉ có thể tái sinh khác
nhau nên sử dụng tối ưu mỗi nguồn sẽ khác nhau.
Năng lượng tái tạo: Việc sử dụng năng lượng mới - năng lượng tái sinh
không những bổ sung cho nguồn năng lượng truyền thống đang có nguy cơ cạn

kiệt mà còn đảm bảo nguồn năng lượng sạch, giảm thiểu khí thải CO2, tạo ra
môi trường bền vững.
Trong cách nói thông thường, năng lượng tái sinh được hiểu là những
nguồn năng lượng hay những phương pháp khai thác năng lượng mà nếu đo
bằng các chuNn mực của con người thì là vô hạn. Vô hạn có hai nghĩa: Hoặc là
năng lượng tồn tại nhiều đến mức mà không thể trở thành cạn kiệt vì sự sử dụng
của con người (thí dụ như năng lượng Mặt Trời) hoặc là năng lượng tự tái sinh
trong thời gian ngắn và liên tục (thí dụ như năng lượng sinh khối) trong các quy
trình còn diễn tiến trong một thời gian dài trên Trái Đất. Hiện nay trên thế giới
đang hối hả phát triển, ứng dụng nguồn năng lượng tái sinh vì:
 Năng lượng truyền thống (than, dầu,…) sắp cạn kiệt.
 Nguồn cung cấp biến động về giá cả.
 Phát thải hiệu ứng nhà kính gây hiệu ứng nóng lên toàn cầu.
 Năng lượng truyền thống gây ô nhiễm môi trường.
 Sử dụng năng lượng truyền thống gây ra các tai họa như hạn hán, lũ
lụt xảy ra trên toàn cầu.
 Nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng tăng.

NTTULIB
- 23 -
- 23 -
Nguồn năng lượng tái sinh được các quốc gia trên thế giới nghiên cứu và ứng
dụng vì nó có những ưu điểm sau:
 Năng lượng tái sinh sử dụng nguồn năng lượng có sẵn trong thiên
nhiên và không gây ô nhiễm môi trường.
 Năng lượng tái sinh làm giảm lượng ô nhiễm và khí thải từ các hệ
thống truyền thống.
 Sử dụng Năng lượng tái sinh sẽ làm giảm hiệu ứng nhà kính.
 Góp phần vào việc giải quyết vấn đề năng lượng.
 Giảm bớt sự phụ thuộc vào sử dụng nhiên liệu hóa thạch.


3.4 Kinh tế tài nguyên
Sống trong xã hội hiện đại, hoạt động kinh tế sử dụng rất nhiều tài nguyên
thiên nhiên ở đầu vào và tầm quan trọng của các nguồn năng lượng từ hoá thạch
như than đá, dầu mỏ và khí thiên nhiên. Nền công nghiệp hoá dầu đồ sộ đã tạo
dựng cũng dựa vào các nguồn tài nguyên này. Lượng vật tư rất lớn sử dụng
trong các nước công nghiệp và cả trong xã hội mang tên là "xã hội thông tin"
đều do nhiều tài nguyên khoáng sản và tài nguyên rừng cung cấp. Nước là đầu
vào thiết yếu của nhiều quy trình sản xuất đồng thời là nguồn tài nguyên được
các hộ gia đình trực tiếp tiêu thụ. Sản xuất thực phNm phụ thuộc vào cơ sở tài
nguyên thiên nhiên, hoặc là thu hoạch trực tiếp như đánh bắt cá, hoặc là cung
cấp những đầu vào thiết yếu để cho thực vật và động vật tăng trưởng. Không khí
cũng là đầu vào thiết yếu của hầu hết các quy trình sản xuất.
Có một nguồn tài nguyên mà chỉ gần đây mới được con người thừa nhận
là đa dạng sinh học. Nguồn tài nguyên này tồn tại không chỉ ở trong một chất,
mà trong một tập hợp các yếu tố thành phần. Các nhà sinh học ước lượng rằng,
hiện nay trên thế giới có thể có đến 30 triệu giống loài sinh vật, chúng đại diện
cho một nguồn rộng lớn và quan trọng của thông tin di truyền hữu ích đối với sự
phát triển thuốc men, thuốc trừ vật hại thiên nhiên, các loài thực và động vật có

NTTULIB
- 24 -
- 24 -
sức đề kháng cao, v.v… Hoạt động của con người đã làm cho tốc độ tuyệt chủng
của các giống loài tăng nhanh. Vì vậy, giữ gìn môi trường sống và bảo tồn giống
loài đã trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất hiện nay.
Một trong những đặc điểm để phân biệt hầu hết các nguồn tài nguyên
thiên nhiên là chúng "phụ thuộc nhiều vào thời gian", điều này có nghĩa là việc
sử dụng chúng kéo dài quá thời gian thu hoạch, cho nên tỷ lệ sử dụng trong thời
kỳ này sẽ ảnh hưởng đến sự có sẵn và tỷ lệ sử dụng trong thời kỳ sau. Đối với

các tài nguyên không phục hồi, điều này tương đối dễ nhận biết. Chẳng hạn, dầu
được hút ra khỏi các mỏ dầu năm nay nhiều bao nhiêu thì sẽ càng khó thu được
dầu hơn trong những năm sau đó! Mối quan hệ giữa lợi ích hiện tại và lợi ích
tương lai cũng xảy ra đối với các tài nguyên có thể phục hồi được. Chẳng hạn,
nên tính toán xem có thể đánh bắt bao nhiêu cá hiện nay để không làm ảnh
hưởng đến sản lượng đánh bắt trong những năm sau, hay là, nên tính toán xem,
khai thác gỗ năm nay hay là chờ một vài năm nữa cho cây đủ lớn, đủ cao rồi mới
khai thác.
Một đặc điểm của thế giới hiện đại là ranh giới giữa tài nguyên thiên
nhiên và tài nguyên môi trường, trong nhiều trường hợp, đang bị xoá nhoà.
Nhiều quy trình khai thác tài nguyên như khai thác gỗ, khai thác mỏ có những
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng môi trường. Ngược lại, cũng có nhiều ví dụ
về ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường có tác động đến các quy trình khai thác tài
nguyên. Ô nhiễm nước ở cửa sông cản trở sự bổ sung nguồn cá hay ô nhiễm
không khí làm giảm sản lượng nông nghiệp. Một thứ khác, chẳng hạn như đời
sống hoang dã, có thể được coi vừa là tài nguyên thiên nhiên, vừa là thuộc tính
của môi trường. Mặc dù khó có thể minh định rạch ròi tài nguyên thiên nhiên và
tài nguyên môi trường, nhưng các nhà kinh tế cũng đã phân biệt giữa hai dịch vụ
của thế giới tự nhiên là: Nguyên liệu và môi trường.
Rất nhiều quốc gia sở hữu dầu mỏ, khí đốt, khoáng sản nhưng lại thất bại
trong phát triển kinh tế. Ngược lại, một số quốc gia khác dù thiếu tiềm năng tài
nguyên thiên nhiên nhưng lại có nhiều thành công trong phát triển kinh tế. Các

NTTULIB
- 25 -
- 25 -
quốc gia và vùng lãnh thổ được mệnh danh là “Những con hổ châu Á” đã đạt
được thành tích tăng trưởng kinh ngạc mặc dù không có được nguồn dự trữ tài
nguyên nhiên nhiên đáng kể nào.
Đặc trưng của cải tài nguyên: Tài nguyên thiên nhiên là một dạng của cải đặc

biệt. Khác với các dạng của cải khác, chúng ta không phải sản xuất ra tài nguyên
mà chỉ đơn thuần khai thác để dùng. Do không phải qua quá trình sản xuất nên
việc sản sinh ra của cải tài nguyên có thể diễn ra khá độc lập với các tiến trình
kinh tế khác trong một quốc gia. Một ngành khai thác có thể không nhất thiết
liên quan đến các ngành công nghiệp khác hoặc không cần sự tham gia của một
lượng lớn lao động nội địa.
Một đặc điểm khác biệt nữa là rất nhiều nguồn tài nguyên, đặc biệt là dầu
mỏ và khí đốt, là không thể tái sinh. Nhìn từ khía cạnh kinh tế, những tài nguyên
này giống với tài sản hơn là nguồn thu nhập.
Tài nguyên thiên nhiên và của cải xã hội : Với những quốc gia nghèo,
nguồn lực tri thức còn hạn chế, chưa sở hữu những bản quyền công nghệ tiên
tiến, nội lực tài chính hạn hẹp, tài nguyên thiên nhiên trở thành một trong những
chỗ dựa quan trọng trong cuộc đua tăng trưởng kinh tế. Dựa vào khai thác tài
nguyên để tạo động lực phát triển có thể hiểu được ở tầm ngắn hạn. Tuy nhiên,
liệu những quốc gia như Việt Nam có thể đạt đến mục tiêu “phát triển bền vững”
về dài hạn hay không khi phải phụ thuộc quá nhiều vào tài nguyên? Có những
lựa chọn nào cho phát triển nếu muốn bảo đảm nguyên tắc “bảo vệ thiên nhiên”
trong hành trình phát triển bền vững? Hay mục tiêu “phát triển bền vững” là quá
xa vời đối với những quốc gia giàu tài nguyên nhưng nền kinh tế còn nghèo
nàn?
Lời nguyền tài nguyên (resource curse): là cụm từ được dùng để mô tả nghịch
lý của các quốc gia, vùng lãnh thổ giàu có tài nguyên, đặc biệt là các tài nguyên
không thể tái sinh như khoáng sản và nhiên liệu, nhưng không có được tốc độ
tăng trưởng và hiệu quả phát triển kinh tế như các nước nghèo tài nguyên.

×