Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Quan điểm của triết học mác – lenin về dân tộc, tính đặc thù của sự hình thành dân tộc việt nam trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.12 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG...............................................................................................................2
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LENIN VỀ DÂN TỘC
...................................................................................................................................2
1.1.Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc.........................2
1.1.1.Thị tộc........................................................................................................2
1.1.2.Bộ lạc.........................................................................................................2
1.1.3.Bộ tộc.........................................................................................................3
1.2.Dân tộc - hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay.................................4
1.2.1.Khái niệm dân tộc......................................................................................4
1.2.2.Đặc trưng của dân tộc.................................................................................5
CHƯƠNG 2: TÍNH ĐẶC THÙ CỦA SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC VIỆT
NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY. 9
2.1. Quá trình hình thành của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên xã hội
chủ nghĩa hiện nay..................................................................................................9
2.2. Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên xã
hội chủ nghĩa hiện nay..........................................................................................10
KẾT LUẬN............................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................14


LỜI NĨI ĐẦU
Vấn đề dân tộc ln có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của
mỗi quốc gia có một hay nhiều tộc người cả trong lịch sử và trong thế giới hiện
đại. Nó ảnh hưởng đến sự ổn định, tồn tại và phát triển của nhà nước, thể chế chính
trị ở quốc gia đó nếu không được giải quyết đúng đắn.
Độc lập dân tộc gắn với chủ quyền quốc gia đang là một xu thế của thế giới.
Mỗi quốc gia dân tộc, dù lớn hay nhỏ, đều cố gắng khẳng định giá trị dân tộc, như
quyền tự quyết định chế độ xã hội, kinh tế, đường lối phát triển đất nước, khẳng
định sự bình đẳng giữa các quốc gia trong sinh hoạt quốc tế. Lợi ích quốc gia được
các nước đặt lên hàng đầu trong các hoạt động đối nội và đối ngoại. Chính phủ các


nước đều coi trọng việc xác lập, bảo vệ và củng cố các giá trị truyền thống, bản sắc
dân tộc, thực thi nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội tích cực, cố gắng tạo
lập sự hài hòa lãnh thổ, vùng miền, sắc tộc nhằm hướng tới sự đồng thuận, gắn kết
quốc gia.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, vấn đề về dân tộc tại Việt
Nam ta vẫn luôn được mọi người quan tâm và bàn luận. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn
đề này, trong bài tiểu luận lần này, em sẽ đi vào nghiên cứu đề tài: “Phân tích
quan điểm của triết học Mác – Lenin về dân tộc, tính đặc thù của sự hình
thành dân tộc Việt Nam trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa hiện nay”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục bài tiểu luận gồm 2 phần:
Chương 1: Quan điểm của Triết học Mác- Lenin về dân tộc
Chương 2: Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc Việt Nam trong thời kì
quá độ lên xã hội chủ nghĩa hiện nay

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LENIN VỀ DÂN TỘC
1.1.Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc
Con người mang bản chất xã hội, tồn tại và phát triển bên dưới những người
nhất định cộng đồng hình thức. Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ trước
đến nay là lịch sử phát triển của các cộng đồng hình thức từ dưới lên: thị tộc, bộ
lạc, bộ tộc và dân tộc.
Trong các định thức này, dân tộc là cao nhất cộng đồng hình thức của con
người, và phổ biến nhất trong các xã hội loài người ngày nay
1.1.1.Thị tộc
Ph . Ăngghen chỉ rõ : “ thị tộc ( trong chừng mực những tài liệu hiện có cho
phép chúng ta phản đốn ) là một thiết chế chung cho tất cả các dân dã man , cho
tận đến khi họ bước vào thời đại văn minh , và thậm chí cịn sau hơn nữa ”

Thị tộc có những cơ bản đặc biệt sau: Các thành viên trong thị tộc đều thực
hiện công việc chung, trò chơi của các thành viên phụ thuộc vào vị trí của họ trong
ban đầu. Các thành viên trong thị tộc có chung một tổ hợp và nói cùng một ngôn
ngữ; Về tổ chức xã hội, thị tộc bầu ra các trưởng, tộc trưởng và các thủ lĩnh quân
đội để điều hành công việc chung của thị tộc.
Quyền lực của trưởng nhóm, tộc trưởng và thủ lĩnh quân đội được thực hiện
trên cơ sở uy tín và đạo đức cá nhân của họ. Các trưởng đoàn, trưởng đoàn, quân
trưởng làm các thành viên trong thị trấn bầu cử và có thể được cách chức nếu
khơng hồn thành chức năng của mình.Mọi thành viên trong thị tộc đều bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ .
1.1.2.Bộ lạc
Bộ lạc là một cộng đồng được tạo thành từ các tộc người có hệ thống huyết
thống quan hệ hoặc hôn nhân.
2


Bộ lạc là một cộng đồng dạng cộng đồng phát triển từ thị tộc và được cấu
hình để làm liên kết của nhiều thị tộc theo dòng họ. Ph.Ăngghen viết: “Một khi dân
tộc được coi là đơn vị cơ bản của xã hội, thì tồn bộ hệ thống Thị tộc, thị tộc và bộ
lạc phát triển từ hệ thống này với sự cần thiết gần như không thể ngăn cản. những
điểm đặc biệt sau: Cơ sở kinh tế của bộ lạc là ruộng đất chế độ và công cụ xuất
khẩu Mọi thành viên đều làm công việc chung, quan hệ giữa các thành viên trong
lĩnh vực sản xuất vật chất là bình thường đẳng.
Tuy nhiên, lãnh thổ của bộ tộc ổn định hơn so với lãnh thổ của thị tộc. Về tổ
chức xã hội, đứng đầu là hội đồng các trưởng gia nhập lạc bộ và có một tù trưởng
cao nhất. Tất cả các vấn đề quan trọng trong bộ tộc đã được thảo luận và thông qua
trong hội đồng này. Trong q trình phát triển, một bộ lạc có thể được chia thành
nhiều bộ lạc khác nhau hoặc có sự hợp nhất của nhiều bộ lạc thành một bộ lạc bộ.
1.1.3.Bộ tộc
Bộ tộc là một dạng cộng đồng người được hình thành khi xã hội có sự phân

chia thành các giai cấp. Các bộ tộc được hình thành do sự liên hiệp của nhiều bộ
lạc cùng sinh sống trên một lãnh thổ nhất định. Nếu thị tộc và bộ lạc chỉ được tạo
thành từ những người có cùng dịng dõi, thì bộ lạc là sự liên hợp của nhiều bộ lạc
khơng có quan hệ huyết thống. Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “Do việc mua bán ruộng
đất, sự phát triển hơn nữa của sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ
công, giữa buôn bán và giao thông thủy, và các thành viên của thị tộc, chế độ và
bộ lạc đã sớm phải sinh sống và phát triển. cùng với nhau; và lãnh thổ của các bộ
lạc và bộ lạc đã phải kết nạp những người cũng là đồng bào nhưng khơng thuộc
các nhóm này, tức là người nước ngồi về địa điểm.
Tập hợp các tội ác hình thành với chế độ nô lệ; Trong các xã hội bỏ qua chế
độ nơ lệ, các bộ lạc được hình thành bên cạnh chế độ phong kiến. Sự hình thành
và phát triển của bộ lạc phức tạp hơn thị tộc và bộ lạc. Ở những quốc gia khác
nhau, những thời điểm khác nhau, các bộ lạc có những đặc điểm riêng. Với tư
cách là một hình thức cộng đồng người trong lịch sử, bộ lạc có những đặc điểm
chủ yếu sau: Mỗi bộ lạc có một tên riêng; có lãnh thổ riêng và ổn định; có một
3


ngôn ngữ thống nhất. Nhưng do sự kết nối cộng đồng chưa phát triển nên tiếng nói
chung đó chưa thực sự bền chặt.
Bên cạnh ngôn ngữ chung, phương ngữ của các bộ tộc vẫn được sử dụng
rộng rãi. Các yếu tố tâm lý và văn hóa phổ biến đã xuất hiện trong bộ lạc. Trong
vấn đề tổ chức xã hội, việc quản lý công tác xã hội thuộc về Nhà nước. Nhà nước
là công cụ do giai cấp thống trị tổ chức và phục vụ lợi ích của giai cấp này. Với sự
ra đời của bộ tộc, lần đầu tiên trong lịch sử, sự kiện đối với một số hình thức cộng
đồng người được hình thành khơng phải theo dịng dõi mà trên cơ sở thực tế kinh
tế, lãnh thổ và văn hóa, mặc dù các dịng họ đó chưa thực sự phát triển.
1.2.Dân tộc - hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay
1.2.1.Khái niệm dân tộc
Dân tộc là cộng đồng phát triển hình thức. Khái niệm dân tộc được sử dụng

theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng (nation) chỉ các quốc gia và dân tộc trên thế giới
(như Việt Nam, Campuchia, Anh, Pháp…). Theo nghĩa hẹp (ethnie , ethnic group)
chỉ cộng đồng dân tộc - đa số và dân tộc thiểu số của một quốc gia (Kinh, Tày,
Nùng, Mông, Vân Kiều, Êđê, Khmer, v.v.).
Trong đó, cộng đồng dân tộc là cấu trúc phần tử của quốc gia, dân tộc.
C.Mác, Ph.Ăngghen và VILênin tuy chưa được đưa ra một định nghĩa đầy đủ về
dân tộc, nhưng đã tổng hợp được những nền tảng của dân tộc, phân tích một cách
khoa học pháp luật thành hình và phát triển dân tộc, chỉ rõ trường lập trình vơ cấp
sản xuất về các vấn đề dân tộc. Ph.Ăngghen cho rằng giai cấp tư sản càng ngày
càng xóa trạng thái phân tán tư liệu sản xuất, tài sản và dân cư và tạo ra “hệ thống
dân tộc nhất với một hệ thống bao phủ chính và hệ thống pháp luật, hệ thống lợi
ích giai cấp và hàng rào thuế quan”.
Như vậy, các nhà kinh điển thấy rằng các tác phẩm nói đến dân tộc với nghĩa
là quốc gia, dân tộc và nhấn mạnh đến hệ thống yếu tố và sự ổn định của dân tộc
cộng đồng. Theo quan điểm của các nhà kinh điển, có thể khái quát: Quốc gia là
một cộng đồng dân cư ổn định, được hình thành về mặt lịch sử trên lãnh thổ, ngôn
ngữ, kinh tế nhất, kinh tế nhất .
4


1.2.2.Đặc trưng của dân tộc
Dân tộc là một cộng đồng người ổn định trên một lãnh thổ thống nhất:
Dân tộc là đồng dạng cộng đồng phát triển từ trước đến nay sau bộ tộc, được
định hình thành ổn định. Lãnh thổ là không tồn tại và phát triển của dân tộc, là định
dạng thành các cộng đồng ổn định trong lịch sử.
Mỗi quốc gia đều có lãnh thổ riêng, hệ thống nhất và khơng bị cắt làm hình
thành lâu đời và trải qua nhiều thử thách của lịch sử. Các quyền thuộc phạm vi lãnh
thổ của mỗi quốc gia, dân tộc và được xác định bằng đường biên giới quốc gia.
Nếu trong lãnh thổ dân tộc được chia cắt bởi lãnh chúa ,… thì lãnh thổ của quốc
gia đó khơng bị cắt và ổn định hơn rất nhiều. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có một

vùng đất xác định và vùng đất này được coi là vùng đất mà các thành viên trong
dân tộc có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ.
Hiện nay, lãnh thổ của một dân tộc không chỉ được hiểu là lục địa mà còn
bao gồm cả vùng biển, vùng trời, các hải đảo và thềm lục địa ..., được thể chế hóa
bằng luật pháp quốc gia và quốc tế. Chủ quyềnquốc gia luôn là câu hỏi thiêng liêng
của mọi quốc gia.
Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là đặc trưng cơ bản của dân tộc. Vừa là công cụ giao tiếp kết nối
các thành viên trong cộng đồng dân tộc, vừa là phương tiện giao thơng lưu trữ văn
hóa giữa các dân tộc. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia dân tộc có một hệ thống ngơn ngữ
được sử dụng chung cho tất cả các cộng đồng dân tộc trong quốc gia, dân tộc đó.
Nhất tính hệ thống của ngơn ngữ dân tộc có thể hiện ở hệ thống nhất giữa pháp cấu
trúc và vốn từ cơ bản. Ngày nay, khi thương mại và hội nhập quốc tế phát triển,
ngôn ngữ của một quốc gia có thể được nhiều quốc gia sử dụng, nhưng ngơn ngữ
đó vẫn được xác định (tiếng mẹ đẻ) là ngơn ngữ chính của quốc gia sản xuất sinh
ra.
Dân tộc là một hệ thống cộng đồng nhất về kinh tế

5


Khoa học đã được chứng minh rằng từ sự phát triển của cộng đồng dân tộc
sang các bộ lạc, bộ lạc, yếu tố liên kết giữa các thành viên trong cộng đồng trên
dòng cộng đồng giảm dần, vai trò của kinh tố ngày càng được nâng cao. Kinh tế là
đường lối sống của con người gắn kết các dân tộc thành một cộng đồng dân tộc.
Tuy nhiên, khi một quốc gia, dân tộc được hình thành, thì nền kinh tế được
hiểu là nền kinh tế hệ thống nhất của một quốc gia độc lập, tự quản lý. Ph.Ăngghen
đã chứng minh rằng cơ sở nhân tố đến quá trình chuyển đổi từ cộng đồng dân tộc
thành cộng đồng dân tộc là tác nhân kinh tế. Dân tộc tiêu biểu là dân tộc tư sản bao
gồm các tầng lớp, các tầng lớp xã hội khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp xã hội này

có quan hệ kinh tế chặt chẽ với nhau trong một hệ thống tế bào nhất định được
hình thành trên lãnh thổ quốc gia, đó là hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong
thế giới hiện đại, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, nhưng mỗi quốc gia, dân tộc
vẫn có một nền kinh tế độc lập, không phụ thuộc và phụ thuộc vào các quốc gia
khác.
Dân tộc là một cộng đồng bền vững về văn hóa , tâm lý và tính cách
Văn hóa là quan trọng đặc biệt phần tử của đồng liên kết, được xem như “bộ
gen”, “bản sắc” của mỗi dân tộc cộng đồng. Nền văn hóa dân tộc có thể hiện nhiều
trạng thái của cộng đồng dân tộc, dân tộc, địa phương, nhưng vẫn là hệ thống hóa
nền, có các điểm chung, ổn định. Mỗi dân tộc đều có những nét đặc trưng của văn
hóa, tạo nên bản sắc của dân tộc. Đặc biệt văn hóa của dân tộc thể hiện trong
phong tục, tập quán, tín ngưỡng và các hoạt động sinh học khác nhau của các thành
viên trong cộng đồng dân tộc.
Xã hội càng phát triển, giao dịch văn hóa càng tăng cường và nhu cầu văn
hóa hóa ngày càng cao, giao hịa văn hóa càng nâng cao sức mạnh nhưng hầu hết
các dân tộc vẫn giữ được các sắc thái văn hóa. Lịch sử đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc luôn liên kết với cuộc đấu tranh giữ bản sắc văn hóa, chống nguy cơ đồng
hóa. Trong tiền cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, các quốc gia, dân tộc hiện đại nhận
thức được muốn bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc thì phải có hội nhập nhưng
khơng được “hòa tan”.
6


Mỗi dân tộc cũng có tâm lý, cách thức riêng và có thể hiện qua sinh vật chất
và tinh thần của dân tộc đó, nhất là qua phong tục, quán, tín ngưỡng và đời sống
văn hóa của dân tộc đó. trở thành lương tâm của mọi người trong cộng đồng dân
tộc ở chỗ dù phải rời khỏi lãnh thổ của dân tộc để sống trong một đồng hoàn toàn
cộng đồng nhưng các đặc điểm, tính cách văn hóa vẫn được lưu giữ lâu dài.
Dân tộc là một cộng đồng người có một nhà nước và pháp luật thống
nhất

Đó là điểm đặc biệt của quốc gia dân tộc để phân biệt với quốc gia theo
nghĩa dân tộc (đa số hay thiểu số). Làm câu hỏi của trường và sự phát triển của
hàng hóa lưu trữ, giai cấp tư sản đã xóa phân tán trạng thái về kinh tế, chính trị và
“cơ sở”, hình thành hệ thống “liên minh” về lợi ích .
Kết quả là hình dạng thành “hệ thống phủ chính”, “hệ thống pháp luật”,
“thuế quan duy nhất” Vì vậy, nhà nước và hệ thống luật pháp là một dấu ấn của
quốc gia và thế giới ngày nay, cũng là một khái niệm phổ biến xung quanh thế
giới.Nhà nước - quốc gia là một đơn vị không thể tách rời, dân tộc nào cũng có nhà
nước và nhà nước nào cũng thuộc về một dân tộc nhất định. Dân tộc có thể phát
triển từ một bộ lạc và nó cũng có thể được tạo ra từ một bộ lạc số.
Tuy nhiên, quan hệ giữa các thành viên bộ lạc vẫn còn lỏng lẻo và yếu kém,
trong khi quan hệ trong cộng đồng dân tộc ngày càng ổn định và lâu dài. Tính cộng
đồng lâu bền này tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia và đảm bảo cho một quốc
gia có thể tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử khác nhau, kể cả khi
có giặc ngoại xâm hay xung đột.
Sự kết hợp các đặc điểm cơ bản về lãnh thổ, ngơn ngữ, kinh tế, văn hóa, tâm
lý, tính cách, nhà nước và pháp luật thống nhất làm cho cộng đồng dân tộc phát
triển nhất và lâu dài nhất so với bất kỳ hình thức cộng đồng nào khác trong lịch sử.
Trong tương lai, dân tộc sẽ tồn tại lâu dài, kể cả sau khi các giai cấp khơng cịn
trong lịch sử.
Q trình hình thành các dân tộc ở châu Âu và đặc thù sự hình thành
dân tộc ở châu Á
7


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, dân tộc là một cộng đồng hình
thức liên kết với xã hội có giai cấp, nhà nước và thể chế chính trị. Lịch sử cho thấy,
một quốc gia có thể được hình thành từ một bộ tộc đang phát triển, nhưng hầu hết
các trường hợp đều được hình thành trên cơ sở hợp nhất của nhiều bộ lạc và tộc
người. C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng ở châu Âu, các quốc gia được hình

thành theo hai phương thức, chủ yếu liên kết với sự hình thành và phát triển của tư
bản chủ nghĩa. Ở thứ nhất phương thức, các tộc người được định hình từ nhiều bộ
lạc khác nhau trong một quốc gia.
Quá trình thành dân tộc trên vừa nước là quá trình thống nhất đất, trường
nhất hệ thống; đồng thời cũng là q trình đóng các lạc bộ khác nhau thành một
quốc gia, dân tộc, một quốc gia độc lập, như ở Đức, Ý, Pháp,... Ở đây khơng có
q trình đồng hóa các lạc bộ mà chỉ có q trình thống nhất các lãnh thổ phong
kiến để thành lập một quốc gia bao gồm một số quốc gia, trong đó mỗi quốc gia
được định hình thành từ bộ tộc của mình , như trường hợp ở Nga, Áo, Hungary,.. Ở
các nước Châu Âu, sự hình thành và phát triển của dân tộc trải qua một số thời kỳ
chính: gắn liền với cách mạng tư vấn sản xuất cấp lãnh đạo ; Sự hình thành các tộc
người trong lịch sử thế giới phụ thuộc vào sự kiện và hoàn cảnh sử dụng cụ thể của
từng quốc gia, từng khu vực.
Sự hình thành các quốc gia và dân tộc ở phương Đông có các nét đặc thù
Thực hiện lịch sử cho thấy ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam ... các dân tộc được
hình thành từ rất sớm, khơng liên kết với sự việc ra mắt tư vấn chủ sở hữu. Tính
đặc thù của hình thành dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam được định hình thành
từ rất sớm trong lịch sử gắn liền với yêu cầu nước và giữ nước, với công cụ chống
ngoại cảnh, cải tạo thiên nhiên để bảo vệ nền văn hóa dân tộc, điều này tạo nên nét
độc đáo trong cố kết cộng đồng các dân tộc. Lịch sử đã chứng minh từ hàng
nghìn năm trước trên lãnh thổ Việt Nam đã có một cộng đồng cư dân với đầy đủ
các đặc điểm của một dân tộc.
Dân tộc Việt Nam đã có một ngơn ngữ, lãnh thổ, kinh tế, nhà nước, luật pháp
và văn hóa thống nhất. Khoa học lịch sử đã khẳng định, quá trình dựng nước của

8


người Việt bắt đầu từ khi nước Đại Việt giành được độc lập (cách đây hơn 1.000
năm) cho đến thời Lý Trần.

CHƯƠNG 2: TÍNH ĐẶC THÙ CỦA SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC VIỆT
NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY
2.1. Quá trình hình thành của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên xã
hội chủ nghĩa hiện nay
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc đa tộc người, đã trãi qua những bước thăng
trầm trong lịch sử, là nước chịu nhiều tác động của những quan hệ giữa bản thân
với các quốc gia dân tộc trên thế giới, có nhiều lúc được độc lập tự chủ, cũng có
khi đắm mình trong đêm tối nơ lệ. Những thữ thách mang tính sống cịn của tổ
quốc đã rèn đúc cho các tộc người Việt Nam một ý chí phải tựa vào nhau mà
sống, phải trăm người như một, đồn kết một lịng chống giặc ngoại xâm, cũng như
để xây dựng đất nước. Trãi qua gần một trăm năm chiến đấu chống giặc ngoại
xâm, kết thúc bằng hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đất nước được
độc lập, các tộc người được giải phóng. Tồn thể nhân dân Việt Nam khơng phân
biệt các tộc người, Nam, Bắc, xuôi ngược, lại phải gồng sức lên để xây dựng một
đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh” theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, từ một điểm xuất phát thấp kém, với 80 % nhân dân cịn
sinh sống bằng nơng nghiệp, đất nước lại bị tàn phá và đang gánh nhiều hậu quả
trực tiếp của cuộc chiến tranh như thiếu kinh nghiệm xây dựng đất nước, thiếu
cán bộ, thiếu thợ lành nghề, lại phải thay đổi thiết chế xã hội từ thời chiến sang
thời bình, lại phải giải quyết những hâu quã của chiến tranh như gia đình thương
binh, liệt sĩ, trẻ con mồ côi, nạn nhân chất độc màu da cam …Công cuộc xây dựng
đất nước lại nằm trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường mang tính tồn cầu,
có thuận lợi nhưng cũng lại đầy những khó khăn, bất trắc, mà ở đây, vấn đề dân
tộc và tôc người vẫn luôn là vấn đề phải quan tâm . Ở đây,việc phát huy nội lực
của khối đại đoàn kết dân tộc của các tộc người phải đạt ra như một yêu cầu hàng
đầu .

9



Quá trình hình thành và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam diễn ra
hàng nghìn năm, với hàng nghìn cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã sớm
tích luỹ cho nhân dân Việt Nam ý thức đoàn kết các tộc người , cùng bảo vệ độc
lập dân tộc. Cũng từ đó, ý thức về : “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một ” đã hình thành và phát triển .
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, điểm nổi
bật chiếm vị trí hàng đầu và trở thành chuẩn mực đạo lý Việt Nam là tinh thần yêu
nước, ý chí tự lập, tự cường, truyền thống đồn kết vì đại nghĩa dân tộc. Cuộc sống
lao động gian khổ đã tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng tạo và kiên nhẫn;
yêu cầu phải liên kết lại để đấu tranh với những khó khăn, thách thức đã tạo ra sự
gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với nhau trong mối quan hệ
gia đình, láng giềng, dịng họ của người Việt cũng như trong cộng đồng nhà - làng
- nước - dân tộc. Lịch sử cũng cho con người Việt Nam truyền thống tương thân
tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì đồng cam cộng khổ, cả
nước một lịng; tính thích nghi và hội nhập; lối ứng xử mềm mỏng và truyền thống
hiếu học, trọng nghĩa, khoan dung. Đây chính là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô
tận cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh.
2.2. Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
xã hội chủ nghĩa hiện nay
Ngay từ buổi đầu dựng nước , cộng đồng dân tộc Việt Nam đã là một quốc
gia đa tôc người. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam lại đón
nhận thêm nhiều tộc người khác tự nguyện đến sinh sống. Thuận lợi lớn nhất là
hầu hết các tộc người, đa số cũng như thiểu số, đều sinh tụ trong một không gian
xã hội, một khu vực lịch sử văn hoá thống nhất : văn hoá của hai trung tâm văn
minh Trung Hoa và An Độ, và gần đây là văn minh phương Tây nên họ dẽ dễ
cộng cảm cùng nhau để tự giác trở thành một thành viên trong gia đình Tổ quốc
Việt Nam, để sát cánh bên nhau đê bảo vệ sự sống còn của bản thân và của cộng
đồng Việt Nam trưóc nguy cơ xâm lược của kẻ thù bên ngoài, cũng như trước
những tai hoạ lớn lao của một thiên nhiên thuận lợi, nhưng đầy những khắc nghiệt.

10


Họ cũng dễ dàng chấp nhận một chính quyền trung ương tập quyền, thống nhất
xưa tiến triển theo phương thức cống nạp, tơn trọng tính tự quản của địa phương,
của tộc người .
Một điều cũng lại dễ nhận thấy, cho đến trước ngày đất nước được thống
nhất ( 1975 ), nói chung, đặc điểm của cộng đồng dân tộc Việt Nam, chưa được
thật chặt chẽ như một cộng đồng quốc gia dân tộc tương ứng với thời kỳ công
nghiệp, với một thị trường kinh tế thống nhất, kiểu tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ
nghĩa, như C. Mác hay V.I. Lê nin xác định. Đó là do kết cấu cơ sở hạ tầng về
kinh tế cũng như về xã hội còn thấp kém, ý thức về vai trò cá nhân, về tự do dân
chủ chưa cao, kinh tế còn ở trạng thái tự nhiên tự cấp tự túc, chưa được cố kết
một cách chặt chẽ như nền kinh tế hàng hoá thị trường .
Trong hơn 2000 năm qua , dân tộc Việt Nam phải trãi qua nhiều thế kỷ
đánh giặc, nhiều thế kỷ bị nô dịch, nhiều thế kỷ bị rơi vào loạn lạc, chia cắt đất
nước, những cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt. Hơn nữa, đến cuối thế kỷ XIX , triều
đình nhà Nguyễn đã khơng biết canh tân, đã lại đánh rơi “tấm hộ chiếu” dân tộc,
đưa dân tộc vào cảnh nộ lệ buộc phải trả giá bằng xương máu trong suốt hơn
trăm năm , đặc biệt là trong 30 năm chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ . Thế lực đế quốc buộc đất nước phải tận dụng hết sức lực vào công cuộc giải
phóng dân tộc giành đơc lập tự do. Điều đó cản trở bước tiến của dân tộc, làm
cho Việt Nam bước vào xây dựng cơng nghiệp hố ở một điểm xuất phát thấp
kém, lạc hậu so với thời đại .
Hiện nay trước xu thế khơng gì cưỡng lại được, dân tộc Việt Nam, với 54 tộc
người anh em, phải hội nhập vào một cuộc cạnh tranh chưa cân sức của một nền
kinh tế thị trường mang tính tồn cầu. Một lần nữa, dân tộc ta phải đoàn kết trên
dưới một lòng, trăm người như một, đa số cũng như thiểu số, lương cũng như giáo,
vượt qua một thời kỳ chuyển tiếp lắt léo, nhiều thuận lợi nhưng cũng đầy bất trắc,
tiến lên bằng anh ,bằng em, tránh cảnh bị lệ thuộc về kinh tế, kéo theo sự lệ thuộc

về chính trị, về văn hố. Khơng có một con đường nào khác, chỉ có một con
đường duy nhất là độc lập tự do, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một

11


đất nước mà các tộc người thực sự bình đẵng, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh .
Đúng như Cương lĩnh của Đảng đã nêu rõ: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tôc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng của nước
ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội là hướng tương lai tiến tới, là cơ sở đảm bảo cho độc lập dân tộc ”.
Trong quá trình hình thành và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam, cộng
đồng dân tộc đa tộc người, đã xây dựng dược những đặc điểm truyền thống sau :
- Dân tộc Việt Nam là một cộng đồng chính trị – xã hội, được hợp thành bởi
các tộc người cùng chung sống là một quốc gia – dân tộc đa tộc người .
- Dân tộc Việt Nam được chỉ đạo bởi một nhà nước tập quyền thống nhất,
xác định trên một lãnh thổ bất khả xâm phạm .
- Dân tộc Việt Nam là một cộng đồng sinh hoạt kinh tế thống nhất
- Dân tộc Việt Nam là một cộng đồng văn hoá thống nhất và đa dạng , thể
hiện một cách con ngưòi Việt Nam .
Trước những nhiệm vụ lớn lao của dân tộc, lịch sử chỉ có thể thực hiện
thắng lợi bằng cách phải kế thừa và phát triển truyền thống của dân tộc ta từ
ngày dựng nước, là đồn kết được tất cả 54 dân tơc anh em thành một khối khơng
gì lay chuyển nổi. Ở đây, kinh nghiệm lịch sử cho thấy dân tộc Việt Nam là một
khối thống nhất, không cho phép một tộc người nào ,cho dù là người Việt hay một
tộc người anh em, lại co thể tách riêng để xây dựng một quốc gia – dân tộc, một
cộng đồng chính trị – xã hội, một nhà nước. Lịch sử đã ràng buộc vận mệnh của họ
với nhau ngay từ buổi đầu dựng nước, đã dưa họ qua những gian nan, lên thác
xuống ghềnh, tay cầm tay để được hiện diện trên mãnh đất thiêng liêng – đất mẹ trong một thế giới một ngày không xa, mọi dân tộc đều là anh em .


12


KẾT LUẬN
Việt Nam là một dân tộc bị đô hộ hơn một nghìn năm vẫn giành lại được
độc lập, điều nầy hiếm thấy trong lịch sử thế giới. Khi bị xâm lược, dân tộc Việt
Nam đã có hàng nghìn cuộc khởi nghĩa đấu tranh giành độc lập trong suốt quà
trình lịch sử, đây cũng là vấn đề ít có trong lịch sử thế giới. Điều nầy chứng tỏ :
truyền thống chống ngoại xâm giành độc lập đã có từ lâu đời đối với dân tộc Việt
Nam .
Trong quá trình xây dựng đất nước, mặc dù một số dân tộc hiện nay vẫn cịn
trong tình trạng chậm tiến, nhưng tất cá có cùng chung nghĩa vụ và quyền lợi khi
xây dựng một nước Việt Nam “ công bằng , dân chủ và văn minh “ . Đặc biệt, khi
chúng ta đang có chung mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa, một xã hội mà mọi
người, mọi dân tộc đều bình đẵng với nhau .
Trong quá trình hinh thành và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam chúng
ta rút ra được những nét chung : Các dân tộc Việt Nam cùng chung sống trong
một quốc gia – dân tộc đa tộc người, được chỉ đạo bởi một nhà nước tập quyền
thống nhất , xác định trên một lãnh thổ bất khả xâm phạm , là một cộng đồng
sinh hoạt kinh tế thống nhất, là một cộng đồng văn hoá thống nhất và đa dạng, thể
hiện một cách con ngưòi Việt Nam .
Trên đây là bài tiểu luận của em. Trong q trình làm bài khó tránh khỏi sai
sót, em rất mong nhận được góp ý của thầy cơ để ngày càng hoàn thiện hơn trong
các bài tiểu luận sắp tới
Em xin chân thành cảm ơn!

13



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Cộng đồng quốc gia dân tôc Việt Nam - GS. Đặng Nghiêm Vạn – NXB Đại
học Quốc gia Tp HCM – 2003
2) Những chặng đường hình thành dân tộc Việt Nam thống nhất – Đặng Nghiêm
Vạn – Tạp chí NCLS số 2 ( 179 ) – Năm 1978
3) Có một dân tộc Việt Nam, có một dân tộc Việt Nam XHCN – Đặng Nghiêm
Vạn - Tạp chí NCLS số 2 ( 215 ) – Năm 1984
4) Một vài suy nghỉ về nguồn gốc danh xưng Giao Chỉ – Lê Thanh Tịnh - Tạp
chí NCLS số 4 ( 175 ) – Năm 1977.
5) Góp vào vấn đề hình thành dân tộc – Lý luận và thực tế –Lương Ninh -Tạp chí NCLS số 5 ( 200 ) – Năm 1981.
6) Mấy ý kiến về nguồn gốc dân tộc Việt Nam – Nguyễn Duy - Tạp chí NCLS
số 107 – Năm 1968.
7) Vài ý kiến nhân cuốn “Bàn về sư hình thành các dân tộc Việt Nam ” của GS
Đào Duy Anh – Phan Văn Ban – tạp chí Văn Sử Địa – số 37 – năm 1958.
8)

Việt Nam là một nước thống nhất - Tạp chí NCLS số 1 ( 166 ) – Năm 1976.

9) Về vấn đề hình thành dân tộc XHCN Việt Nam –Văn Tạo - Tạp chí NCLS số
5 ( 200 ) – Năm 1981.
10) Giáo trình Triết học Mác – Lênin – NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT

14



×