GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu ………………… ………………………………… 2
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung về chất lượng sản phẩm 4
1.1. Khái niệm chung 4
1.2. Giải thưởng và hệ thống đánh giá chất lượng 5
Chương 2 : Thực trạng về chất lượng của sản phẩm Việt và nguyên
nhân của những hạn chế …………………………………………… 8
2.1. Lợi thế và ưu điểm về chất lượng của sản phẩm Việt………………8
2.1.1. Giá cả………………………………………………………………8
2.1.2. Mẫu mã………………………………………………………… 11
2.1.3. Tính năng…………………………………………………………15
2.2. Những hạn chế về chất lượng sản phẩm Việt………………………18
2.2.1. Vệ sinh an toàn………………………………………………… 18
2.2.2. Mẫu mã sản phẩm………………………………………………22
2.2.3. Nguyên liệu đầu vào………………………………………………25
2.2.4. Chế độ hậu mãi……………………………………………………28
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế…………………………………29
2.3.1. Từ phía Nhà nước………………………………………… 30
2.3.2. Từ phía người tiêu dùng…………………………………………30
2.3.3. Từ phía doanh nghiệp……………………………………………30
Chương 3 : Tiềm năng phát triển và các giải pháp cho những hạn chế
trên …………………………………………………………………… 31
3.1. Tiềm năng phát triển của sản phẩm Việt……………………………31
3.2. Các giải pháp cho những tồn tại hạn chế trên………………………32
3.2.1. Từ phía Nhà nước…………………………………………………32
3.2.2. Từ phía người tiêu dùng…………………………………………33
3.2.3. Từ phía doanh nghiệp……………………………………………33
Kết luận…………………………………………………………………36
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 1
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 2
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn 25 năm sau ngày đổi mới, kinh tế Việt Nam đã có những bước
phát triển vững vàng. Quyết tâm đi theo mô hình nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt những thành tựu lớn như gia nhập
nhanh chóng vào các tổ chức quốc tế như: ASEAN (1995); APEC (1998); WTO
(2007) … Gia nhập những tổ chức này, kinh tế Việt Nam có cơ hội mở cửa thị
trường, nâng tầm quan hệ, nhưng đồng thời, chính việc gia nhập này cũng đặt
kinh tế Việt Nam vào một môi trường cạnh tranh đầy biến động. Thương mại là
một khâu quan trọng trong hoạt động cạnh tranh kinh tế này, và hàng hóa sản
phẩm chính là trọng tâm của hoạt động thương mại. Trong điều kiện “mở cửa”
và “cạnh tranh” như hiện nay, hàng hóa Việt Nam cần đạt đủ hai yếu tố giá cả và
chất lượng, chất lượng tốt, giá cả phải chăng để phục vụ nhu cầu không chỉ
trong nước mà cả ngoài nước. Sản phẩm Việt Nam chính là hạt nhân của con tàu
cạnh tranh xuất khẩu thương mại, vậy ta hiểu sản phẩm Việt là gì? Chất lượng
sản phẩm Việt ra sao? Những thành công cũng như những yếu kém của hàng
hóa Việt Nam thể hiện như thế nào? Các doanh nghiệp Việt Nam đã đang và sẽ
làm gì để hàng hóa Việt Nam ngày càng có chỗ đứng hơn trên trường thương
mại thế giới? Những câu hỏi đó phần nào sẽ được chúng tôi giải đáp trong bài
đánh giá của chúng tôi. Như ta đã biết, sản phẩm vốn được chia thành 2 loại là
sản phẩm thuần vật chất (bao gồm những sản phẩm hiện vật, mang hình dạng
nhất định) và sản phẩm phi vật chất (bao gồm các loại hình dịch vụ). Trong
khuôn khổ bài đánh giá, chúng tôi chỉ đề cập đến vấn đề chất lượng các sản
phầm Việt thuần vật chất bởi đây là loại hình sản phẩm phổ biến, gần gũi với
cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày, tác động trực tiếp hơn đến đời sống của con
người, hơn nữa sản phẩm phi vật chất cơ bản cũng bắt nguồn từ sản phẩm thuần
vật chất mà ra.
Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài "Nâng cao chất lượng sản phẩm Việt"
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 3
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu về chất lượng của các sản phẩm Việt trên thị trường
trong những năm qua
3. Kết cấu của đề tài
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung về chất lượng sản phẩm
Chương 2 : Thực trạng về chất lượng sản phẩm Việt và nguyên nhân của
những hạn chế còn tồn tại
Chương 3 : Tiềm năng phát triển của sản phẩm Việt và các giải pháp cho
những hạn chế còn tồn tại
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 4
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung về sản phẩm
1.1. Khái niệm chung :
* Các khái niệm về sản phẩm và sản phẩm Việt
Sản phẩm nói chung theo Cac Mac là kết quả của quá trình lao động
dùng để phục vụ cho nhu cầu của con người, đáp ứng những mong muốn của
con người, trong nền kinh tế thị trường, người ta cho rằng sản phẩm là bất cứ
thứ gì có thể đáp ứng nhu cầu thị trường và đem lại lợi nhuận. Nhưng một cách
đơn giản nhất thì sản phầm là kết quả của các hoạt động và các quá trình.
Sản phâm được chia làm 2 loại:
+ Sản phẩm thuần vật chất: như đã nói ở trên là những sản phẩm có hình
thù xác định và mang tính hiện vật.
+ Sản phẩm phi vật phẩm: là những thứ dịch vụ, là kết quả của hoạt động
tiếp xúc giữa người cung ứng và khách hàng và các hoạt động nội bộ của người
cung ứng để đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Sản phẩm Việt hiện nay được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Theo ý hiểu
chung, sản phẩm, hàng hóa Việt cần hội tụ đủ bốn yếu tố: do người Việt làm ra;
được sản xuất, chế biến trên lãnh thổ Việt Nam; sử dụng những yếu tố đầu vào
của Việt Nam và mang thương hiệu Việt Nam. Theo các tiêu chí này, doanh
nghiệp nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, có giấy phép đầu tư, mang
pháp nhân Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, lấy nguyên
liệu đầu vào trong nước và sử dụng lao động người Việt Nam thì hàng hóa làm
ra là hàng Việt Nam. Vì vậy, trừ hàng ngoại nhập ra thì những hàng hóa kể cả do
liên doanh hay đóng góp cổ phần cũng được coi là hàng hóa, sản phẩm Việt.
* Khái niệm về chất lượng sản phẩm
Từ trước đến nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về chất lượng sản
phẩm, có khái niệm cho rằng: chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với yêu cầu và
tiêu chuẩn kĩ thuật, cũng có quan niệm cho rằng chất lượng sản phẩm là sự thỏa
mãn nhu cầu của thị trường với chi phí thấp nhất… nhưng hiện nay, các nhà
kinh tế đã đúc kết lại thành một khái niệm hiện đại và ngắn gọn nhất: chất lượng
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 5
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
sản phẩm là đặc tính của một thực thể mà nhờ những đặc tính này, thực thể đó
có thể đáp ứng các nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn.
* Khái niệm về thống đảm bảo chất lượng
Có thể hiểu chung nhất rằng hệ thống đảm bảo chất lượng là một hệ thống
thống nhất bao gồm nhiều mặt trong vấn đề quản lí chất lượng như các chính
sách và chỉ đạo về chất lượng, về nhu cầu thị trường, các chính sách kiểm soát
thị trường, phát hành sản phẩm, kiểm tra chất lượng sản phẩm, xem xét đáng giá
quá trình sản xuất và đưa sản phẩm ra thị trường sao cho sản phẩm khi ra thị
trường được đón nhận và thỏa mãn được nhu cầu của người mua.
Hiện nay, hàng hóa Việt Nam có thể dựa trên những hệ thống đánh giá
chất lượng tiêu biểu như: ISO 9000; TQM; Q.BASE…
1.2. Giải thưởng và hệ thống đánh giá chất lượng
Một số hệ thống đánh giá quốc tế:
- ISO ( International Organization for Standardization ):
ISO là tên viết tắt của Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (International
Organization for Standardization), được thành lập vào năm 1946 và chính thức
hoạt động vào ngày 23/2/1947, nhằm mục đích xây dựng các tiêu chuẩn về sản
xuất, thương mại và thông tin. ISO có trụ sở ở Geneva (Thuỵ sĩ) và là một tổ
chức Quốc tế chuyên ngành có các thành viên là các cơ quan tiêu chuẩn Quốc
gia của gần 150 nước. Tại Việt Nam, tổ chức tiêu chuẩn hoá là Tổng cục Tiêu
chuẩn-Đo lường-Chất lượng, thuộc Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường.
Mục đích của các tiêu chuẩn ISO là tạo điều kiện cho các hoạt động trao
đổi hàng hoá và dịch vụ trên toàn cầu trở nên dễ dàng, tiện dụng hơn và đạt
được hiệu quả. Nhiệm vụ của ISO nhằm thúc đẩy sự phát triển về vấn đề tiêu
chuẩn hoá nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ quốc
tế. Tất cả các tiêu chuẩn do ISO đặt ra đều có tính chất tự nguyện. Tuy nhiên,
thường các nước chấp nhận tiêu chuẩn ISO và coi nó có tính chất bắt buộc.
Hệ thống ISO 9000 là hệ thống tiêu chuẩn ra đời sớm nhất, làm tiền đề
cho các hệ thống ISO sau này. Nó mô tả các yếu tố mà một hệ thống chất lượng
nên có nhưng không mô tả cách thức mà một tổ chức cụ thể thực hiện các yếu tố
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 6
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
này. ISO 9000 không nhằm mục tiêu đồng hóa hệ thống chất lượng, vì mỗi hệ
thống quản lý của một tổ chức bị chi phối bởi mục đích, sản phẩm và thực tiễn
của tổ chức đó. Do vậy, ISO như một cuốn sách giảo khoa mà các doanh nghiệp
cùng áp dụng để giải những bài tập quản lý chất lượng dựa trên quy trình sản
xuất của mình. Doanh nghiệp tự xây dựng quy trình quản lý chất lượng của
mình dựa vào ISO và có sự thẩm định của bên thứ 3.
Có rất nhiều loại ISO, trước đây doanh nghiệp có thể lựa chọn giữa ISO
9001, ISO 9002, ISO 9003 tùy thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh và nhu
cầu quản lý của họ. Nhưng với phiên bản mới, doanh nghiệp chỉ có một lựa
chọn là ISO 9001:2000, trong đó doanh nghiệp có thể loại trừ bớt một số điều
khoản không áp dụng cho hoạt động của họ. Việc miễn trừ đó phải đảm bảo
không ảnh hưởng đến năng lực và khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ thỏa
mãn nhu cầu khách hàng cúng như các yêu cầu khác về luật định. Các điểm
miễn trừ chỉ được phép nằm trong điều khoản 7 liên quan đến quá trình sản xuất
của doanh nghiệp.
Năm 2000, công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông đã đón nhận Chứng
nhận Hệ thống Quản lý chất lượng ISO 9001:2000.
- TQM (Total Quality Managerment)
TQM là hệ thống quản lý chất lượng tập trung kiểm soát con người, kiểm
soát phương pháp, kiểm soát nguyên vật liệu đầu vào, và kiểm soát trang thiết
bị. (Kiểm soát 4M – Men, Method, Material, Machine).
TQM trình bày một tập hợp các nguyên tắc nhằm nâng cao chất lượng
bằng cách động viên toàn bộ các thành viên không phân biệt trực tiếp hay gián
tiếp sản xuất, công nhân, cán bộ hay lãnh đạo các cấp trong doanh nghiệp.
- Q-Base:
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của việc áp dụng bộ tiêu chuẩn
ISO9000, một vấn đề nảy sinh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khá nhiều
khó khăn trong việc áp dụng tiêu chuẩn này, đặc biệt là về mặt chi phí.
Telare - tổ chức chứng nhận chất lượng hàng đầu của New Zealand, sau
khi nghiên cứu thị trường đã đưa ra hệ thống quản lý chất lượng vẫn sử dụng các
nguyên tắc cơ bản của tiêu chuẩn ISO9000 (chủ yếu là ISO9002 và ISO9003)
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 7
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
nhưng đơn giản và dễ áp dụng hơn. Hệ thống này, bao gồm những yêu cầu cơ
bản mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải có để đảm bảo giữ được lòng tin
đối với khách hàng về chất lượng sản phẩm hoặc về dịch vụ, gọi tắt là Q.Base.
Q.Base đề cập đến các lĩnh vực chủ yếu trong quản trị chất lượng, chính
sách chỉ đạo về chất lượng, xem xét hợp đồng với khách hàng, quá trình cung
ứng, kiểm soát nguyên vật liệu, kiểm soát quá trình, kiểm soát thành phẩm, xem
xét đánh giá nội bộ, kiểm soát tài liệu, đào tạo, cải tiến chất lượng.
Việt Nam đã được Telare cho phép sử dụng hệ thống Q.Base từ tháng
11/95 và ngày 7/6/96, ban lãnh đạo 2 cơ quan Telara New Zealand và Tổng cục
tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam đã chính thức ký văn bản về việc này.
Các giải thưởng chất lượng của Việt Nam:
Giải thưởng chất lượng Việt Nam được thành lập nhằm thúc đẩy mọi tổ
chức nâng cao tính cạnh tranh bằng cách so sánh với những tiêu chuẩn được
công nhận trên phạm vi quốc tế.
Giải thưởng chất lượng Việt Nam bao gồm 7 tiêu chuẩn được tham khảo
từ các hệ thống chất lượng quốc tế nhằm khuyến khích các tổ chức tăng cường
việc áp dụng TQM và tiên đến được cấp giấy chứng nhận ISO9000.
Bảy tiêu chuẩn về chất lượng Việt Nam gồm:
1. Vai trò của Lãnh đạo: 90 điểm
2. Thông tin và phân tích dữ liệu: 75 điểm
3. Định hướng chiến lược: 55 điểm
4. Phát triển và quản lý nguồn nhân lực 140 điểm
5. Quản lý chất lượng quá trình 140 điểm
6. Các kết quả về chất lượng và kinh doanh 250 điểm
7. Thỏa mãn yêu cầu của khách hàng 250 điểm
Tổng cộng: 1.000 điểm
Chương 2 : Thực trạng về chất lượng của sản phẩm Việt và nguyên
nhân của những hạn chế
2.1. Lợi thế và ưu điểm về chất lượng của sản phẩm Việt :
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 8
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
2.1.1. Giá cả :
Thời gian qua, việc Chính phủ thực hiện chính sách kích cầu tiêu dùng, hỗ
trợ các doanh nghiệp, cũng như các kênh bán lẻ tại các chợ, siêu thị thực hiện
các chương trình khuyến mãi, giảm giá các mặt hàng nội địa chất lượng cao,
khuyến khích người Việt Nam dùng hàng Việt Nam, đưa hàng Việt về nông
thôn, đã thu được nhiều kết quả.
Hiện nay, để tiết kiệm chi tiêu, nhiều người tiêu dùng đã giảm dần thói
quen mua hàng ngoại. Trước thông tin nhiều hàng hóa nhập lậu không có nguồn
gốc xuất xứ, có chứa chất độc hại, nhiều người tiêu dùng đã lựa chọn hàng Việt
Nam chất lượng cao. Tại các siêu thị, hàng Việt Nam chiếm ưu thế với từ 80 đến
90% trên tổng số hàng hóa kinh doanh, được tiêu thụ mạnh do có thương hiệu
tốt, có chất lượng, giá cả niêm yết rõ ràng. Bên cạnh đó, ngành chức năng đã
cùng doanh nghiệp tổ chức hơn 300 hội chợ, Tuần hàng hàng tiêu dùng Việt;
cùng hàng ngàn chương trình khuyến mãi, tiết kiệm của nhà sản xuất, đã thu hút
được sự ủng hộ của người tiêu dùng. Để hàng Việt Nam chiếm ưu thế trên thị
trường trong nước, Nhà nước cần tiếp tục có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
thiết lập hàng rào kỹ thuật, bảo hộ hàng hóa được sản xuất trong nước, bảo vệ
lợi ích người tiêu dùng, tránh ô nhiễm môi trường, đảm bảo tuân thủ các quy
chuẩn chất lượng. Các cấp ngành cần tăng cường công tác kiểm tra, xử lý các
đường dây nhập hàng lậu, đề ra các giải pháp bảo vệ hàng nội địa, tạo cơ hộ cho
doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh với hàng ngoại. Các doanh nghiệp cần tăng
cường việc quảng bá thương hiệu Việt, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm
chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm để tạo tính cạnh tranh cao, giữ vững
lòng tin và sự ủng hộ hàng Việt Nam chất lượng cao của người tiêu dùng.
Cụ thể, một số yếu tố khiến hàng hóa Việt Nam có lợi thế giá cả trên thị
trường:
Thứ nhất: So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may,
giầy da hay cơ khí, điện tử lắp ráp…thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất
khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 9
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
nông sản rất thấp, do đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu sẽ
cao hơn nhiều.
Ví dụ: Chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ (phân bón,
thuốc sâu bệnh và các loại hóa chất, xăng dầu…) chỉ chiếm từ 15 đến 20% giá
trị xuất khẩu kim ngạch gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đã tạo ra từ 80
đến 85% thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này đối với nhân hạt điều
xuất khẩu là khoảng 27% và 73%.
Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ
để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất - kinh doanh
những mặt hàng tiêu tốn nhiều ngoại tệ.
Thứ hai: Ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản là ngành sử dụng nhiều lao
động vào quá trình sản xuất - kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay
của ngành, vì hàng năm nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu
người bước vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha dứa hay 1 ha
dâu tằm mỗi năm cần sử dụng tới 20 lao động. Trong khi đó, giá nhân công Việt
Nam rẻ hơn các nước khác trong khu vực, phổ biến với mức 1- 1,2 USD/ngày
công lao động như trong sản xuất lúa, cà phê. Hiện nay, một số công việc nặng
nhọc như đánh bắt cá ngừ, thu hoạch mía hay thu hoạch lúa ở Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) với giá nhân công cao cũng mới chỉ là 2-2,5 USD/ngày
công lao động, nhưng vẫn còn rẻ hơn so với Thái Lan từ 2-3lần. Tất nhiên lợi
thế này sẽ không tồn tại lâu do sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và thế
giới.
Thứ ba: Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lợi
cho việc phát triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu quả như cà
chua, bắp cải, tỏi, khoai tây… Trong khi cũng vào thời gian này ở cả vùng Viễn
Đông của Liên bang Nga và thậm chí ở cả Trung Quốc đang bị tuyết dày bao
phủ không thể trồng trọt được gì, nhưng những nơi này lại là thị trường tiêu thụ
lớn và tương đối dễ tính. Các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Philipin lại kém
lợi thế hơn so với Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên sinh thái, cả về kỹ năng,
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 10
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
kinh nghiệm sản xuất và tính cần cù lao động của người nông dân trong việc
trồng trọt các loại rau quả đó.
Thứ tư: Nhiều tư liệu sản xuất dùng trong quá trình sản xuất nông, lâm
nghiệp, thủy sản vẫn còn phải nhập khẩu, mà phần lớn lại nhập với giá cao hơn
giá thế giới, chi phí để sản xuất các loại tư liệu đó trong nước rất cao. Do vậy
mở cửa hội nhập kinh tế, tự do hóa thương mại sẽ làm cho giá nhập khẩu mặt
hàng này rẻ hơn, làm cho giá thành sản xuất và chế biến các loại hàng nông,
lâm, thủy sản của nước ta giảm xuống một lượng đáng kể do đó sẽ tạo thêm ưu
thế cạnh tranh.
Thứ năm: Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống pháp
luật của Việt Nam ngày càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng dần với tiến
trình tự do hóa thương mại trong khu vực và toàn cầu.
Theo khảo sát của Hiệp hội Ðiện tử Việt Nam giá giảm nhiều chỉ tập trung
ở mặt hàng gia dụng phổ thông được nhập khẩu nguyên chiếc, còn các mặt hàng
trung, cao của Việt Nam không thua kém, thậm chí còn "nhỉnh" hơn hàng của
các nước ASEAN cả về chất lượng, tính năng và mẫu mã. Ðại diện các doanh
nghiệp điện tử nhấn mạnh: "Nhà nước áp dụng đúng mức thuế suất, chúng tôi
tận dụng lợi thế sân nhà và nguồn nhân lực thì không những cạnh tranh với hàng
ngoại nhập mà còn có thể xuất khẩu ngược trở lại các nước ASEAN một khi
hàng rào thuế quan hoàn toàn được gỡ bỏ". Theo Công ty nhựa Chợ Lớn, "để
sống chung với hàng ngoại ASEAN" doanh nghiệp tìm lối đi riêng bằng đầu tư
thiết bị, dây chuyền hiện đại, sản xuất các mặt hàng chất lượng cao đồng thời
liên tục thay đổi mẫu mã. Bằng cách này một số sản phẩm của nhựa Chợ Lớn đã
và đang bước đầu giành lại thị phần và có phần thắng thế so với mặt hàng cùng
loại của các nước như đồ chơi xe điện rẻ hơn khoảng 30% so với hàng Trung
Quốc và ASEAN, rẻ hơn khoảng 45% so với hàng Nhật Bản và Ðài Loan
Nhìn chung hàng hóa Việt Nam đang ngày càng có lợi thế cả trong và
ngoài nước. Do chương trình Người Việt dùng hàng Việt đc phát động trong 1
tháng trên tất cả các mặt hàng. Tiêu biểu như: Giày dép, quần áo. Mặt khác do
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 11
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
chất lượng sản phầm hàng hóa Việt ngày càng được cải tiến nên người dân đã
quay sang mua và sử dụng hàng nội nhiều hơn vs giá cả hợp lý hơn.
Đặc biệt ở một số sản phẩm đã lấy ví dụ cụ thể ở trên đã và đang ngày
càng có ưu thế trên thị trường thế giới với những mức giá khá cao. Có thể giải
thích nguyên nhân là do các mặt hàng đó trên thị trường thế giới không sản xuất
đc. Trong khi đó lại là thế mạnh của Việt Nam. Nên có giá rất cao. Mang lại
nhiều lợi nhuận.
2.1.2. Mẫu mã:
Ngày nay, bao bì, mẫu mã sản phẩm đóng một vai trò quyết định trong sự
lựa chọn của khách hàng. Nhưng lâu nay, các doanh nghiệp Việt Nam thường
quá chú trọng đến quảng cáo và các phương thức tiếp thị khác mà quên đi yếu tố
bao bì. Bao bì là công cụ để truyền tải thông tin và tính cách của một sản phẩm,
nó được thể hiện thông qua màu sắc, kiểu dáng, hình ảnh và ngôn ngữ.
“Trong hệ thống phân phối hiện đại, khi mà siêu thị và các cửa hàng tiện
nghi đang dần thay cho những tiệm tạp hóa và chợ hiện nay, bao bì đóng một vai
trò quan trọng đối với quyết định chọn lựa sản phẩm của người tiêu dùng trong
hàng trăm loại hàng hóa cùng loại trên kệ trưng bày”, ông Triplett – một nhà
kinh tế học nhấn mạnh.
Lâu nay, không ít doanh nghiệp đã sai lầm khi đánh giá thấp vai trò của
bao bì. Người tiêu dùng yêu thích một sản phẩm nào đó phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, nhưng bao bì là yếu tố quan trọng và sống lâu nhất với sản phẩm.
Thông thường, khi người tiêu dùng định mua một sản phẩm nào đó trong
hàng trăm loại hàng hóa cùng nhãn hiệu được bán ở siêu thị, hay trung tâm
thương mại Có lẽ, hình thức bên ngoài của sản phẩm là yếu tố đầu tiên nối kết
giữa thương hiệu và người tiêu dùng. Vì thế, để sự kết nối này được bền vững,
thì mẫu mã, bao bì phải đáp ứng được "tính cách riêng" của sản phẩm, phải
truyền tải những "điều muốn nói" của doanh nghiệp gửi đến người tiêu dùng, từ
đó mới tạo được sức mạnh của thương hiệu. Nhận thức được tầm quan trọng của
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 12
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
vấn đề này, gần đây nhiều doanh nghiệp sản xuất trong nước đã ý thức hơn về
vai trò của mẫu mã, bao bì sản phẩm, nên đã đầu tư đáng kể cho việc này.
Các chuyên gia cho rằng, với việc nhận thức đúng, đầu tư thỏa đáng vào
việc thiết kế mẫu sản phẩm và bao bì, hy vọng sản phẩm do các doanh nghiệp
trong nước sản xuất sẽ tìm được chỗ đứng trong người tiêu dùng không những ở
thị trường trong nước mà cả thị trường nước ngoài.
An Phước là một trong những cái tên tiên phong với nhiều mặt hàng như
vest nam nữ, sơmi nam nữ, giày tây Một trong những sản phẩm nổi tiếng của
An Phước được đông đảo người tiêu dùng lựa chọn là nhãn hàng Pierre Cardin -
sản xuất theo hình thức nhượng quyền. Giá sản phẩm, dao động từ vài trăm
nghìn đến cả triệu đồng/ sản phẩm nhưng vẫn được người tiêu dùng chấp nhận
bởi mẫu mã và chất lượng không thua kém hàng nhập khẩu. May Việt Tiến
cũng tiếp bước bằng việc liên tục cho ra mắt nhiều sản phẩm mới, chẳng hạn sơ
mi nam Mattana, Sanciaro cũng với giá lên tiền triệu/ sản phẩm. Nhiều công ty
may trong nước cũng đang chuẩn bị cho ra đời các sản phẩm thời trang cao cấp.
Rõ ràng thị trường đối với các sản phẩm thời trang cao cấp đang ngày càng rộng
mở. Việc một số DN đi tiên phong phần nào thay đổi hình ảnh một "cường quốc
dệt may" nhưng chỉ làm gia công rồi xuất khẩu, hàm lượng giá trị gia tăng trong
một sản phẩm rất thấp hoặc không có. Nó cũng cho thấy sự phản ứng linh hoạt
và năng động của các DN dệt may trước xu hướng của thị trường.
Đầu năm 2008, nhà sản xuất Biti's đã gây ngạc nhiên khi đưa ra thị trường
nhiều sản phẩm da cao cấp với thương hiệu goSto. Nhiều sản phẩm, như túi
xách goSto có giá trị rất cao lên tới 8 triệu đồng, Theo nhận định của nhiều
người chất lượng và mẫu mã không thua sản phẩm cùng loại của các thương
hiệu ngoại nhập nổi tiếng. Nhãn hiệu thời trang cao cấp gồm giày dép, ví này
được khá đông người tiêu dùng, đặc biệt là giới trẻ lựa chọn. Điểm đặc biệt là
hầu hết những sản phẩm này đều tự tin ghi rõ nơi xuất xứ: Made in Vietnam.
Một khía cạnh khác của sự phát triển của mẫu mã bao bì sản phẩm Việt là
độ nhận diện thương hiệu đang ngày càng được hoàn thiện.
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 13
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
Trung Nguyên là một thương hiệu mới của ngành giải khát Việt Nam.
Tham gia thị trường vào thời điểm vào năm 2003,khi mà sản phẩm cà phê hòa
tan Nescafé của Tập đoàn Nestlé chiếm 55,95% thị phần cà phê hòa tan tại thị
trường Việt Nam Vinacafé chiếm vị trí thứ 2 với 38,45% thị phần
Trong bối cảnh đó, với sản phẩm cà phê hoà tan của G7, Công ty cà phê
Trung Nguyên công khai “phát động“ một cuộc chiến trực diện, quyết chiến với
đối thủ chính là Nescafe của Nestle. “Cuộc chiến thương hiệu” này có ý nghĩa
không chỉ với riêng G7 – Trung Nguyên mà đã để lại những kinh nghiệm và tinh
thần quý giá cho “khát vọng thương hiệu Việt“.
Kết quả, chỉ từ tháng 11/2003 đến tháng 1/2004 tức là sau khoảng 3 tháng
đưa sản phẩm ra thị trường, G7 đã nhanh chóng chiếm 35% thị phần cà phê hòa
tan tại Việt Nam, khiến ông lớn Nescafé lo lắng đến mức căng thẳng. Hàng loạt
chương trình khuyến mãi có giá trị cao được Nescafé đưa ra để "nhử" người tiêu
dùng, như "Uống Nescafé trúng xe hơi Vitara", rồi buổi phát cà phê miễn phí
rầm rộ theo đúng kiểu trong nhà ngoài phố đâu đâu cũng có Nescafé miễn phí.
Việc tung sản phẩm Nescafe Việt – một sản phẩm chỉ duy nhất có ở thị trường
Việt Nam khiến chúng ta phải suy nghĩ - điều gì khiến một người khổng lồ mang
công thức cà phê của họ đi rao giảng và áp đặt khắp nơi trên thế giới, lần đầu
tiên họ buộc phải tung ra sản phẩm cà phê mang thương hiệu địa phương tại Việt
Nam khi thị phần của họ liên tục giảm sút.
Những người quan sát đều thấy sau giai đoạn chạy đua khẳng định “chất
Việt Nam”, gần đây, G7 và Nescafe đang giáp chiến xung quanh tính từ “mạnh”.
Trung Nguyên: “Giúp suy nghĩ mạnh hơn”, Nescafe:”Ngon hơn, vị cà phê mạnh
hơn”. Trung Nguyên: “Vị cà phê cực mạnh”, Nescafe: “Bạn đã đủ mạnh để thử
chưa?”…
Rõ ràng café Trung Nguyên – một sản phẩm thuần Việt tuy mới xuất hiện
cũng đang có sức cạnh tranh mạnh mẽ với các thương hiệu ngoại
Mới đây, toàn bộ sản phẩm mang nhãn hiệu Trung Nguyên và G7 sẽ xuất
hiện trên thị trường với hệ thống bao bì mang dáng vẻ mới. Chiến dịch cải tiến
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 14
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
mẫu mã bao bì sản phẩm cho thị trường nội địa và xây dựng hệ thống bao bì
dành riêng cho thị trường quốc tế càng khẳng định hơn nữa đẳng cấp chuyên gia
cà phê của Trung Nguyên. Bao bì mới mang 1 phong cách mới lạ và đọc đáo
nhưng vẫn giữ vững những đặc trưng của café Trung Nguyên. Hình ảnh bao bì
mới có biểu tượng hình mặt trời mọc trong buổi bình minh trên nền màu nâu
truyền thống của cà phê, hoà lẫn với màu đất đỏ bazan của vùng núi đồi Tây
Nguyên tạo nên sự liên tưởng rất gần gũi nhưng không kém phần sáng tạo của
Trung Nguyên - đây cũng chính là thông điệp của cà phê Trung Nguyên muốn
gửi đến khách hàng - bắt đầu một ngày mới, một sự khởi đầu mới đầy năng động
và thành công bằng một ly cà phê truyền thống Trung Nguyên trong một không
gian đầy chiều sâu nhiều cảm xúc. Trong thời gian này, café Trung Nguyên cũng
tung ra 2 loại café mới là Legendee và Passiona. Cà phê Legendee và Passiona
có hình ảnh trái ngược với hình ảnh biểu trưng mặt trời mọc là hình ảnh vầng
trăng khuyết trong một góc phố đêm đầy tĩnh mịch và lãng mạn.
Lý giải cho sự trái ngược về 2 hình ảnh biểu trưng mặt trăng và mặt trời,
Ông Đoàn Đình Hoàng Giám đốc tiếp thị kinh doanh nội địa của công ty cho
biết Trung Nguyên muốn đi sâu vào những ước mơ, những mong đợi trong tâm
hồn sâu kín của khách hàng, muốn cùng khách hàng chia sẻ những trăn trở,
những thao thức và thăng hoa cùng những cảm xúc đầy sáng tạo của khách
hàng. Biểu tượng mặt trăng cũng là một sự kết nối liên tục với hình ảnh mặt trời,
một nhịp điệu cuộc sống không ngừng giữa ngày và đêm thể hiện mong muốn
của Trung Nguyên luôn luôn đi cùng và chia sẻ cùng khách hàng. Mặt khác, đây
là 2 loại sản phẩm dành cho nhóm đối tượng khách hàng rất khác biệt là những
người sành uống cà phê với cà phê Legendee và khách hàng nữ là Passiona nên
Trung Nguyên cũng muốn tạo sự khác biệt rõ ràng cho sản phẩm này.
Ta có thể thấy, café Trung Nguyên là một doanh nghiệp điển hình về sự tự
ý thức được tầm quan trọng của thương hiệu, slogan và bao bì. Biết chia ra các
phân khúc thị trường và cung cấp những sản phẩm với mẫu mã phù hợp với
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 15
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
từng phân khúc đó. Và đây cũng là một nguyên nhân giải thích cho sự thành
công của café Trung Nguyên hiện nay
Ông Blair Triplett, Giám đốc kinh doanh của Cowan ở khu vực châu Á,
cho rằng vấn đề của thương hiệu là ở chỗ làm sao để bán được sản phẩm. Nếu
việc thiết kế bao bì thực hiện tốt, nó sẽ truyền tải được thông điệp của doanh
nghiệp về sản phẩm đến người tiêu dùng.
Một thiết kế kiểu dáng và bao bì sản phẩm đạt yêu cầu phải bắt nguồn từ
chiến lược thương hiệu, chiến lược sản phẩm cũng như chiến lược phát triển của
công ty. Việc tìm hiểu thị trường, nhu cầu, mong đợi của khách hàng, cũng như
các phương tiện mà thương hiệu hay sản phẩm có thể tiếp cận đến người sử
dụng sẽ giúp nhà thiết kế tìm ra sự khác biệt trong sáng tạo, từ đó giúp chuyển
tải những giá trị của doanh nghiệp.
2.1.3. Tính năng
Độ bền của sản phẩm:
Không thể phủ nhận một thực tế là đã từ lâu, trong nếp nghĩ, nếp sống của
nhiều người tiêu dùng nước ta đã hình thành một quan niệm: Hàng nội không
bằng hàng ngoại. Đây là hậu quả khi mà một thời gian dài trước đây, hàng hóa
sản xuất trong nước đã từng có chất lượng kém, mẫu mã nghèo nàn, giá cả
không hợp lý
Thế nhưng, hiện nay nhiều sản phẩm Việt Nam chất lượng cao như: sữa
Vinamilk, dầu Tường An, bánh Kinh Đô, ắc quy Đồng Nai, áo Việt Tiến, vỏ ruột
xe Casumina đã dần được người tiêu dùng ưa chuộng và tín nhiệm. Hàng Việt
Nam bây giờ đã cải thiện rất nhiều về chất lượng, độ bền. Cùng một sản phẩm,
nhưng hàng Việt Nam có độ bền cao hơn so với hàng Trung Quốc, Thái Lan…
như: phích nước, vỏ ruột xe, sản phẩm dệt may…
Theo TGÐ Trần Quang Nghị, khách hàng trong nước sử dụng các sản
phẩm dệt may của Phong Phú là do có sự tin tưởng vào chất lượng sản phẩm.
Với sự tin tưởng này, công ty tiếp tục đưa ra thị trường các sản phẩm ngày càng
đa dạng, chất lượng ổn định và giá cả cạnh tranh, kết hợp với các chính sách về
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 16
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
phát triển sản xuất, giá cả hợp lý, đa dạng hóa mẫu mã, nâng cao chất lượng sản
phẩm.
Không chỉ chiếm được sự tin tưởng của người tiêu dùng trong nước, hàng
hóa Việt Nam ngày càng chiếm được lòng của người nước ngoài vì có chất
lượng cao.
Nhìn chung, trong tất cả hàng hoá từng dùng, những người nước ngoài
này đều tự so sánh chất lượng và độ an toàn của hàng Việt cao hơn hàng Trung
Quốc. Những người sống tại Việt Nam thời gian dài đều có nhận xét nhiều món
hàng của Việt Nam đã cải thiện đáng kể so với trước đây.
Sự phù hợp của sản phẩm:
Khi mà thị trường có rất nhiều sản phẩm ngoại tràn lan và cạnh tranh, các
doanh nghiệp trong nước đã đưa ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu cũng
như yêu cầu của người tiêu dùng. Nhiều sản phẩm “Made in Viet Nam” vẫn
đang được người tiêu dùng yêu mến và tín nhiệm. Nó cho thấy một điều, hàng
Việt không thua kém hàng ngoại và chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về điều đó.
Trước tiên phải kể đến ngành dệt may, để nâng cao năng lực cạnh tranh
bền vững, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu thị trường trong nước, mở rộng thị
phần, thời gian qua,các doanh nghiệp dệt may tăng cường đầu tư đổi mới trang
thiết bị công nghệ và nghiên cứu sản phẩm trong các lĩnh vực sợi, dệt, nhuộm và
may mặc. Tất cả các dự án đã đưa vào khai thác và sử dụng đều cho thấy hiệu
quả. Năng suất, sản lượng và chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao,
số lượng các sản phẩm mới luôn tăng hằng năm. Ða dạng sản phẩm và có những
sản phẩm khác biệt với các sản phẩm cùng loại trên thị trường để thu hút khách
hàng là giải pháp mà các doanh nghiệp dệt may đang thực hiện để mở rộng thị
trường trong nước. Với hơn 85 triệu dân, thị trường trong nước đầy tiềm năng
nhưng cũng rất khắt khe, doanh nghiệp phải phân khúc thị trường để đưa ra các
mặt hàng phù hợp nhu cầu ngườì tiêu dùng, luôn lắng nghe, tiếp nhận ý kiến,
không ngừng cải tiến, đổi mới sản phẩm và dịch vụ, nhằm thỏa mãn yêu cầu của
người tiêu dùng trong nước.
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 17
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
Một cuộc khảo sát mới đây về mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng với
các sản phẩm nước giải khát trong nước, kết quả cho thấy, đa số bình chọn cho
Trà Xanh Không Độ, trà thảo mộc Dr Thanh của Tập đoàn Tân Hiệp Phát –
những thức uống vốn rất thông dụng trong đời sống hàng ngày của người Việt.
Trà thảo mộc Dr Thanh với nguồn gốc từ thiên nhiên hiện đang được nhiều
người tín nhiệm không chỉ bởi đây là một loại nước giải khát phù hợp cho mùa
hè, mà theo họ, sản phẩm này còn như một “người lính” bảo vệ sức khỏe. Trà
thảo mộc đã “đánh” đúng tâm lý của người tiêu dùng khi chiết xuất từ 9 loại
thảo mộc quý, đa số có thể trồng được ở Việt Nam và vốn gần gũi, thân thuộc
như “người nhà”. Trên thực tế, có 4 yếu tố để Dr. Thanh được biết và nhớ đến,
đó là chất lượng, sự khác biệt, hiệu quả marketing và hệ thống tổ chức phân
phối.
Bên cạnh đó, các sản phẩm Việt Nam đang được tiêu thụ mạnh vì chất
lượng và giá cả phù hợp với khả năng tiêu dùng của đa số người dân địa
phương. Ông Võ Duy Hồng, trưởng bộ phận xây dựng thương hiệu của
Casumina cho biết: “Sản phẩm lốp ô tô và lốp xe máy, hàng Việt Nam đang bán
mạnh hơn cả hàng Thái Lan, Nhật và Trung Quốc. Bởi nếu cùng mức chất
lượng, hàng của họ giá cao hơn, còn nếu cùng mức giá, hàng của họ kém hơn”.
Không chỉ chú ý phát triển trong nước, các doanh ngiệp Việt Nam còn
từng bước xâm nhập thị trường nước ngoài với những sản phẩm phù hợp với thị
hiếu của người tiêu dùng.
Trong đó phải kể đến các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã thực sự là một
niềm tự hào văn hoá của người Việt Nam. Hiện có hàng ngàn loại thủ công mỹ
nghệ truyền thống như gốm sứ, sản phẩm tre, nứa, đồ sơn mài, khảm Một số
đáng kể đã được công nhận và phổ biến ở trường quốc tế.
2.2. Những hạn chế về chất lượng sản phẩm Việt
Không thể phủ nhận rằng, chất lượng các sản phẩm Việt Nam đang ngày
càng được cải thiện rất tích cực. Bên cạnh đó, giống như bất kì một lĩnh vực
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 18
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
nào, sản phẩm Việt Nam khó tránh khỏi những mặt hạn chế, yếu kém nhất định.
Trong khuôn khổ bài tìm hiểu này, chúng tôi xin đưa ra một số hạn chế nổi cộm
của sản phẩm Việt.
2.2.1. Vệ sinh an toàn
Đây là vấn đề thực sự gây nhức nhối đối với các cấp lãnh đạo và thực sự
gây bức xúc trong lòng người tiêu lâu nay: vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm
(VSATTP). Thật khó khiến cho người dân Việt đặt trọn niềm tự hào dân tộc khi
sức khoẻ bị đe doạ.
Vậy trước hết chúng ta cần hiểu VSATTP là gì?
Chất lượng VSATTP: VSATTP là các điều kiện và biện pháp cần thiết để
đảm bảo cho thực phẩm không gây hại cho sức khỏe và tính mạng con người.
Nhóm sản phẩm, hàng hoá không có khả năng gây mất an toàn thì được quản lý
trên cơ sở chất lượng sản phẩm do người sản xuất công bố và tự áp dụng
Nhóm sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thì được quản lý
trên cơ sở quy chuẩn chất lượng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành và tiêu chuẩn chất lượng do người sản xuất công bố áp dụng.
Có rất nhiều các mặt hàng của Việt Nam được bầy bán công khai trên thị
trường nội địa mà chưa hề qua một cơ quan kiểm định nào. Và ảnh hưởng trực
tiếp tức thì tới người tiêu dùng mà có thể nhận thấy rõ ràng là các sản phẩm tiêu
dùng thuộc ngành thực phẩm.
Sau đây là danh sách những sản phẩm Việt Nam có nguy cơ gây bệnh do
chưa đảm bảo được vệ sinh cũng như chất lượng sản phẩm.
1. Thịt và các sản phẩm từ thịt;
2. Sữa và các sản phẩm từ sữa;
3. Trứng và các sản phẩm chế biến từ trứng;
4. Thuỷ sản tươi sống và đã qua chế biến;
5. Các loại kem, nước đá; nước khoáng thiên nhiên;
6. Thực phẩm chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, thực
phẩm bổ sung, phụ gia thực phẩm.
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 19
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
7. Thức ăn, đồ uống chế biến để ăn ngay;
8. Thực phẩm đông lạnh;
9. Sữa đậu nành và sản phẩm chế biến từ đậu nành;
10. Các loại rau, củ, quả tươi sống ăn ngay.
Báo cáo về các hoạt động thanh - kiểm tra VSATTP trong năm 2009, Cục
An toàn Vệ sinh Thực phẩm (ATVSTP) đã đưa ra hàng loạt những con số như:
Tết Nguyên đán - 2009 phát hiện 9.609 cơ sở vi phạm, xử lý cảnh cáo 1.812 cơ
sở, phạt tiền 1.581 cơ sở với số tiền 2,5 tỉ đồng, đóng cửa tạm thời 48 cơ sở, 976
cơ sở có sản phẩm không đạt bị tiêu huỷ
Kết quả, Tháng hành động vì chất lượng VSATTP phát hiện hơn 30% số
cơ sở không đạt, số mẫu vi phạm chất lượng chiếm 18%, xử phạt hơn 15 nghìn
cơ sở, đình chỉ hoạt động 156 cơ sở. Đáng chú ý, trong số gần 1.500 mẫu thịt và
sản phẩm từ thịt được lấy trên cả nước, đã phát hiện tới gần 41% số mẫu nhiễm
khuẩn Salmonella (vi khuẩn gây ra các bệnh về đường tiêu hoá).
TPHCM và Đồng Nai là những địa phương có tỉ lệ mẫu thực phẩm nhiễm
Salmonella cao nhất - chiếm 84-95% mẫu được giám sát Mỗi ngày các loại
thực phẩm kém chất lượng vẫn tràn ngập thị trường mà không ai kiểm tra, giám
sát.
TS Trịnh Quân Huấn - Thứ trưởng Bộ Y tế - cho biết, mới chỉ có 20- 30%
số cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện
VSATTP trong số 9,4 triệu hộ sản xuất nhỏ lẻ trên cả nước.
Có ý kiến cho rằng, nếu áp dụng theo đúng các quy định về VSATTP thì
có lẽ 80% số hộ sản xuất nhỏ lẻ này phải đóng cửa. Chính quyền, cơ quan y tế
biết rõ những cơ sở đó không đủ các điều kiện để sản xuất thực phẩm, là nguy
cơ phát tán ra thị trường những sản phẩm kém chất lượng , song cứ cho tồn tại.
Còn đại diện Sở Y tế tỉnh Yên Bái thì phàn nàn, thanh - kiểm tra cơ sở
không đạt điều kiện ra lệnh phạt, nhưng chẳng ai nộp phạt vì lý do nghèo, thế là
chỉ nhắc nhở. Lại có hàng trăm lý do đưa ra không nên đóng cửa các cơ sở vi
phạm vì sợ rằng, đóng cửa đồng nghĩa với việc sẽ có hàng triệu người lao động
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 20
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
mất việc. Sự “lùng nhùng” này đã kéo dài nhiều năm nay. Những cơ sở sản xuất
bánh kẹo, bánh phở tư nhân ngày ngày cho ra lò những đồ ăn, thức uống bên
cạnh cống rãnh đen ngòm, cạnh nhà vệ sinh bốc mùi vẫn cứ ngang nhiên hoạt
động.
Bộ Y tế đã đặt lên bàn hội thảo vấn đề cần sớm có giải pháp để thiết lập
sự ATVSTP cho 9,4 triệu hộ sản xuất thực phẩm nhỏ lẻ. Các địa phương đều giãi
bày những cái khó mà một mình ngành y tế không đủ sức với tới. Thứ trưởng Y
tế Trịnh Quân Huấn đề nghị chính quyền các địa phương cần hỗ trợ vốn cho các
hộ sản xuất thực phẩm để cải tạo cơ sở vật chất, nếu cơ sở nào không làm sẽ
đóng cửa.
Cho đến lúc này, vấn đề ATVSTP tại nhiều nơi vẫn chỉ coi là chuyện nhỏ.
Bằng chứng là một cuộc họp cấp quốc gia về ATVSTP vắng bóng gần một nửa
lãnh đạo các sở y tế. Chẳng biết ngành y tế có quá lạc quan khi đưa ra mục tiêu
trong năm 2010 có 80% - tức là thêm 50% số cơ sở sản xuất thực phẩm tư nhân
- được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP so với năm 2009 khi mà cái
gốc của việc kiểm soát thực phẩm an toàn từ khâu sản xuất vẫn chưa thể giải
quyết.
Xin đơn cử một số mặt hàng tiêu biểu trong thời gian vừa qua đã có
những ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe người tiêu dùng là : các sản phẩm sữa,
nước tương, bánh kẹo
Đối với các sản phẩm sữa, trên thị trường hiện nay có hàng ngàn cơ sở
sản xuất sữa đậu nành. Thủ công có, công nghiệp có. Tuy nhiên số những nhà
sản xuất tên tuổi, có nguồn lực nhà xưởng, máy móc hiện đại, có qui trình sản
xuất đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm để cho ra đời sản phẩm chất lượng
dinh dưỡng cao thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Cuộc sống càng phát triển, người tiêu dùng càng quan tâm đến chất lượng
sống, đến sức khỏe không chỉ của riêng mình, mà còn của tất cả mọi thành viên
trong gia đình. Do đó, nhu cầu sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng chất lượng và
an toàn vệ sinh tuyệt đối ngày càng cao.
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 21
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
Mặt hàng thứ 2 đã từng là tâm điểm của dư luận cũng như người tiêu
dùng cũng như chất lượng sản phẩm và vệ sinh của sản phẩm. Đó là sản phẩm
nước tương.
Nước tương có chứa chất 3-MCPD (3-MCPD được xem là hoá chất hoạt
năng theo cơ chế không gây độc cho gen trong nghiên cứu trên cơ thể sống,
nhưng lại có tác động lên chức năng sinh sản, cũng như làm tổn thương tăng
sinh và tạo khối u ở thận ở mô hình thực nghiệm động vật)
Năm 2004, Viện Vệ sinh y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh thực hiện
giám sát hàm lượng 3-MCPD 41 mẫu nước tương thì phát hiện 33 mẫu có 3-
MCPD vượt tiêu chuẩn cho phép, chiếm tỉ lệ 80,5%. Trong 33 mẫu này có sáu
mẫu có hàm lượng 3-MCPD cao khủng khiếp, từ 11.100-18.244 mg/kg, tức cao
gấp 11.000-18.000 lần mức cho phép; sáu mẫu có hàm lượng 3-MCPD rất cao,
từ 6.260-8.659 mg/kg; và 21 mẫu có hàm lượng 3-MCPD cao vượt giới hạn từ
2,1-4.936 mg/kg.
Năm 2005, viện này khảo sát tiếp 137 mẫu từ nhiều nơi gửi tới xét
nghiệm. Qua đó phát hiện hơn 100 mẫu có hàm lượng 3-MCPD từ 2,0 -9.743
mg/kg, cao hơn mức cho phép từ hai đến gần chục ngàn lần. Kết quả phân tích
245 mẫu nước tương của Trung tâm Dịch vụ phân tích thí nghiệm thành phố Hồ
Chí Minh trong hai năm 2005-2006 cũng cho thấy có bảy mẫu vượt trên
1mg/kg, trong đó có một mẫu cao đến 1.700mg/kg. Ngoài ra, giám sát của Trung
tâm Y tế dự phòng thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2006 trên 20 mẫu cũng
phát hiện tám mẫu có 3-MCPD vượt mức cho phép.
Trừ hai bản danh sách các cơ sở sản xuất nước tương có chất 3-MCPD
cao quá mức cho phép trong hai năm 2005 và 2007 vừa được công bố, các kết
quả kiểm nghiệm mẫu của những cơ sở sản xuất nước tương khác trong nhiều
năm qua đều không được công bố. Các cơ sở này là ai? Vi phạm bao nhiêu lần,
có bị xử lý không, xử lý thế nào? Không ai biết, trừ ngành y tế!
Thế nhưng, nước tương có chất 3-MCPD vượt mức qui định gây nguy hại
sức khỏe người tiêu dùng vẫn xuất hiện nhan nhản trên thị trường. Nhiều năm
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 22
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
qua những cơ quan có trách nhiệm bảo vệ sức khỏe người dân vẫn dửng dưng,
giấu nhẹm thông tin để mặc người tiêu dùng phải đối diện với nguy cơ mắc bệnh
ung thư từ những loại nước tương không an toàn? Đây là câu hỏi đến nay vẫn
chưa có lời giải đáp thuyết phục.
Thời gian qua, mỗi khi phát hiện cơ sở nào vi phạm, sở đều có xử phạt.
Tuy nhiên, luật có những bất cập mà nhiều khi ngành y tế không thể làm khác
được. Có những cơ sở vi phạm nhiều lần, ngành y tế rất bức xúc, rất muốn đóng
cửa nhưng không thể vì luật qui định rất rõ họ sai phạm thế nào thì mới đóng
cửa được.
Nhưng hàng Việt có nhiều loại chưa bảo đảm chất lượng và an toàn cho
người tiêu dùng, vậy phải làm sao? Bài toán này không chỉ của riêng ai, mà cần
các nhà quản lý và đồng bào mình, mỗi người cần cố gắng tham gia. Ai làm
hàng giả, hàng kém chất lượng, không đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng cần
có chế tài phạt thật nặng, nếu tái phạm nhiều lần và để lại hậu quả nặng cho xã
hội thì phạt tù, tịch biên tài sản v v v
2.2.2. Mẫu mã sản phẩm
Thông thường, khi người tiêu dùng định mua một sản phẩm nào đó trong
hàng trăm loại hàng hóa cùng nhãn hiệu được bán ở siêu thị, hay trung tâm
thương mại thì có lẽ hình thức bên ngoài của sản phẩm là yếu tố đầu tiên nối
kết giữa thương hiệu và người tiêu dùng. Vì thế, để sự kết nối này được bền
vững, thì mẫu mã, bao bì, thiết kế phải đáp ứng được "tính cách riêng" của sản
phẩm, phải truyền tải những "điều muốn nói" của doanh nghiệp gửi đến người
tiêu dùng, từ đó mới tạo được sức mạnh của thương hiệu.
Thiết kế tốt, mẫu mã đẹp là tạo cho sản phẩm một giá trị đơn thuần của
nguyên vật liệu hay cơ năng vật lý. Thiết kế tốt sẽ tạo ra sự thoải mái khi dùng,
vẻ đẹp, niềm vui, sức hấp dẫn và làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm rất nhiều.
Vì thế, mọi người đều thích những sản phẩm có mẫu mã hấp dẫn, dù nghĩ rằng
hơi đắt một chút đi nữa họ vẫn có thể bỏ tiền ra mua.
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 23
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
Nếu biết được tên của các xí nghiệp chế tạo hay bán những sản phẩm có
thiết kế tốt, mọi người chú ý vào các tên đó. Người dùng sẽ đặt hy vọng vào các
xí nghiệp này và mong đợi những sản phẩm mới của họ với niềm vui. Thiết kế
tốt sẽ biểu hiện được suy nghĩ và nhìn thấy được quan điểm chế tạo sản phẩm
của xí nghiệp.
Khi sản phẩm có thiết kế tốt tăng lên, người dùng cũng dần dần nhận ra
được vẽ xấu tốt trong thiết kế và cạnh tranh của thị trường về mặt thiết kế sẽ
kích thích người chế tạo làm ra những sản phẩm có thiết kế tốt hơn. Như vậy,
với hiệu quả hỗ tương này giữa người sản xuất và người tiêu dùng, những sản
phẩm tốt dần sẽ được ra đời.
Thiết kế tốt sẽ làm người dùng tăng độ thoả mãn, nâng cao niềm tự hào
của người chế tạo và cũng sẽ gây được tiếng tăm của quốc gia, khu vực đó. Như
vậy, thiết kế tốt cũng sẽ liên quan đến sự phát triển về phương diện kinh tế, văn
hoá của toàn xã hội.
Ông Antonia Berenguer, tham tán thương mại phái đoàn Liên minh châu
Âu tại Việt Nam nhận định: nhiều doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) đang bị
động về vấn đề này, nên phần lớn chưa chủ động được mẫu mã hàng hóa để
chào hàng, mà chủ yếu làm theo đơn đặt hàng của đối tác. Phần lớn hàng hóa
của Việt Nam vẫn là hàng gia công, khiến khiến doanh nghiệp Việt Nam bị động
và phụ thuộc vào đối tác. Hàng hóa Việt Nam xuất hiện tại EU chưa tạo được
thương hiệu, tên tuổi có thể xem như một ví dụ. Đó là một hạn chế khiến hàng
Việt Nam ít được người tiêu dùng chú ý. Ông Matthias Duehn, giám đốc điều
hành EuroCham, dẫn chứng: ít người dân châu Âu biết đến thương hiệu cà phê
của Việt Nam, trong khi ai cũng biết thương hiệu cà phê Brazil. Một tên tuổi,
thương hiệu gắn liền với sản phẩm sẽ khiến chỗ đứng của sản phẩm trên thị
trường được khẳng định.
Chúng ta có thể thấy một vài mẫu mã sản phẩm của Việt Nam hiện nay có
phần khác và phong phú hơn so với một vài năm trước, nhưng vẫn chưa bắt kịp
được nhu cầu, thị hiếu ngày càng khắt khe và đa dạng của người tiêu dùng. Một
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 24
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Huyền Quản lý chất lượng
mẫu sản phẩm có tiêu thu được hay không trước hết phải đáp ứng được thị hiếu
của người tiêu dùng. Trước tiên là về hình thức mẫu mã của sản phẩm gây thiện
cảm về mỹ quan cũng như thích thú và đón nhận sản phẩm của người tiêu dùng.
Hơn nữa mẫu mã sản phẩm còn phải phù hợp với từng đối tượng, từng lứa tuổi,
thời điểm.
Mẫu mã chưa có sự sáng tạo và đổi mới, mà đơn thuần là dập khuôn theo
những mẫu mã sản phẩm của nước ngoài (từ kiểu dáng, chất liệu cũng như biểu
tượng, cả tên thương hiệu) hoặc những mẫu mã truyền thống có từ trước. Mẫu
mã sản phẩm Việt không phải không có sức sáng tạo mà không dám sáng tạo,
không dám đổi mới trong cách kinh doanh, cách thu hút khách hàng tiêu thụ
theo một cách tiếp cận mới.
Mẫu mã sản phẩm tiêu dùng nói chung hay mẫu mã hàng hóa Việt Nam
nói riêng còn thiếu ý nghĩa chiến lược kinh doanh bền vững về mặt lâu dài.
Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu nhìn theo cái trước mắt chứ không có chiến
lược lâu dài. Những mẫu mã sản phẩm tiêu dùng chỉ sử dụng trong một thời gian
và sẽ bị thay thế.
Ý nghĩa văn hóa của sản phẩm không cao. Cách thức quản lý mẫu mã sản
phẩm của doanh nghiệp còn lỏng lẻo, không chú trọng vào việc gìn giữ cũng
như bảo vệ, cho nên để đánh mất nhiều mẫu mã cũng nhu thương hiệu mẫu mã
của mình.
Mẫu mã sản phẩm tiêu dùng của Việt Nam còn mang nặng tính chất của
một nước nông nghiệp. Những biểu tượng trên bao bì sản phẩm còn rườm rà,
phức tạp, ý nghĩa biểu trưng không cao. Thêm vào đó chiến lược quảng bá sản
phẩm còn yếu kém không mang lại hiểu quả cao cho sản phẩm.
Thực tế, trong nhận thức của nhiều DN hiện nay, xây dựng thương hiệu,
để mẫu mã sản phẩm tiếp cận được tới khách hàng là phải thực hiện những
chương trình quảng cáo. Tuy nhiên, quảng cáo cũng là rào cản lớn nhất với các
DNVN với ngân sách hạn chế. Những thương hiệu hàng đầu VN vừa được khai
sinh trong khoảng 10 năm trở lại đây thường đi liền với các chiến dịch quảng
Sinh viên : Đàm Văn Sáng
Mã SV : 106C710040 25