Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

(TIỂU LUẬN) PHÂN TÍCH QUAN điểm của hồ CHÍ MINH về NHỮNG CHUẨN mực, NGUYÊN tắc đạo đức CÁCH MẠNG LIÊN hệ tới sự NGHIỆP đổi mới HIỆN NAY ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.47 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG
CHUẨN MỰC, NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG. LIÊN HỆ TỚI
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

Lớp học phần: 2289HCMI0111
Nhóm thực hiện: nhóm 3
Giảng viên hướng dẫn: Vũ Thị Thu Hà

Hà Nội, 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
PHẦN I: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN MỰC, NGUYÊN
TẮC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG........................................................................................3
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng..................3
1.1. Trung với nước, hiếu với dân.............................................................................3
1.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư...............................................................3
1.3. Thương u con người, sống có tình nghĩa........................................................5
1.4. Tinh thần quốc tế trong sáng..............................................................................6
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng...7
2.1. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức.........................................................8
2.2. Xây đi đôi với chống........................................................................................ 10
2.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời............................................................................... 13
PHẦN II: LIÊN HỆ TỚI VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................................................................... 15



1. Thực trạng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên Việt Nam hiện nay 15
1.1. Tích cực........................................................................................................... 15
1.2. Tiêu cực............................................................................................................ 16
2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy thối đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ,
đảng viên Việt Nam hiện nay........................................................................................ 18
3. Giải pháp góp phần nêu cao đạo đức cách mạng, tăng cường ý thức trách nhiệm
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên Việt Nam.................................................................... 21
LỜI KẾT.......................................................................................................................... 25
ĐỀ TÀI PHỤ.................................................................................................................... 26
LỜI CẢM ƠN.................................................................................................................. 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 28

1


LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, lãnh tụ cách mạng vĩ đại của dân
tộc cũng như của thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đạo đức là một
trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
rất sâu sắc, phong phú, cả về lý luận và thực tiễn, đã trở thành một bộ phận vơ giá của văn
hóa dân tộc và nhân loại, một sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là di sản tinh thần, giá trị
nhân văn to lớn của Đảng và dân tộc ta. Đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, lớp
người sẽ kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của ông cha ta trong thời kỳ mới.
Sinh thời Người nói: ‘Làm cách mạng trước hết phải cách mạng tấm lòng. Cải tạo
xã hội, trước hết phải cải tạo bản thân mình. Kiểm tra đầy đủ lịng mình, bản thân mình.
Tự phê bình cho thành nề nếp. Trước hết sửa mình tu dưỡng bản thân. Sau mới có thể
khuyên bảo cấp dưới. Sau mới có thể làm cho quần chúng noi theo’.

Chính vì vây, việc bổ sung và tổ chức thực hiện chuẩn mực đạo đức, nguyên tắc
cách mạng theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay mà Đảng chỉ đạo tổ chức thực hiện có ý nghĩa quan trọng nhằm
đem lại lợi ích hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam.

2


PHẦN I: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG
CHUẨN MỰC, NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng

1.1. Trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất bao trùm và chi phối các phẩm chất khác.
Xưa kia “trung với vua, hiếu với cha mẹ”, là bậc trung quân, trung thành với vua;
Trung thành với vua cũng có nghĩa là trung thành với nước, vì vua và nước là một, vua là
nước, nước là nước của vua. Và “hiếu” chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, làm con phải
hiếu thảo với cha mẹ.
Tư tưởng “Trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh khơng chỉ kế thừa những
giá trị truyền thống yêu nước của dân tộc, mà còn khắc phục những hạn chế của truyền
thống đó. Trung thành với Tổ quốc là trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Nước ở đây là nước của dân, dân làm chủ đất nước.
Trung thành với Tổ quốc nghĩa là yêu nước, gắn bó với chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối
trung thành với sự nghiệp cách mạng, với con đường đi lên của đất nước, suốt đời phấn
đấu theo Đảng và cách mạng.
Hiếu với dân là phải yêu dân, tin dân, gần dân, học hỏi dân, lấy cái khôn của dân, kính
trọng dân, lấy dân làm gốc, “Phải hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu thương
nhân dân. Phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
1.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, là

phẩm chất đạo đức gắn liền với hàng ngày của mỗi người, các hoạt động, Đề cương đạo
đức Hồ Chí Minh.
“Cần có nghĩa là cần cù, chịu khó, kiên cường”; lao động có kế hoạch, sáng tạo, năng
suất cao; làm việc với tinh thần tự lực, tự cường, không lười biếng.
3


“Kiệm” là tiết kiệm, khơng sang trọng, khơng hoang phí, không bừa bãi". Tiết kiệm
sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của mình ..." Cần
kiệm, phải đi đơi với nhau, như hai chân của con người".
“Liêm" là trong sáng, không tham lam”; là liêm khiết, “ln tơn trọng và giữ gìn tài
sản của cơng, của dân”, “Liêm chính là khơng tham lam chức vụ. Không tham lam tiền
bạc. Không tham lam hạnh phúc. Đừng tự tâng bốc mình ham người.
“Chính” nghĩa là khơng tà, nghĩa là ngay thẳng, chính trực. Chính được thể hiện rõ nét
ở 3 mối quan hệ: Đối với mình: chớ tự kiêu, tự đại, ln chịu khó học tập cầu tiến bộ,

luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân. Đối với người:
không xu nịnh người trên, chớ coi thường người dưới, ln giữ thái độ chân thành, khiêm
tốn, đồn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để công việc lên trên, lên trước
việc tư, việc nhà.
Theo Hồ Chí Minh, đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ mật thiết với nhau mà
cán bộ, đảng viên trước hết phải rèn luyện để làm gương cho nhân dân. Nếu khơng giữ
đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở thành hủ bại, trở thành con sâu của dân.
Chí cơng, vơ tư, hồn tồn vì lợi ích chung, khơng vụ lợi; hết sức cơng bằng, khơng
thiên vị, chính nghĩa, ln đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên trên hết.
Chí cơng vơ tư là đề cao chủ nghĩa tập thể và chống chủ nghĩa cá nhân. Người nói: “Đem
lịng chí cơng vơ tư mà đối với người, với việc”. "Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ
đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau."
Đối lập với “chí cơng vơ tư” là “dĩ cơng vi tư”, tức là ở một vị trí, dù lớn hay nhỏ, có
quyền lực nhưng thiếu lương tâm, có cơ hội đục khoét, có khi ăn hối lộ. Đó là điều mà

đạo đức mới địi hỏi phải chống lại.
Theo Hồ Chí Minh, đối với một đất nước, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu
có của cải vật chất, vững mạnh về tinh thần; thể hiện sự văn minh và tiến bộ. Để trở thành
người có tư cách đạo đức tốt, người ta phải hội tụ đủ các yếu tố cần, kiệm, liêm, chính.

4


Người ta coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản của con người, giống như bốn
mùa của trời, bốn phương của đất.
1.3. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua
hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình u thương con người là phẩm chất
đạo đức cao đẹp nhất.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng
mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà Hồ Chí Minh
Sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập cho dân tộc, tự do hạnh
phúc cho con người.
Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng lớn, trước hết dành cho
những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp bức, bị bóc lột
khơng phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu khơng có tình u thương như vậy
thì khơng thể nói đến cách mạng, càng khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.
Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư tưởng lớn,
là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh, đã được thể hiện ở sự ham muốn tột bậc của
Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo
nên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo
đức và là lý tưởng nhân văn của Người.

Tình thương yêu con người theo Hồ Chí Minh phải được xây dựng trên lập trường của
giai cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí, anh
em, phải được thể hiện ở hành động cụ thể thiết thực. Nó đòi hỏi mỗi người phải chặt chẽ
và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giàu lịng vị tha đối với người khác; phải
có thái độ tơn trọng những quyền của con người, tạo điều kiện cho con người phát huy tài
5


năng; nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ khơng phải là thái độ
“dĩ hịa vi quý”, không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Bằng hành động
và ứng xử của mình, Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta một đạo lý làm người là phải
biết yêu thương và sống với nhau có tình có nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, “hiểu chủ nghĩa
Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống
khơng có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”. Trong Di chúc,
Người viết: “Đầu tiên là cơng việc đối với con người… Phải có tình đồng chí thương u
lẫn nhau”.
1.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của đạo đức
cộng sản chủ nghĩa. Điều này bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân, nhằm vào
mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi hạn quốc gia - dân tộc.
Quan niệm đạo đức về tinh đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiện
trong các điểm sau:
Đồn kết với nhân dân lao động các nước. Đó chính là tinh thần đoàn kết với các dân
tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người
khỏi ách áp bức, bóc lột mà Hồ Chí Minh đã dày cơng vun đắp bằng hoạt động cách mạng
thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
Đoàn kết quốc tế giữa những người vơ sản tồn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn
phương vơ sản đều là anh em". Ngay từ năm 1921, Người khẳng định thực dân đế quốc là kẻ
thủ của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thủ của nhân dân lao động chính quốc. Bởi vậy, để
chống lại kẻ thù chung, đạt tới mục tiêu giải phóng thân phận nơ lệ và bị bóc lột, địi hỏi sự

đồn kết liên minh chặt chẽ nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc. Điểm mới và sâu
sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Người đã chứng minh được bọn đế quốc khơng chỉ áp bức
bóc lột nhân dân các nước thuộc địa, mà còn thống trị nhân dân lao động và giai cấp vơ sản
chính quốc. Người đã ví chủ nghĩa đế quốc giống như "con đỉa hai vòi". Một vòi bám vào
giai cấp vơ sản ở chính quốc, một vịi bám vào giai cấp vô sản
6


ở thuộc địa. Muốn giết con vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi, nếu chỉ cắt một vòi thì

vịi cịn lại tiếp tục hút máu và vịi bị cắt tiếp tục mọc ra. Vì thế, nhiệm vụ chống chủ
nghĩa tư bản, đánh đổ chúng là nhiệm vụ của cả nhân dân lao động chính quốc và thuộc
địa. Nhiệm vụ đó địi hỏi phải đồn kết cả hai lực lượng nổi trên.
Đồn kết với nhân loại tiến bộ vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh
ln nhắc nhở nhân dân Việt Nam về những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc của nhân dân các nước khác. Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập tự do của dân
tộc mình, cho nên cũng rất trân trọng độc lập tự do của các dân tộc khác. Bởi thế, Người
hết sức căm giận trước bất cứ một hành động xâm lược nào và cho rằng: giúp đỡ một dân
tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình,
"giúp bạn là tự giúp mình". Đây chính là một bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về đồn kết quốc tế. Vì lẽ đó, Người ln động viên nhân dân Việt Nam vừa tiến
hành sự nghiệp bảo vệ độc lập tự do của dân tộc mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vơ tư chí
tình, chỉ nghĩa đối với các dân tộc anh em.
Sự đoàn kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Sự đồn
kết ấy dựa trên cơ sở bình đẳng và kết hợp giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ
dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sơ vanh, vị
kỷ, hẹp hịi, kỳ thị dân tộc... Có thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí
Minh bắt nguồn từ tình thương yêu đối với con người, vì mục tiêu giải phóng các dân tộc

bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thực sự
cho con người.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng
lãnh đạo được nhân dân. Người khẳng định: Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có
đức mà khơng có tài làm việc gì cũng khó. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt nam,
7


với tư duy độc lập sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc tư tưởng đạo đức truyền
thống và vận dụng sáng tạo tư tưởng nhân văn của Chủ nghĩa Mác – Lê nin. Người đề
xuất tư tưởng đạo đức mới, tư tưởng đạo đức cách mạng. Để xây dựng một nền đạo đức
mới, Hồ Chí minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng cho sự lãnh đạo của
Đảng, cũng như việc rèn luyện của mỗi người:
2.1. Nói đi đơi với làm, nêu gương về đạo đức
Điều này đã được Hồ Chí Minh nói ngay trong “Đường cách mệnh”, khi đề cập tư
cách của một người cách mệnh. Trong cuộc đời mình, Người đã giáo dục mọi người và
chính bản thân Người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm túc và đầy đủ nhất. Hơn nữa,
chúng ta cịn thấy Người nói ít nhưng làm nhiều, có những vấn đề đạo đức người làm mà
khơng nói. Phải đi sâu vào hành vi đạo đức của Người, chúng ta mới khám phá ra được
bản chất sâu xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đơi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực
cho chính bản thân mình và có tác dụng đối với người khác. Đừng nói nhiều làm ít, nói
mà khơng làm, hơn nữa nói một đằng làm một nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả phản tác
dụng. “Hãy làm theo tơi nói, đừng làm theo tơi làm”, thứ đạo đức giả là đặc trưng đạo đức
của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử của xã hội lồi người trong mỗi quốc gia
dân tộc; nó hồn tồn xa lạ với đạo đức cách mạng, với nền đạo đức mới mà chúng ta cần
xây dựng. Chúng ta phải phấn đấu để làm sao trong xã hội khơng cịn những kẻ đạo đức
giả, càng không cho phép những kẻ đạo đức giả vẫn đi dạy dỗ người khác về đạo đức.
Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với CNXH là một phần quan trọng phụ thuộc vào

vấn đề này.
Từ đó chúng ta thấy rằng khơng ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được đặt ra
nhiều trong vấn đề đạo đức. Trong gia đình thì đó là tấm gương của bố mẹ đối với con
cái, của anh chị đối với những người em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của thầy
cơ giáo đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể, Đảng, Nhà nước là tấm gương của những
người phụ trách, lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; trong xã hội thì đó là tấm gương
8


của người này đối với người khác, những gương “người tốt, việc tốt” mà Hồ Chí Minh đã
phát hiện để mọi người học tập noi theo. “Mét trăm bài diễn văn hay không bằng một tấm
gương sống”- điều mà Hồ Chí Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức
mới một nguyên tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức. Đó cũng là điều chúng ta thấy
ở Hồ Chí Minh- tấmgương đạo đức trong sáng tuyệt vời của một cuộc sống trọn vẹn.
Trong xã hội, tấm gương của các thế hệ đi trước đối với các thế hệ sau là đặc biệt quan
trọng. Mỗi thế hệ đều có trách nhiệm của mình, những thế hệđi trước bao giờ cũng có
những trách nhiệm hết sức nặng nề đối với thế hệ sau trong việc giáo dưỡng, nhất là trong
việc bồi dưỡng đạo đức. Đương nhiên trong cuộc sống không phải bao giờ cũng chỉ diễn
ra một chiều ảnh hưởng, tác động như vậy, do đó Hồ Chí Minh cịn đã nói đến việc người
già có thể học tập người trẻ để khơng ngừng hồn thiện đạo đức của mình Đối với cán bộ,
đảng viên, Hồ Chí Minh đã nêu ra luận điểm quan trọng: “Trước mặt quần chúng, không
phải ta cứ viết lên đầu chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến”.
Nói đi đôi với làm là sự nêu gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, lãnh đạo với
nhân viên… Đảng viên phải nêu gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần
chúng, khơng phải ta cứ viết lên trán chữ ‘cộng sản’ mà ta được họ yêu mến. Quần chúng
chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm
mực thước cho người ta bắt chước.” Luận điểm ấy đã khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương
có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán
bộ, đảng viên.
Tấm gương đạo đức của Bác Hồ là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho cả thế hệ

người Việt Nam mãi mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các anh hùng, chiến sỹ
thi đua, những tấm gương của những người tiêu biểu trong từng ngành, từng tập thể,
những tấm gương “người tốt, việc tốt” rất gần gũi trong đời thường, có ở mọi nơi mọi lúc
mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nói: “Từng giọt nước
nhỏ thẩm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao nhiêu
giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả. Mét pho tượng hay mét lâu đài cũng phải có cái

9


nền rất vững chắc mới đúng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu
đài mà khơng thấy cái nền. Như thể chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc.
“Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành, giới nào địa phương nào, lứa
tuổi nào cũng có”.
Như vậy, những tấm gương đạo đức đã được hiểu theo nghĩa rộng. Có những tấm
gương chung và riêng, lớn và nhỏ, xa và gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng
trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những phẩm chất đạo đức, những chuẩn mực
đạo đức trở thành hành vi đạo đức ngày càng phổ biến trong toàn xã hội, mà những tấm
gương đạo đức của những người tiêu biểu, những người tốt, việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy
q trình đó.
2.2. Xây đi đôi với chống
Muốn xây dựng đạo đức mới, muốn bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cách mạng
cho hàng trăm, hàng triệu con người, cán bộ, đảng viên, các cơng dân trong các giai tầng
khác nhau, thì cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, thì nhất thiết
phải chống lại những biểu hiện sai trái xấu xa, trái với những lời yêu cầu của đạo đức
mới, những hiện tượng vẫn thường được gọi là tệ nạn, tiêu cực, thoái hoá biến chất. Trong
đời sống hàng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức
vẫn thường đan xen nhau, đối chọi nhau, thông qua hành vi của những con người khác
nhau, Hơn nữa những đan xen và đối chọi ấy còn xảy ra ngay trong bản thân của mỗi con
người. Chính vì vậy việc xây dựng và chống trong lĩnh vực đạo đức hồn tồn khơng đơn

giản. Xây phải đi đơi với chống, chống nhằm mục đích xây dựng.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những
phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trường và ngoài xã
hội, nhất là trong những tập thể - nơi mà phần lớn thời gian cuộc đời mỗi người gắn bó
bằng hoạt động thực tiễn của mình. Những phẩm chất chung nhất, cơ bản nhất lại phải
được cụ thể hoá cho sát hợp với từng giai cấp, tầng lớp đối tượng khác nhau. Đó là điều
mà Hồ Chí Minh đã làm trong việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, cho công
10


nhân, nơng dân, phụ nữ, trí thức, văn nghệ sỹ, cho thiếu niên nhi đồng, cho bộ đội, công
an, các tướng lĩnh...
Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành
mạnh ở mọi người, để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình
và như Hồ Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là
việc làm “sung sướng vẻ vang nhất trên đời này”. Tiếp nhận sự giáo dục đạo đức là vấn
đề nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người
còn quan trọng hơn nhiều. Phải chăng sức mạnh của chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là khơi sự tự giác của mỗi người nhằm đấu tranh loại bỏ cái thấp hèn để vươn
tới cái cao đẹp, loại bỏ cái ác, cái vô đạo đức để vươn tới cái thiện, cái đạo đức. Chắc
chắn CNXH tương lai càng phải như vậy, và đó cũng chính là điều mà Hồ Chí Minh nói
về niềm vui của việc trau dồi đạo đức phải trở thành phổ biến trong xã hội.
Trước khi xây dựng, bồi dưỡng những đạo đức phẩm chất mới, phải đồng thời chống
lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức vẫn thường diễn ra. Điều quan trọng là phải phát hiện
sớm, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch lành mạnh về đạo đức. Hơn
nữa cịn có thể thấy trước những gì có thể xảy ra để đề phịng ngăn chặn.
Ngay trong thời kỳ 1925-1927, khi bồi dưỡng những lớp cán bộ cách mạng đầu tiên
theo đường lối cách mạng mới, HCM đã nhắc nhở mọi người không được hiếu danh, kiêu
ngạo, phải ít lịng ham muốn về vật chất. Chỉ 2 tháng sau cách mạng năm 1945, trong thư
gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người đã phạt rất nhiều loại lỗi lầm rất nặng nề

của nhiều cán bộ, đảng viên: trái phép, cậy thế, hủ ho, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Đến
tháng 3/1947, trong thư gửi các đồng chí Bắc bộ, Người chỉ ra hàng chục thứ khuyết điểm
cần phải tẩy sạch, đó là: địa phương chủ nghĩa, bè phái, quân phiệt, quan liêu, hách dịch,
hoạnh họe với dân, coi thường cấp trên, lấn át cấp dưới, hẹp hịi, ham chuộng hình thức,
làm việc lối bàn giấy, vơ kỷ luật, ích kỷ.... Phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó, vừa
bằng giáo dục, vừa bằng xử phạt với mức độ nặng nhẹ khác nhau.

11


Xây dựng đạo đức mới trước hết phải xây đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia đình
đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hóa
sát hợp với từng tầng lớp đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã nêu rất
cụ thể các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã
hội.
Xây là giáo dục những phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng cho con người
Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tất nhiên, giáo dục đạo đức
phải phù hợp với lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác
nhau. Đồng thời, phải chú ý tới hoàn cảnh, nhiệm vụ từng giai đoạn cách mạng. Xa rời
thực tiễn và khu khu giữ lấy những nội dung cũ khi thực tiễn đã vượt qua đều không phù
hợp với quan điểm xây dựng đạo đức của Hồ Chí Minh.
Xây dựng đạo đức có nhiều cách làm. Trước hết mỗi người và tổ chức phải có ý thức
tự giác trau dồi đạo đức cách mạng. Bản thân sự tự giác cũng là phẩm chất đạo đức quý
đối với từng người và tổ chức. Điều này càng cần thiết và có ý nghĩa to lớn đối với Đảng
và mỗi cán bộ, đảng viên. Bởi vì: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một
Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì
đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách đề
sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân
chính”.
Xây đi đôi với chống trên cơ sở tự giáo dục, đồng thời phải tạo thành phong trào quần

chúng rộng rồi. Điều này thuộc quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì chủ
nghĩa xã hội là cơng trình tập thể của quần chúng nhân dân tự xây dựng đuổi sự lãnh đạo
của Đảng. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh cũng viết rõ điều này. Để chống lại những gì đỏ
cũ kỹ, hư hỏng và tạo ra những cái mới mẻ tốt tuoi, cần phải động viên toàn dân, tổ chức
và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của tồn dân.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã ln phát động phong trào quần
chúng rộng rãi và đem lại những hiệu quả thiết thực. Đó là phong trào thi đua tăng gia sản
12


xuất thực hành tiết kiệm, chống tham ơ, lãng phí, quan liêu; cuộc vận động "3 xây, 3
chống": nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế - tài chính, cải tiến kỹ
thuật, chống tham ơ, lãng phí, quan liêu.
2.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo
đức như việc rửa mặt hàng ngày, đây cũng là công việc phải làm kiên trì bền bỉ suốt đời,
khơng người nào có thể chủ quan tự mãn. Người thường nhắc lại luận điểm “chính tâm, tu
thân..." của Khổng Tử, từ đó rút ra ý nghĩa tích cực đề vận dụng vào việc rèn luyện tu
dưỡng đạo đức cách mạng của mỗi người. Người cũng thường nêu lại tấm gương của
người xưa, mỗi tối tự kiểm điểm để bỏ đỗ đen, đỗ trắng vào hai cái lọ, đề cử nhìn vào đó
để thấy mình tốt xấu ra sao. Người đưa ra lời khuyên rất dể hiểu: “Đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Là do đấu tranh, rèn luyện bền hàng ngày mà phát triển và
có được. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Do không chú
ý điều này nên. Có những người trong lúc trang đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ

nguy hiểm, không sợ cực khổ, khơng sợ qn địch, nghĩa là có cơng với cách mạng. Song
đến khi có quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phó,
quan liêu, khơng tự giác mà biến thành người có tội với cách mạng. Từ đó, Người đi đến
một kết luận khái quát: "Một đảng, và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại có sức hấp
dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người u mến và ca ngợi,

nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta
kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, làm cho văn minh chiến thắng
bạo tàn thì đồng thời phải loại trừ những cái xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và
trong mỗi con người.
Đó là điều chúng ta vẫn thấy diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Có những người đã
phấn đấu gần hết cuộc đời, có nhiều cơng lao, nhưng cuối đời lại khơng giữ được tấm
lịng trong sáng, nên sự nghiệp đã đổ vỡ. Kết luận của Hồ Chí Minh cịn đúng với sự đổ
vỡ của Đảng ở cuối thế kỷ XX. Điều này cũng đúng như Lênin trước kia đã nhận định:
cái chết về đạo đức nhất định sẽ dẫn tới cái chết về chính trị.
13


Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đã là người thì ai cũng có chỗ hay chỗ dở, chỗ xấu
chỗ tốt, ai cũng có thiện có ác ở trong bản thân mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con
người mình, khơng tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay cái tốt, cái thiện để phát huy và
thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục.
Đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải được thức hiện trong mọi hoạt động
thực tiễn, trong đời tư cũng như đời công - sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu; trong
mối quan hệ từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn - gia đình, nhà trường, xã hội; từ quan hệ
bạn bè, đồng chí, anh em đến quan hệ tập thể, với cấp trên cấp dưới, với Đảng, với nước,
với dân, và cả trong mối quan hệ quốc tế. Trong cuộc sống, mỗi người có nhiều cương vị,
nhiều vai trò khác nhau phải đòi hỏi điều chỉnh hành vi của mình, và phẩm chất đạo đức
của mỗi người được thể hiện rất cụ thể, phong phú, đa dạng. Có rèn luyện cơng phu như
vậy, con người mới có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp, và những phẩm chất ấy ngày
càng được bồi đắp, nâng cao.
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần gắn việc học tập với giải quyết những
vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong các cơ quan, đơn vị, nhằm phê phán những biểu hiện
tiêu cực đang diễn ra giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, giác ngộ trước
những lỗi lầm sai phạm, tự giác thực hành sửa chữa, đồng thời phát hiện những nhân tố
mới, những điển hình người tốt, việc tốt, những tấm gương sáng tiêu biểu để nhân rộng,

tạo nên một phong trào sống chiến đấu, lao động và học tập theo đạo đức Hồ Chí Minh
mang đầy đủ ý nghĩa thực tiễn và có sức thuyết phục.

14


PHẦN II: LIÊN HỆ TỚI VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên Việt Nam hiện nay

1.1. Tích cực
Về cơ bản, những ưu điêm và kết quả đạt được về phẩm chất đạo đức cách mạng trong
đa số cán bộ, đảng viên hiện nay là:
Có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với lý tưởng cách
mạng, kiên trì phấn đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; có ý thức chính trị cao trong thực
hiện chức trách nhiệm vụ, nhiệm vụ; làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống;
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, đường lối đổi mới của Đảng. Điều này được thể hiện trong nhận thức tư
tưởng, thái độ chính trị và những hành động, việc làm của mỗi cán bộ, đảng viên trước
những tác động phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế; khơng mơ
hồ, dao động trước những tình huống khó khăn, phức tạp; có ý thức, trách nhiệm và thái
độ kiên quyết trong đấu tranh chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống;
ln tích cực, tự giác trong việc học tập và nâng cao nhận thức chính trị, trình độ năng lực
công tác của bản thân; phát huy tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của
người cán bộ, đảng viên; gần gũi, lắng nghe, nắm bắt ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân, được nhân dân tin tưởng.
Có tinh thần u nước sâu sắc, ln đặt lợi ích của Đảng, quốc gia - dân tộc, nhân dân
lên trên lợi ích của ngành, địa phương, cơ quan và cá nhân; sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp
cách mạng của Đảng, của dân tộc vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân
dân; tuyệt đối chấp hành sự phân công của tổ chức; biết lắng nghe, gần gũi nhân dân;

châp hanh chu trương, đương lôi cua Đang, chinh sach phap luât cua nha nươc, nêu cao
tinh thân thương tôn phap luât.

15


Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị. Hiểu, nhận thức một cách đúng đắn, khoa
học, đồng thời biết vận dụng một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ thành quả
cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đề cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; gương mẫu đi đầu,
tận tụy với cơng việc, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; đâu tranh vơi nhưng tư tương
sai trai, phan đông chông pha Đang, nha nươc, cac biêu hiên suy thoai, “tư diên biên”, “tư
chuyên hoa” trong nôi bô Đang.
Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích
chung. Trước u cầu, nhiệm vụ cách mạng hiện nay, đa số cán bộ, đảng viên có tư duy
đổi mới, năng động, sáng tạo, có trình độ, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm
việc trong mơi trường quốc tế, có bản lĩnh vững vàng trong mọi tình huống; nhiều cán bộ
lãnh đạo biết tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo vì sự phát triển và
lợi ích chung...
1.2. Tiêu cực
Bên cạnh những ưu điểm và kết quả đạt được, còn một số han chê, yếu kém:
Trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nhất là tình
hình hiện nay, với sự phát triển bùng nổ của công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
truyền thông cùng với mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường và tư duy bao cấp ăn sâu, chưa
dễ gì rũ bỏ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước đã làm băng hoại đạo đức, lối sống, làm cho
chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy trong một bộ phận cán bộ, đảng viên của các cơ quan Trung ương.
Trên thực tế, thời gian qua trong các cơ quan Trung ương một bộ phận cán bộ, đảng viên,
trong đó, khơng ít đồng chí đã và đang giữ những trọng trách quan trọng, kể cả người đứng
đầu trong các cơ quan, đơn vị tham ô, tham nhũng, kéo bè, kéo cánh, sử dụng “sân sau”,

“cánh hẩu” để bịn rút của cơng; suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thờ ơ với
dư luận, thiếu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân, gây
16


hậu quả nghiêm trọng. Số người này bất chấp tất cả miễn là được leo thật cao, bám thật
sâu vào những chỗ có quyền lợi sát sườn, thay vì đeo bám, sâu sát, tận tâm, tận lực với
cơng việc thì đeo bám, xu nịnh, đút lót, hối lộ, thích làm việc cho cá nhân lãnh đạo hơn là
làm những công việc được phân công, phụ trách.
Trong các cơ quan, đơn vị Trung ương, xuất hiện khơng ít những biểu hiện có tính trì
trệ, lối mịn thậm chí lạc hậu so với thời cuộc. Đâu đó trong mỗi tổ chức đảng và đảng
viên trong các cơ quan, đơn vị ở Trung ương vẫn thiếu vắng sự yêu thương, chia sẻ, tương
thân, tương ái mà thay vào đó là sự phục tùng cứng nhắc của cơ chế, quy chế, quy định do
chính mình tạo ra, đi ngược lại hồn tồn ngun tắc làm việc của Đảng và văn hóa trong
Đảng, hình thành một vài tổ chức, một vài lớp người có đặc quyền, đặc lợi trong cơ quan,
đơn vị. Từ đó dẫn tới những mâu thuẫn nội bộ, tình trạng đấu đá lẫn nhau giữa các tổ
chức và cá nhân, làm cho nội bộ tổ chức đảng mất đồn kết, khơng giữ vững được bản
lĩnh chính trị, giảm sút năng lực lãnh đạo, mất sức chiến đấu, mất uy tín trước cán bộ,
đảng viên, quần chúng và người lao động và trong nhân dân. Trong những trường hợp
này, tình trạng mất chuẩn mực, không ổn định về đạo đức cách mạng đã dễ dàng chuyển
sang sự mất ổn định về tư tưởng chính trị.
Chế độ cơng vụ, quản lý cán bộ, cơng chức viên chức, cơng tác cải cách hành chính và
thủ tục hành chính cịn nhiều bất cập dẫn đến sự chồng chéo, lãng phí lớn về nguồn lực và
kinh phí của Nhà nước mà chưa được khắc phục một cách căn cơ và hiệu quả. Những
biểu hiện thiếu văn hóa như: quan liêu, hách dịch, cửa quyền; bệnh gia đình chủ nghĩa, tật
qua loa, đại khái, thói ỷ lại; bệnh đố kỵ, cào bằng; tác phong đủng đỉnh; bệnh dân chủ
hình thức, chủ nghĩa kinh nghiệm, cơng thần... vẫn cịn xảy ra trong nhiều tổ chức, cơ
quan, đơn vị. Mối quan hệ giữa cán bộ, công chức, viên chức; các chuẩn mực về ứng xử;
các nghi thức tiếp xúc hành chính, các phương pháp giải quyết các bất đồng trong cơ
quan, phương pháp lãnh đạo, quản lý và ý thức chấp hành kỷ luật trong và ngoài cơ quan

của cán bộ, công chức chưa được xây dựng và tổ chức thực hiện tốt; nền nếp làm việc
chưa khoa học, hiệu quả. Mối quan hệ đồng chí, đồng nghiệp, đồng đội sự chân thành,
quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ nhau dần dần bị mai một. Các giá trị văn hóa trong quan hệ,
17


ứng xử giữa người với người dần bị thay thế bởi quan hệ “mua - bán” - bản chất đặc trưng
của cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa. Con người dường như bị hấp dẫn bởi lợi ích của
vật chất, bởi tiền, tài, danh vọng trước mắt mà quên đi mất những giá trị người - bản chất
đặc trưng của văn hóa, con người Việt Nam. Có lẽ, đó là những nguyên nhân căn bản làm
chậm, thậm chí ngăn cản sự phát triển tiến bộ của mỗi cơ quan, đơn vị mà rộng hơn là sự
phát triển của đất nước.
2. Ngun nhân dẫn đến tình trạng suy thối đạo đức cách mạng của đội ngũ cán

bộ, đảng viên Việt Nam hiện nay
Nguyên nhân sự trì trệ, sách nhiễu, cửa quyền, suy thoái đạo đức ở một bộ phận cán
bộ, cơng chức, viên chức trong bộ máy hành chính ở nước ta chủ yếu tập trung vào một số
nguyên nhân sau:
Một là, những sai lầm, khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ. Đây là nguyên
nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém trong ngăn chặn, đẩy lùi suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Những
biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên đều bắt nguồn từ những sai lầm, khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ, từ việc
quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng đến chính sách đãi ngộ …
Trong thực tế, do chưa có cơ chế phù hợp trong việc phát hiện, tạo nguồn, tuyển dụng,
đánh giá, sử dụng, đãi ngộ…; do sơ hở, thiếu trách nhiệm, chun quyền, lũng đoạn, lợi
ích nhóm, “gia đình trị”… trong cơng tác cán bộ nên mới có chuyện chạy chức, chạy
quyền, chạy bằng cấp, chạy tội, chạy tuổi… diễn ra khơng chỉ ở cơ sở mà cịn cả ở cơ
quan cấp cao của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy mới có một bộ phận khơng nhỏ cán
bộ, đảng viên kém đức, kém tài, không đáp ứng đủ những điều kiện, tiêu chuẩn của người

cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý… nhưng vẫn được quy hoạch vào
những vị trí quan trọng, vẫn được gửi đi đào tạo ở các trường uy tín, ở trong và ngồi
nước nhằm hợp thức hóa sự thăng tiến. Có nơi, cán bộ vi phạm pháp luật Nhà nước và kỷ
luật của Đảng lại được bao che, không bị xử lý, thậm chí cịn được trọng dụng, bất chấp
dư luận xã hội.
18


Hai là, cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng lý luận đối với cán bộ, đảng
viên ở một số tổ chức đảng chưa được coi trọng đúng mức; nội dung, hình thức giáo dục
lạc hậu, chồng chéo, xa thực tế; năng lực, phẩm chất của một bộ phận đội ngũ giảng viên,
báo cáo viên chưa đáp ứng được u cầu nhiệm vụ. Vì thế, nhiều người có biểu hiện nhận
thức sai lệch trong học tập lý luận chính trị. Kết quả dẫn đến là ai cũng được “học”,
nhưng cái cần đạt được trong nhận thức lý luận chính trị để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lại
rất thấp. Trong những năm qua, tình hình thế giới, trong nước diễn biễn phức tạp, thường
xuyên tác động mạnh mẽ tới tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên;
các thế lực thù địch ra sức đẩy mạnh thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” với thủ đoạn
tinh vi, xảo quyệt và ngày càng thâm độc, tập trung thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ tổ chức, cán bộ ta. Song, nhiều tổ chức chưa nhận thức rõ được âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; chưa có biện pháp thiết thực tổ chức đấu tranh
một cách mạnh mẽ, khoa học để phản bác một cách hiệu quả, dẫn đến một bộ phận cán
bộ, đảng viên dao động về tư tưởng, đánh mất niềm tin, chao đảo về bản lĩnh, suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Ba là, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng chưa kiên quyết, triệt để, còn nể
nang, né tránh, “dĩ hịa vi q”. Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
Đấu tranh tự phê bình và phê bình là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu để
các tổ chức đảng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên, cơng tác này ở
khơng ít tổ chức đảng chưa kiên quyết và thiếu hiệu quả. Thực tế cho thấy, cấp trên khơng
trong sạch thì khơng thể địi hỏi cấp dưới trong sạch, cấp trên khơng làm kiên quyết thì
cũng khơng thể đòi hỏi cấp dưới làm kiên quyết, cấp trên dĩ hịa vi q thì nhất định cấp

dưới cũng theo đó mà làm. Cấp trên có khuyết điểm thì khơng dám chỉ ra khuyết điểm
của cấp dưới. Họ sẽ tìm cách xoa dịu, che lấp khuyết điểm của người khác để khuyết
điểm của mình khơng bị tố giác, phanh phui… Do đó, trách nhiệm và khuyết điểm liên
quan đến tự phê bình và phê bình trong Đảng thuộc về người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Thực trạng đó do bệnh cá nhân chủ nghĩa, “mũ ni che tai”, ngại va chạm nên né tránh
trách nhiệm, trước hết là người đứng đầu làm ngơ, bỏ qua hoặc sợ trách nhiệm, sợ mất
thành tích, mất cán bộ nên đã x xoa, khơng kiên quyết, triệt để. Chính vì tự phê bình và
19


phê bình khơng nghiêm dẫn đến những khuyết điểm khơng được khắc phục, sửa chữa, rồi
lại bị dụ dỗ, lôi kéo vào những việc làm trái với quy định, lâu ngày dần dần sa vào chủ
nghĩa cá nhân, dẫn đến suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Bốn là, cán bộ chủ trì, người đứng đầu ở một số tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị thiếu
gương mẫu. Người đứng đầu có thẩm quyền và trách nhiệm cao nhất trong mọi hoạt động
của cơ quan, đơn vị chưa thật sự gương mẫu trong vấn đề đạo đức lối sống và trách nhiệm
trong công việc nên đã tác động tiêu cực đến tư tưởng của cấp dưới ở cơ quan, đơn vị
mình. Nhưng cũng phải thẳng thắn thấy rằng, việc quy định trách nhiệm của người đứng
đầu đối với vấn đề này nhìn chung chưa thật rõ, nhất là trách nhiệm khi để xảy ra các vụ
việc tiêu cực, khuyết điểm trong cơ quan, đơn vị. Có những cơ quan, đơn vị khi cán bộ,
đảng viên lợi dụng chức quyền để tham nhũng, làm ăn phi pháp, làm giàu bất chính,
nhưng khơng được cấp ủy đảng, người đứng đầu kiểm tra, làm rõ và xử lý kịp thời. Bên
cạnh đó, “người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao; việc cụ thể hóa các
nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
thành chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa phương, đơn vị cịn chung
chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, trơng chờ, ỷ lại cấp trên…”.
Năm là, những tồn tại, bất cập trong đời sống xã hội như: yếu kém trong công tác
quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội; tình trạng pháp luật thiếu đồng bộ, cơ chế giám sát
quyền lực chưa rõ ràng, hiệu quả; sự phân hóa xã hội trên nhiều lĩnh vực ngày càng gia
tăng; những tiêu cực xã hội khiến khoảng cách lớn giữa người làm ăn chân chính, lương

thiện với những người suy thối đạo đức, làm ăn bất chính để có được của cải bất chính
ngày càng gia tăng… Hiện thực đó tác động tiêu cực tới những cán bộ, đảng viên thiếu
lập trường, thiếu bản lĩnh và thiếu niềm tin. Trong khi đó, “việc xử lý cán bộ, đảng viên vi
phạm còn nương nhẹ, nể nang, thiếu cương quyết. Chưa có cơ chế khen thưởng những tập
thể, cá nhân tổ chức thực hiện nghị quyết sáng tạo, có hiệu quả và xử lý nghiêm những
tập thể, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc...”. Chậm ban hành
quy định xử lý tổ chức, cá nhân vi phạm đạo đức công vụ. Trong một số trường hợp cụ
thể còn biểu hiện bao che, dung túng, tiếp tay cho vi phạm.
20


Bên cạnh đó cịn có những ngun nhân khách quan như:
Tác động từ sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới và các mặt tiêu cực của
quá trình tồn cầu hóa, sự lợi dụng các phương tiện truyền thông hiện đại bởi các thế lực
phản động, thù địch để xun tạc, bóp méo tình hình thực tế của Việt Nam, cổ xúy cho lối
sống hưởng lạc, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, vị đồng tiền.
Tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường.
Âm mưu, chiến lược “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch.
3. Giải pháp góp phần nêu cao đạo đức cách mạng, tăng cường ý thức trách nhiệm

trong đội ngũ cán bộ, đảng viên Việt Nam
Một là, toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao nhận thức, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, là hết lịng,
hết sức vì nước, vì dân, phải chống chủ nghĩa cá nhân mới có đạo đức cách mạng thật sự.
Chính chủ nghĩa cá nhân đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên hư hỏng về đạo đức,
phẩm chất thấp kém, trục lợi, “là người có quyền mà thiếu lương tâm, là có dịp đục kht,
có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ cơng vi tư”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng phải đồng thời
kết hợp giữa chống và xây, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân phải đi đôi với xây dựng
đạo đức cách mạng, trau dồi chủ nghĩa tập thể, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi cá nhân.
Mỗi cán bộ, Đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên

hết, trước hết, không ngừng tu dưỡng đạo đức cách mạng, thực hiện nói đi đôi với làm và
nêu gương về đạo đức, phải thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.Vì
thế phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân với tất cả các biện pháp, thẳng tay trừng trị những kẻ
bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì.
Hai là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Mỗi đảng viên cần quán triệt sâu sắc và nhận diện đúng sự suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tích cực, chủ động, thực
hiện có hiệu quả quan điểm, phương châm, chủ trương, giải pháp của Đảng về đấu tranh
21


khắc phục tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay. Từng cán bộ, đảng viên cần có thái độ kiên quyết
trong đấu tranh với những biểu hiện vi phạm; đề cao tính tự phê bình và phê bình trong
sinh hoạt đảng, trong cơng tác và trong cuộc sống hằng ngày; kết hợp chặt chẽ đấu tranh
khắc phục tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với đấu tranh phịng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến
hịa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, góp phần xây dựng trận địa tư
tưởng vững chắc trong đơn vị, xây dựng các tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức.
Ba là, nêu cao tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ, lãnh đạo quản lý, người đứng đầu. Tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của
mỗi đảng viên là biện pháp có ý nghĩa quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của
việc tự giác hóa q trình hình thành, phát triển đạo đức cách mạng. Tự giáo dục đạo đức
cách mạng, một mặt, phải gắn liền với học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, năng lực tư duy
lý luận, năng lực tổ chức, quản lý; mặt khác, phải gắn liền giáo dục đạo đức với giáo dục
chính trị tư tưởng và giáo dục pháp luật, kết hợp giữa nâng cao nhận thức về đạo đức cách
mạng với rèn luyện đạo đức cách mạng thông qua hoạt động thực tiễn. Do đó, để nâng

cao chất lượng công tác bồi dưỡng giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên
trong quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân tố quyết định trực tiếp chính là hình
thành sự tự nỗ lực phấn đấu, rèn luyện của từng đảng viên trong thực tiễn huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu, trong công tác và trong sinh hoạt đời thường. Thực tiễn cho thấy, đơn vị
nào đề cao vai trò tiền phong gương mẫu, tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng, thì ở đó chất lượng tư tưởng chính trị của người đảng viên được giữ vững, tổ
chức đảng trong sạch, vững mạnh và đơn vị vững mạnh tồn diện.
Bốn là, làm tốt cơng tác kiểm tra, giám sát, kịp thời nêu gương người tốt việc tốt, có
chính sách thỏa đáng với những người có cơng trong phát hiện và đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực; kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời đúng pháp luật đối với những cán
22


bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, hoặc có biểu hiện sa đọa về đạo đức, lối sống, tham nhũng;
đồng thời mỗi cán bộ, đảng viên cần đấu tranh chống diễn biến hồ bình, các luận điệu
xun tạc của các thế lực thù địch bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong
bối cảnh hiện nay, đạo đức con người đang chịu những ảnh hưởng to lớn bởi các lợi ích
kinh tế, lợi ích cá nhân. Vấn đề đặt ra đối với các cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên
làm tốt công tác kiểm tra, sàng lọc, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng, xử lý nghiêm minh
những đảng viên thối hóa về tư tưởng chính trị, vi phạm đạo đức, lối sống, tham nhũng,
cố tình vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đây được coi là nhiệm vụ ưu tiên
hàng đầu, tạo nền tảng cho việc bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng đối
với cán bộ, đảng viên hiện nay, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh,
đơn vị vững mạnh toàn diện.
Năm là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức phương pháp bồi dưỡng, giáo dục,
rèn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Mục đích cao nhất của việc đổi
mới nội dung bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên là hướng vào nâng cao nhận thức cả
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Cần làm cho họ có động cơ phấn đấu rèn luyện đúng đắn, tuyệt đối trung thành với
Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân; trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ

Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có trách nhiệm cao với cơng
việc, với đơn vị và bản thân. Do vậy, nội dung bồi dưỡng, rèn luyện cần hướng trọng tâm
vào nâng cao năng lực quán triệt và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng;
thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của đảng viên. Đổi mới nội dung, hình thức phương
pháp bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên trước hết là đổi mới nhận thức và tư duy của các lực
lượng, các đối tượng. Cùng với đó là đổi mới cách thức quán triệt và tổ chức thực hiện kế
hoạch học tập lý luận chính trị theo quy định, học tập và triển khai thực hiện nghị quyết,
các chuyên đề thông báo chính trị - thời sự, các đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng… Tổ
chức tốt hoạt động thực tiễn gắn với thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị; đưa đội ngũ đảng
viên vào hoạt động thực tiễn để thử thách, rèn luyện và đánh giá kết quả khách quan,
chính xác. Cùng với đó đội ngũ cán bộ chủ chốt, bí thư cấp uỷ và những đảng viên lâu
năm có uy tín trong đơn vị thường xun gần gũi, động viên, giáo dục, thuyết phục đội
23


ngũ đảng viên khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Lấy gương
người tốt, việc tốt hằng ngày, những điển hình tiên tiến trong đội ngũ đảng viên để giáo
dục lẫn nhau. Duy trì thực hiện nghiêm các nền nếp chế độ sinh hoạt, nhất là sinh hoạt tự
phê bình và phê bình; thực hiện tốt việc phân loại đánh giá chất lượng tổ chức đảng và
đảng viên hằng năm. Thơng qua đó các cấp ủy, cán bộ chủ trì cơ quan chức năng nắm
chắc điểm mạnh, điểm yếu, kết quả phấn đấu rèn luyện của từng tổ chức đảng và đảng
viên; chỉ ra được nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót, đề ra nội dung biện pháp,
giúp tổ chức đảng và từng đảng viên khắc phục hạn chế, khuyết điểm kịp thời góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.

24


×