Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Thu hoạch lớp CCLLCT, môn KTCT, tính phổ biến và tính đặc thù của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và ứng dụng với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.6 KB, 11 trang )

1

MỞ ĐẦU
Lý luận giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác.
Theo đánh giá của V.I Lênin, lí luận giá trị thặng dư là “hịn đá tảng của học
thuyết kinh tế của Mác”. Nhưng, để nhận thức đúng bản chất khoa học của lý
luận này cần đặt nó trong những điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc,
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên
cứu nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Cho nên, chính Mác chứ khơng phải ai khác, là một trong những người
nghiên cứu sâu sắc về kinh tế thị trường. Thực chất của nền kinh tế thị trường
là nền kinh tế hàng hố phát triển ở trình độ cao. Nước ta đang phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hiện nay gọi là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nền kinh tế thị trường ở nước ta
có tính đặc thù của nó, song đã là sản xuất hàng hố thì ở đâu cũng đều có
những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến giá trị và giá trị thặng dư. Điều
khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị và giá trị
thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu tính phổ
biến và tính đặc thù của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu những
phạm trù, công cụ và việc sử dụng chúng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từ di sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa
thực tiễn.


2

NỘI DUNG
1. Lý luận về giá trị thặng dư của C.Mác
Trong nền sản xuất hàng hóa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất,


giá trị sử dụng khơng phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất chỉ vì
nó là vật mang giá trị trao đổi.
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng thời cũng là hình
thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới
hình thái một số tiền nhất định, nhưng bản thân tiền không phải là tư bản.
Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được
sử dụng để bóc lột lao động của người khác. Trong lưu thơng hàng hóa gián
đơn thì tiền được coi là tiền thông thường, vận động theo công thức: H - T H, nghĩa là sự chuyển hóa của hàng hóa thành tiền rồi tiền lại chuyển hóa
thành hàng hóa. Ở đây tiền không không phải là tư bản mà đơn thuần chỉ là
phương tiện để đạt tới một mục đích bên ngồi lưu thơng. Cịn tiền được coi
là tư bản thì vận động theo cơng thức T - H - T, tức là sự chuyển hóa của tiền
thành hàng hóa rồi hàng hóa lại chuyển hóa ngược lại thành tiền. Mục đích
của lưu thơng tư bản khơng phải là giá trị sử dụng như trong lưu thơng hàng
hóa giản đơn mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền thu
về bằng số tiền ứng ra, thì quá trình vận động trở nên vơ nghĩa. Do đó, số tiền
thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản
là T - H - T’, trong đó T’ = T + ΔT. Số tiền trội hơn so với số tiền đã ứng ra
(ΔT) được C.Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu đã chuyển
hóa thành tư bản. Giá trị thặng dư do đâu mà có? C.Mác đã chỉ rõ: “Tư bản
khơng thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngồi lưu
thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu
thông”. Đó là mâu thuẫn chứa đựng trong cơng thức chung của tư bản.


3

Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao
động có hai đặc trưng:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản
giống như nhưng yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sủ dụng sao cho

có hiệu quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của tư bản, chứ không phải của
người công nhân.
C.Mác đã lấy ví dụ về việc sản xuất sợi ở nước Anh là đối tượng nghiên
cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mác đã sử dụng
phương pháp giả định khoa học thông qua giả thiết chặt chẽ để tiến hành
nghiên cứu: Không xét tới ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ
giá trị tư liệu sản xuất đem tiêu dùng chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm
và chỉ nghiên cứu trong nền kinh tế tái sản xuất giản đơn.
Từ thực tiễn nghiên cứu quá trình sản xuất đã rút ra một số kết luận sau:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận
thấy mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc
chuyển hóa tiền thành tư bản diễn ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời
không diễn ra trong lĩnh vực đó. Và chỉ có trong lưu thơng nhà tư bản mới
mua được một thứ hàng hóa đặc biệt, đó là sức lao động.
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra chúng ta thấy có hai phần:
- Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể hóa của người cơng nhân
mà được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới gọi là giá trị cũ.
- Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao
động gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó
bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.
Ba là, ngày lao động của công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia
thành hai phần:


4

- Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: trong thời gian lao động
này người công nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang tầm với giá trị sức
lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho mình.

- Phần thời gian cịn lại là thời gian lao động thặng dư: trong thời gian
lao động thặng dư người công nhân lai tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị
sức lao động hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư
và bộ phận này thuộc về nhà tư bản.
Từ đó Mác đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dơi ra bên ngồi giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt
khỏi điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng giá
trị mới ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản
đã trả cho họ. Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị
vượt khỏi giới hạn tại điểm đó giá trị sức lao động được trả ngang giá.
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó
giai cấp tư sản đã khơng từ bất cứ một thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng
dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị
thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối chiếm những ưu thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà kỹ thuật phát
triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm vị thế chủ yếu. Hai phương
pháp trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ
bóc lột cơng nhân là th trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
2. Vận dụng quy luật giá trị thặng dư trong bối cảnh phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, nên phương thức tạo ra
giá trị thặng dư tuyệt đối (tạo ra do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời


5

gian lao động tất yếu trong khi năng suất lao động xã hội, giá trị sức lao động

và thời gian lao động tất yếu không thay đổi) không được sử dụng, thời gian
lao động không bị kéo quá 8 tiếng một ngày hay 48 tiếng một tuần (Điều 68
Bộ luật Lao động). Gạt bỏ đi mục đích và tính chất của tư bản thì có thể áp
dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối (tạo ra do rút ngắn thời
gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó
tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao
động vẫn như cũ) và biến tấu của nó - giá trị thặng dư siêu ngạch (phần giá trị
thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt
của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó) vào nền kinh tế Việt Nam.
Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN. Nhưng, phải khẳng định rằng, điều đó khơng có nghĩa là lý luận giá
trị thặng dư khơng cịn giá trị, mà sự thật đó là sự vận dụng sáng tạo lý luận
giá trị thặng dư nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung vào sự nghiệp
phát triển kinh tế ở nước ta.
Bối cảnh quốc tế và thực tiễn xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN ở Việt Nam cho thấy: lý luận giá trị thặng dư của Mác cần
được nhận thức một cách sâu sắc hơn và hoàn thiện hơn khi điều kiện lịch sử
ngày nay đã có nhiều biến đổi, theo các hướng như sau:
Một là, khai thác học thuyết giá trị thặng dư về nền kinh tế hàng hoá.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên
cứu nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt nền kinh tế hàng hố tư bản chủ nghĩa.
Cho nên, chính Mác chứ khơng phải ai khác, là một trong những người
nghiên cứu sâu sắc về kinh tế thị trường. Thực chất của nền kinh tế thị trường
là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Nước ta đang phát triển kinh


6


tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hiện nay gọi là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nền kinh tế thị trường ở nước ta
có tính đặc thù của nó, song đã là sản xuất hàng hố thì ở đâu cũng đều có
những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến giá trị và giá trị thặng dư. Điều
khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị và giá trị
thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu tính phổ
biến và tính đặc thù của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu những
phạm trù, công cụ và việc sử dụng chúng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từ di sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa
thực tiễn.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã phát triển nền kinh tế thị
trường, qua thị trường, giai cấp tư sản mới mua được tư liệu sản xuất và sức
lao động, mới bán được hàng hố và do đó bóc lột được giá trị thặng dư do
người lao động tạo ra. Trong nền kinh tế thị trường, dưới tác động của các quy
luật kinh tế, trong đó có quy luật giá trị thặng dư, các nhà tư bản-các doanh
nghiệp đã không ngừng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào
sản xuất để nâng cao năng suất lao động, tích cực hợp lý hố q trình sản
xuất, tiết kiệm các yếu tố đầu vào, tìm hiểu nhu cầu thị trường… để nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các tiềm năng về vốn, khoa học cơng nghệ,
trình độ quản lý sản xuất kinh doanh… được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ,
từ đó làm cho nền kinh tế trở nên năng động. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong khu vực kinh tế nhà
nước và tập thể, chúng ta cần vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư mà các nhà tư bản đã sử dụng để phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế kết hợp với thực hiện phân phối theo lao động và hiệu
quả kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.


7


Hai là, làm rõ hơn bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngay trong
thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay. Qua nghiên cứu lý luận giá trị
thặng dư, chúng ta phải khẳng định rằng, sự giàu có của nhà tư bản là kết quả
của sự bóc lột giá trị thặng dư. Có người cho rằng, nhà tư bản thu nhiều lợi
nhuận là do lao động quản lý, lao động khoa học - kỹ thuật của nhà tư bản,
nhưng khi phê phán luận điểm của nhà kinh tế chính trị học J.Say cho rằng lợi
nhuận doanh nghiệp là tiền công trả cho lao động quản lý của nhà tư bản,
C.Mác đã chỉ rõ: Chỉ cần dành ra một khoản thù lao nhỏ mọn là nhà tư bản có
thể trút gánh nặng quản lý đó cho người giám đốc làm thuê nhưng nhà tư bản
vẫn thu được lợi nhuận doanh nghiệp. Như vậy, khi quy mô kinh doanh ngày
càng lớn, nhà tư bản đã hiện rõ sự bóc lột của mình đó là có một khoản lợi
nhuận lớn nhưng không phải bỏ sức lao động mới có được mà chỉ cần là
người sở hữu tư bản.
Ba là, nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư không phải là để kỳ thị
thành phần kinh tế tư bản tư nhân mà để khuyến khích nó phát triển, bởi vì có
hiểu rõ bản chất của nó mới có chính sách đúng đắn với nó. Chẳng hạn, hiểu
rõ mục đích và động cơ của sản xuất TBCN là thu càng nhiều giá trị thặng dư
càng tốt, thì muốn khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân phát triển
và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài chúng ta phải có chính sách như thế nào
để họ thu được lợi nhuận thoả đáng, thậm chí cao hơn lợi nhuận thu được khi
học đầu tư vào các nước láng giềng của ta. Mặt khác, phải có biện pháp điều
tiết bớt sự chênh lệch quá đáng giữa người giàu và người nghèo, đồng thời có
các chính sách xã hội để giảm bớt bất công.
Bốn là, khai thác những luận điểm của Mác nói về qúa trình sản xuất,
thực hiện, phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng những biện
pháp, thủ đoạn nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản nhằm
góp phần vào việc quản lý các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong nền



8

kinh tế nước ta sao cho vừa có thể khuyến khích phát triển, vừa hướng các
thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Năm là, nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư không chỉ để hiểu bản
chất của chủ nghĩa tư bản, mà còn để vận dụng vào thực hiện quan điểm,
đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân để xây dựng thành
công cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Mác nói về q trình tổ
chức sản xuất và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản
xuất lớn gắn với quá trình xã hội hố sản xuất ngày càng cao nhằm tạo ra khối
lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn. Trên cơ sở những gì được coi là tất yếu
của quá trình lịch sử tự nhiên, đặc biệt là về mặt tổ chức - kinh tế, vận dụng
vào nền kinh tế nước ta thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy
nhanh q trình xã hội hố theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ một nền sản
xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn, hiện đại sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị
thặng dư để thực hiện nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là CNH, HĐH
nền kinh tế nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người
lao động.
Trên tinh thần ấy, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thể hiện rõ trong Nghị quyết
Đại hội X (2006): “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và
tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế ti
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH, phát triển mạnh các
ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức; kết
hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức mới nhất của nhân loại.”
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là cơ sở lý luận của
đường lối ưu tiên CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam.



9

Các nhân tố làm tăng quy mơ tích lũy tư bản có thể vận dụng vào việc
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Từ quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống cho thấy, các
doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh phải năng động, sáng tạo,
tiết kiệm chi phí, khấu hao nhanh công nghệ để nhằm ổn định và phát triển
trong xu thế cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường.
Như vậy hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói
chung và lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục
đích nghiên cứu của kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất
TBCN, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của CNTB cổ điển và xu
hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục
đích như trước, chúng ta cịn có mục đích nghiên cứu, khai thác học thuyết
giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về
kinh tế thị trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới.


10

KẾT LUẬN
Qua phân tích một số vấn đề chủ yếu của lý luận giá trị thặng dư chúng
ta tiếp tục khẳng định giá trị khoa học và thực tiễn của học thuyết, rằng học
thuyết giá trị thặng dư - học thuyết về bản chất bóc lột và địa vị lịch sử của
chủ nghĩa tư bản, vẫn là cơ sở phương pháp luận để nhận thức đúng chủ nghĩa
tư bản hiện đại. Học thuyết đó cịn là cơ sở lý luận cho sự vận dụng vào quá
trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,

có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.


11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị học Mác-Lênin (Hệ cao cấp lý luận chính
trị), Nxb. Lý luận chính trị, H2016.
2.

Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin về phương thức sản xuất tư

bản chủ nghĩa, (Hệ cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, H2005.
3.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.




×