Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

phong trào dân chủ 1936 1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.13 KB, 8 trang )

PHONG TRÀO DÂN CHỦ 1936 – 1939
Người sáng tạo ra lịch sử khơng có thời gian để
viết lịch sử
(Montaigne)
Vì sao trong những năm 1936 – 1939, đông đảo quần chúng nhân dân đã hưởng
ứng tham gia phong trào đấu tranh đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ?
Nhờ những nỗ lực của Đảng và nhân dân ta, phong trào cách mạng bước vào giai
đoạn phục hồi, được đánh dấu bằng Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3/1935)
và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7/1936, đây là bước chuẩn bị
quan trọng để Đảng và nhân dân ta bước vào thời kỳ đấu tranh mới.
Trong những năm 30 của thế kỷ XX, tình hình nước ta và thế giới có nhiều chuyển
biến quan trọng ảnh hưởng đến phong trào cách mạng trong nước.
Về tình hình thế giới: chủ nghĩa phát xít lên nắm quyền ở một số nước, chuẩn bị gây
chiến tranh chia lại thế giới; Mặt trận nhân dân Pháp lên nắm quyền; Đảng Cộng sản
Trung Quốc và Quốc dân đảng đã cùng nhau hợp tác chống Nhật; Quốc tế Cộng sản
đã họp Đại hội lần thứ VII vào tháng 7/1935 để chuyển hướng chỉ đạo cách mạng
thế giới.
Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là những tác động của tình hình trong nước: thời kỳ
này, nhiều đảng phái chính trị ra hoạt động, trong đó có những đảng phái cách
mạng, đảng theo xu hướng cải lương, đảng phản động. Các đảng này tận dụng cơ
hội, đẩy mạnh hoạt động, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng. Tuy nhiên, chỉ
có Đảng Cộng sản Đơng Dương là đảng mạnh nhất, có tổ chức chặt chẽ và có chủ
trương rõ ràng.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933), chính quyền thực dân Pháp ở
Đơng Dương tập trung đầu tư, khai thác thuộc địa để bù đắp sự thiếu hụt cho kinh tế
“chính quốc”. Chính sách của chính quyền thực dân tạo điều kiện cho tư bản Pháp
chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, làm cho 2/3 nơng dân khơng có hoặc có rất ít
ruộng.
Chính quyền thực dân độc quyền buôn bán thuốc phiện, rượu, muối.
Nhìn chung, những năm 1936 – 1939 là thời kỳ phục hồi và phát triển nền kinh tế ở
Việt Nam, nhưng chỉ tập trung vào một số ngành phục vụ cho nhu cầu của chiến


tranh. Nền kinh tế Việt Nam vẫn lạc hậu và lệ thuộc vào kinh tế Pháp.
Về xã hội: đời sống của các tầng lớp nhân dân vẫn khó khăn do chính sách tăng thuế
của chính quyền thuộc địa, số cơng nhân thất nghiệp cịn nhiều. Ngay cả những
1


người có việc làm, mức lương vẫn khơng bằng thời kỳ trước khủng hoảng. Nông
dân không đủ ruộng cày. Họ cịn chịu mức địa tơ cao và các thủ đoạn bóc lột khác
của địa chủ cường hào. Tư sản dân tộc có rất ít vốn nên chỉ lập được những công ty
nhỏ, phải chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép. Nhiều người trong giới tiểu tư sản
trí thức thất nghiệp. Công chức nhận được mức lương thấp. Các tầng lớp lao động
khác phải chịu thuế khóa nặng nề, giá cả sinh hoạt đắt đỏ.
Tóm lại, cùng với những ảnh hưởng của tình hình thế giới đang có nhiều chuyển
biến, cùng với đó là chính sách bóc lột, khủng bố, đàn áp của thực dân Pháp đã làm
cho các giai cấp và tầng lớp dù có quyền lợi khác nhau nhưng đều căm thù thực dân
Pháp, đều có nguyện vọng chung trước mắt là đấu tranh đòi quyền được sống,
quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hịa bình. Trên cơ sở hệ thống tổ chức của Đảng được
được phục hồi, Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng trong giai đoạn mới, đồng thời
được các tầng lớp nhân dân hăng hái hưởng ứng, tạo nên một cao trào đấu tranh đòi
tự do, dân sinh, dân chủ trong những năm 1936 – 1939.
Phân tích những đặc điểm chính của phong trào cách mạng 1936 – 1939.
Cũng dựa vào các tiêu chí như: quy mơ, lực lượng, kẻ thù, hình thức đấu tranh, kết
quả, ý nghĩa lịch sử.
+ Quy mô, phạm vi: rộng khắp cả nước, nhất là các đơ thị.
+ Hình thức đấu tranh: rất phong phú, đa dạng như vận động, tổ chức nhân dân thảo
ra bản “dân nguyện”, cổ động cho Đông Dương đại hội, lập các ủy ban hành động,
biểu tình, bãi cơng, bãi thị, mít tinh, đón rước. Các hình thức đấu tranh này là sự kết
hợp các hình thức cơng khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp. Chính vì có nhiều
hình thức đấu tranh phong phú như vậy nên quần chúng được tập dượt qua thực tiễn
sinh động của cách mạng.

+ Lực lượng tham gia: rất đơng đảo, có cơng nhân, nơng dân, tiểu thương, trí thức,
đảng viên cộng sản…
Qua phong trào này, quần chúng nhân dân được giác ngộ, tham gia vào mặt trận dân
tộc thống nhất, trở thành đội quân chính trị hùng hậu của cách mạng, đặc biệt là
dưới sức mạnh đấu tranh của quần chúng, chính quyền thực dân đã phải nhượng bộ
một số quyền lợi về dân sinh, dân chủ.
Một số lượng lớn tù chính trị được thả. Đến cuối năm 1936, trên 1.000 tù chính trị
được thả và tính đến tháng 10/1937, số lượng này là 1.532, phần lớn là các đảng
viên cộng sản. Đây là nguồn bổ sung cán bộ quan trọng cho Đảng để tham gia lãnh
đạo phong trào cách mạng. Từ trong cuộc đấu tranh này, đội ngũ cán bộ, đảng viên
được rèn luyện và trưởng thành.
2


Đảng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng mặt trận dân tộc thống
nhất, phát động, lãnh đạo và tổ chức quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp
cũng như kết hợp một cách đúng đắn, linh hoạt các hình thức đấu tranh trong điều
kiện cho phép.
Chính nhờ những ưu điểm trên mà phong trào dân chủ 1936 – 1939 được xem như
cuộc tổng diễn tập lần thứ hai cho Cách mạng tháng Tám.
Phong trào cách mạng 1936 – 1939 là một phong trào đấu tranh dân chủ,
nhưng phong trào có tính chất dân tộc hay khơng? Giải thích tại sao?
– Phong trào cách mạng 1936 – 1939 là phong trào đấu tranh dân chủ, nhưng phong
trào vẫn có tính chất dân tộc.
– Bởi vì:
Xét về nhiệm vụ: Hội nghị tháng 7/1936 xác định nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt của
cách mạng là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống
nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, đòi cơm áo, hịa bình. Do vậy, kẻ
thù mà phong trào 1936 – 1939 nhắm đến không phải là chủ nghĩa đế quốc nói
chung mà chính là chủ nghĩa phát xít và bọn phản động thuộc địa khơng chịu thi

hành chính sách của Mặt trận nhân dân Pháp. Tuy nhiên, đây cũng chính là kẻ thù
đang đe dọa đến quyền lợi của dân tộc.
Về lực lượng tham gia phong trào: rất đông đảo công nhân, nông dân, tư sản dân
tộc, tiểu tư sản, trí thức… đó chính là lực lượng của dân tộc. Các lực lượng này
được Đảng kêu gọi, vận động và tập hợp trong Mặt trận thống nhất nhân dân phản
đế Đơng Dương (sau đó là Mặt trận dân chủ Đơng Dương).
Phong trào hướng đến đấu tranh địi các quyền lợi về dân chủ như tự do, cơm áo,
quyền tự do báo chí, ngơn luận, thả tù chính trị. Đó chính là những quyền lợi cơ bản
của dân tộc.
So sánh những điểm giống và khác nhau giữa hai phong trào cách mạng 1930 –
1931 và 1936 – 1939?
– Giống nhau:
+ Đều hướng đến nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là chống đế quốc, phong kiến
giành độc lập dân tộc.
+ Đều thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt là công
nhân và nông dân.
+ Cả hai phong trào đều diễn ra rất mạnh mẽ với hàng trăm các cuộc biểu tình, bãi
cơng của quần chúng, tạo nên một làn sóng đấu tranh rất mạnh mẽ. Đều giành được
những thắng lợi quan trọng.
3


+ Có quy mơ rộng khắp cả nước.
+ Cả hai phong trào đều là cuộc tập diễn tập cho Cách mạng tháng Tám 1945.
– Khác nhau:
Mục
tiêu,
nhiệm
vụ
Kẻ thù


Lực
lượng
Hình
thức
đấu
tranh
Quy

(phạm
vi)

Thời kỳ 1936 – 1939
Chống bọn phản động thuộc
địa, chủ nghĩa phát xít, địi
các quyền tự do, dân sinh,
dân chủ, cơm áo, hịa bình.

Thời kỳ 1930 – 1931
Đánh đổ chính quyền thực
dân, phong kiến, giành quyền
làm chủ cách mạng của quần
chúng.

Không phải là chủ nghĩa đế
quốc nói chung mà là bọn
phản động thuộc địa và chủ
nghĩa phát xít.
Đơng đảo, ngồi cơng nhân
và nơng dân cịn có tiểu tư

sản, trí thức, tiểu thương,
đảng viên cộng sản…
Rất phong phú, đa dạng;
không sử dụng bạo lực vũ
trang.

Đế quốc Pháp và phong kiến.

Rộng khắp cả nước nhưng
chủ yếu ở thành thị.

Rộng khắp cả nước nhưng
chủ yếu ở nông thôn.

Đông đảo, nhưng chủ yếu là
công nhân và nông dân.
Chủ yếu là các cuộc bãi cơng,
biểu tình. Có sử dụng hình
thức đấu tranh vũ trang.

Đại hội lần thứ VII (7/1935) của Quốc tế Cộng sản diễn ra trong hoàn cảnh như
thế nào? Nghị quyết Đại hội có tác dụng như thế nào đối với cách mạng Việt
Nam?
– Hoàn cảnh lịch sử:
Trong những năm 30 của thế kỷ XX, một số nước đã tiến hành phát xít hóa bộ máy
nhà nước (như Italia, Đức, Nhật Bản). Các nước này ráo riết chuẩn bị cho cuộc
chiến tranh thế giới.
Trong thời điểm này, Liên Xô đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành chỗ dựa cho phong trào cách mạng thế giới,
thúc đẩy, cỗ vũ nhân dân các nước đứng lên đấu tranh, kể cả các nước tư bản.

– Tác dụng của Nghị quyết Đại hội đối với cách mạng Việt Nam:
4


Đại hội lần thứ VII (7/1935) của Quốc tế Cộng sản có tác dụng to lớn đối với sự
thành cơng của Đảng Cộng sản Đông Dương trong việc lãnh, chỉ đạo cách mạng
cũng như những thắng lợi của phong trào cách mạng về sau. Bởi Đại hội đã thông
qua nhiều nghị quyết quan trọng, trong đó xác định chủ nghĩa phát xít là kẻ thù trực
tiếp trước mắt đe dọa đến phong trào cách mạng thế giới và hịa bình nhân loại,
“phải chặn tay chủ nghĩa phát xít lại”.
Đại hội nêu nhiệm vụ cho các Đảng Cộng sản trực thuộc là phải tập hợp quần chúng
nhân dân vào trận tuyến đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, giành
các quyền tự do, dân sinh, dân chủ; khẳng định tầm quan trọng của việc thành lập
mặt trận dân tộc thống nhất ở các nước.
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa lịch sử to lớn, thúc đẩy việc Mặt trận nhân
dân Pháp thắng lợi và lên cầm quyền cũng như sự hợp tác giữa Quốc dân Đảng và
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đây là những thắng lợi quan trọng, có tác động và tạo
điều kiện cho cách mạng nước ta.
Tháng 7/1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội
nghị và ra quyết định chuyển hướng chỉ đạo cách mạng theo đúng với tinh thần
Nghị quyết của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Hội nghị xác định nhiệm vụ trực tiếp
trước mắt của cách mạng là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát
xít, chống nguy cơ chiến tranh, địi các quyền dân sinh, dân chủ, cơm áo, hịa bình;
hình thức đấu tranh là kết hợp các biện pháp công khai và bí mật, hợp pháp và bất
hợp pháp; Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế
Đơng Dương, sau đó đến tháng 3/1938 đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Từ đây, một cao trào đấu tranh đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hịa
bình bùng nổ mạnh mẽ khắp cả nước trong những năm 1936 – 1939.
CÂU HỎI KHÁC
 Phong trào dân chủ 1936 – 1939 đã chuẩn bị những gì cho Cách mạng tháng Tám

1945?
 Vì sao nói phong trào cách mạng 1936 – 1939 là cuộc tổng diễn tập lần thứ hai cho
cuộc Cách mạng tháng Tám?
 Nêu nhận xét về quy mơ, hình thức đấu tranh, lực lượng tham gia của phong trào
dân chủ 1936 – 1939.
 So sánh chủ trương và sách lược cách mạng của Đảng, hình thức đấu tranh giữa hai
thời kỳ 1936 – 1939 với thời kỳ 1930 – 1931?
Phân tích mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ dân chủ?
5


Hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tác động lẫn
nhau.
Nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ quan trọng nhất, phải được đặt lên hàng đầu, phải
được tập trung và huy động lực lượng cao nhất để thực hiện.
Tuy nhiên, nhiệm vụ dân chủ khơng vì thế mà bị gác lại, vẫn được thực hiện song
song nhiệm vụ dân tộc, với mức độ và hình thức thấp hơn, bởi nhiệm vụ dân tộc
muốn hoàn thành cần được sự phối hợp và hỗ trợ từ nhiệm vụ dân chủ; và khi nhiệm
vụ dân tộc hoàn thành là điều kiện quan trọng để nhiệm vụ dân chủ có thể được đẩy
mạnh.
Xem thêm:
Chung quanh vấn đề chính sách mới tháng 7/1936, Đảng ta nêu lên một quan điểm
mới: cuộc dân tộc giải phóng khơng nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng
điền địa. Nghĩa là khơng thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển
cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc.
Lý thuyết ấy có chỗ khơng xác đáng. Vì rằng, tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu
nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, cịn vấn đề giải quyết điền địa
tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể tập trung đánh đổ đế
quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa.
Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này

giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là, cuộc phản đế
phát triển tới trình độ vũ trang tranh đấu kịch liệt, đồng thời, vì muốn tăng thêm lực
lượng đấu tranh chống đế quốc, cần phát triển cuộc cách mạng điền địa. “Nói tóm
lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì
phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch
nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho
được toàn thắng”.
Đoàn Đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương tham dự Đại hội lần thứ VII
(7/1935) của Quốc tế Cộng sản.
Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 25/7 đến 25/8/1935 tại thủ đô
Mátxcơva (Liên Xô). Tham dự Đại hội có 510 đại biểu (trong đó có 371 đại biểu có
quyền biểu quyết) của 65 nước trong số 76 chi bộ các nước, thay mặt cho 3.141.000
đảng viên cộng sản, trong đó có 785.000 người thuộc các Đảng Cộng sản ở các
nước tư bản chủ nghĩa.
Trong số các đại biểu, nổi bật là Đimitrov, Stalin, Maurice Thorez, Motolov. Đại hội
họp một tháng tại điện Kremli.

6


Trong lần Đại hội này, với tư cách là phân bộ trực thuộc Quốc tế Cộng sản, Đảng
Cộng sản Đông Dương đã tham dự Đại hội do Tổng Bí thư Lê Hồng Phong dẫn đầu.
Cụ thể, đoàn đại biểu của Đảng ta có các đồng chí: Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập,
Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nọn, Nguyễn Ái Quốc.
Đại hội nhận định: chủ nghĩa phát xít đang đe dọa tồn thể nhân loại, nguy cơ phát
xít đồng thời mang theo nguy cơ chiến tranh, khẩu hiệu hành động là: “Phải chặn
tay bọn phát xít lại”.
Tại Đại hội, đồng chí Đimitrov đọc báo cáo chính: “Tấn cơng chủ nghĩa phát xít và
những nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản trong cuộc chiến tranh thực hiện sự thống
nhất giai cấp vơ sản chống chủ nghĩa phát xít”.

Đại hội cịn có nhiều báo cáo quan trọng khác. Báo cáo về nguy cơ chiến tranh do
đồng chí Togliati trình bày, trong đó có đoạn viết: “Đấu tranh để chấm dứt chiến
tranh và lợi dụng sự khủng hoảng kinh tế và chính trị do chiến tranh tạo ra để nâng
cao mức giác ngộ của quần chúng nhân dân, đưa cuộc đấu tranh lên một mức nữa để
đánh đổ sự thống trị của giai cấp tư bản”.
Đồng chí Manuyxky báo cáo về những bước tiến của Liên Xô trên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội: “Với sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, Liên Xô đã trở thành
một lực lượng vĩ đại về mặt chính trị, kinh tế và văn hóa, có ảnh hưởng lớn trên thế
giới. Liên Xô đã trở thành một trung tâm thu hút và đoàn kết toàn thể nhân dân các
nước, mọi chính phủ quan tâm đến bảo vệ hịa bình”.
Trong phiên họp chiều ngày 10/8, Chủ tịch buổi họp mời đại biểu Đơng Dương,
đồng chí Hải An (tức Lê Hồng Phong) đọc tham luận.
Đồng chí Lê Hồng Phong phát biểu: “Tơi xin trình bày một vài chi tiết về cuộc đấu
tranh của chúng tôi trong thời kỳ cao nhất của nó là thời kỳ 1930 – 1931. Vì chính
trong thời kỳ này ở nước chúng tơi đã thành lập được chính quyền Xơ viết, chính
quyền này tuy chỉ tồn tại được 2 – 3 tháng trong phạm vi rất hạn chế ở mấy tỉnh
miền Bắc Trung Kỳ, nhưng đã đóng một vai trị quan trọng. Vì sau đó phong trào đã
phát triển khơng ngừng dưới khẩu hiệu đấu tranh cho chính quyền Xơ viết.
… Cơng tác to lớn của những người cộng sản Đông Dương là chấm dứt cuộc khủng
hoảng bè phái để đi tới đoàn kết và trong cao trào đấu tranh cách mạng, Đảng đã
quan hệ mật thiết với quần chúng đang đấu tranh, giành được bá quyền lãnh đạo
cách mạng cho giai cấp vô sản”.
Ngày 16/08/1935, trong phiên họp thứ bốn mươi, Đồng Chủ tịch Đimitrov mời đồng
chí Nguyễn Thị Minh Khai lên phát biểu ý kiến:
7


“Thưa các đồng chí! lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng ở nước chúng
tơi, lần đầu tiên từ ngày có Đảng Cộng sản chúng tơi, một phụ nữ như tôi, nữ đảng
viên ở Đông Dương được hân hạnh chẳng những tham gia Đại hội Quốc tế Cộng

sản mà còn từ diễn đàn của Đại hội được báo cáo đến các đồng chí Tây Âu, đến
cơng nhân nam nữ tồn thế giới, rằng, chúng tơi là những nữ công nhân, nông dân
của các nước phương Đông, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, những người bị
cực khổ hơn gấp bội các đồng chí Tây Âu, đã bước vào con đường đấu tranh cách
mạng. Những nữ anh hùng Trung Quốc, những nữ công nhân Nhật Bản và Ấn Độ,
những nữ công nhân và nữ nông dân Đông Dương đang trở thành lực lượng thực
sự trong hàng ngũ cách mạng của các nước thuộc địa phương Đông”.
“Hàng trăm năm luật lệ phong kiến cũ rích đã làm cho phụ nữ phương Đơng phải
âm thầm và ngoan ngỗn làm nơ lệ cho cha mẹ và chồng (làm tê liệt ý chí, đàn áp
và làm tối tăm trí tuệ của họ). Thưa các đồng chí! Nhiều lần tham gia đấu tranh
cách mạng, song chúng tôi chưa lật đổ được ách nô lệ ấy. Cùng với nam công nhân,
nông dân trong nước, chúng tôi sẽ đấu tranh giành tiền lương và điều kiện lao động
bình đẳng, đấu tranh chống đế quốc thống trị, giành độc lập hoàn toàn cho đất
nước…”.
“Cần phải nhấn mạnh rằng Đảng Cộng sản chúng tôi đã và đang tiến hành công
tác tuyên truyền chống chiến tranh đế quốc. Thí dụ: năm 1927 có tám trăm cơng
nhân xưởng đóng tàu Sài Gịn từ chối khơng sửa chiến hạm mà chúng định đưa
sang Trung Quốc để đàn áp khởi nghĩa của công nhân Thượng Hải. Năm 1930 –
1931, những cuộc biểu tình, mít tinh của quần chúng diễn ra dưới khẩu hiệu “chống
đế quốc chiến tranh và bảo vệ Liên bang Xô viết”. Vào tháng 3/1935, khi đế quốc
Pháp điều động quân đội để đàn áp cuộc khởi nghĩa ở Tây Tĩnh thuộc địa phận
Quảng Tây, Đảng đã phát truyền đơn kêu gọi quần chúng đứng dậy đấu tranh
chống can thiệp vũ trang và bảo vệ cách mạng Xô viết Trung Hoa”.
Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII đã thành cơng và bế mạc.
Đồng chí Đimitrov nhắc nhở các đại biểu: “Các đồng chí phải dựa vào quần chúng
tiến hành đấu tranh cách mạng, chống chiến tranh, chống nguy cơ phát xít”.
Trong phiên bế mạc, Đại hội đã chuẩn y quyết định của Ban Chấp hành Quốc tế
Cộng sản thông qua từ năm 1931 về việc kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương vào
hàng ngũ của Quốc tế Cộng sản. Lê Hồng Phong được bầu làm Ủy viên Ban Chấp
hành Quốc tế Cộng sản. Từ đây, phong trào cộng sản Đơng Dương đang lớn mạnh

đã có đại diện tại cơ quan lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản.

8



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×