Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Một số biện pháp giúp trẻ 24 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ qua giờ kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.14 KB, 13 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất ở
trường mầm non. Hoạt động này không những nhằm giúp trẻ hình thành các
năng lực ngơn ngữ như nghe, nói, tiền đọc và tiền viết, mà cịn giúp trẻ phát
triển khả năng tư duy, nhận thức, tình cảm. Đó là chiếc cầu nối giúp trẻ bước
vào thế giới lung linh, huyền ảo, rực rỡ sắc màu của xã hội lồi người.
Phát triển ngơn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi lại càng quan trọng trong
chương trình giáo dục nhà trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ được
thực hiện thông qua hoạt động học như: Hoạt động làm quen văn học, hoạt động
nhận biết, hoạt động ở mọi lúc mọi nơi,... Trong đó, hoạt động làm quen với văn
học mà đặc biệt là giờ kể chuyện giúp trẻ phát triển ngơn ngữ một cách tồn
diện nhất cả về vốn từ và ngữ điệu, giọng điệu.
Ở lứa tuổi này, trẻ có nhu cầu giao tiếp với mọi người, được khám phá thế
giới xung quanh mình nhưng vốn từ nghèo nàn, kinh nghiệm sống ít. Trẻ cảm
nhận, tiếp thu ngôn ngữ theo lối tư duy trực quan cụ thể, tức là lời nói gắn liền
với các hình ảnh, đồ vật, hiện tượng cụ thể thì trẻ mới có thể hiểu được.
Thơng qua hoạt động kể chuyện trẻ sẽ nhận thức được cái hay cái đẹp,
những hành vi đúng nên làm và những việc không nên làm. Từ đó, hình thành ở
trẻ thái độ ngoan – hư, tốt – xấu. Mà cô là người trung gian đưa những khái
niệm đó đến với trẻ. Khơng chỉ bồi đắp cảm xúc cho trẻ mà qua hoạt động kể
chuyện vốn từ của trẻ cũng được tăng lên, khả năng hiểu và biểu đạt lời nói tốt
hơn. Nhờ đó, ngơn ngữ của trẻ phát triển.
Thực tế, trong giờ kể chuyện chưa thật sự có hiệu quả bởi trẻ nhà trẻ sự tập
trung chưa cao. Bên cạnh đó, cơ giáo cũng chưa có sự chuẩn bị chu đáo. Đồ
dùng chưa bắt mắt lôi cuốn trẻ. Cơ nói nhanh, hình thức tổ chức đơn điệu. Cô
chưa chú ý đến việc cung cấp vốn từ cũng như cách diễn đạt lời nói cho trẻ. Vì
vậy, hiệu quả phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể chuyện không cao.
Bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp chăm sóc ni dưỡng và giáo dục
trẻ. Tơi thấy mình phải có trách nhiệm nhận thức đầy đủ về vị trí và tầm quan
trọng của mơn học này. Tơi ln trăn trở suy nghĩ tìm ra những giải pháp, biện


pháp tối ưu nhất để trẻ được tiếp thu bài học một cách có hiệu quả đáp ứng
được yêu cầu giáo dục hiện nay. Qua thực tiễn giảng dạy chương trình chăm sóc
giáo dục trẻ ở nhà trẻ trường mầm non Bé Ngoan cùng với sự đổi mới của giáo
dục mầm non, tôi nhận thấy rằng việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục
trẻ ở từng độ tuổi là hết sức cần thiết.
Chính vì những lí do trên mà tôi đã mạnh dạn chọn để tài: “Một số biện
pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ qua giờ kể chuyện”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ 24 - 36 tháng tuổi qua hoạt động
kể chuyện. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phát triển ngôn
ngữ cho trẻ một cách tốt nhất.

1


Để nâng cao khả năng phát triển ngôn ngữ qua kể chuyện cho trẻ từ 24 - 36
tháng tuổi. Cung cấp thêm vốn từ cho trẻ, khả năng nghe, hiểu và diễn đạt bằng
lời nói cho trẻ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Áp dụng đối với nhà trẻ lớp Chồi Biếc 3 (24 - 36 tháng tuổi) trường mầm
non Bé Ngoan thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Nghiên cứu các biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể chuyện.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp đàm thoại, giải thích
- Phương pháp tác động bằng tình cảm
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:

V.I.Lênin đã từng nói “Ngơn ngữ là cơng cụ giao tiếp quan trọng nhất của
con người” (V.I.Lênin toàn tập, tập 25, trang 258).
Trong xã hội loài người mỗi cá thể giao lưu với nhau được là nhờ có ngơn
ngữ. Chính vì thế, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ngay từ tuổi nhà trẻ là vô
cùng quan trọng. Mỗi giai đoạn phát triển khác nhau thì ngơn ngữ cũng theo đó
mà phát triển. Đây chính là giai đoạn bắt đầu của ngơn ngữ chủ động và có sự
ảnh hưởng lớn tới tồn bộ sự phát triển ngôn ngữ lâu dài về sau của trẻ.
Trẻ từ 2 - 3 tuổi có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ từ 22 tháng tuổi
và 30 tháng tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại
khác như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi
của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này đã có thể hiểu nghĩa của từ, tuy nhiên đang cịn hạn
chế. Trẻ nói được những câu dài nhưng chưa trọn vẹn, chưa diễn đạt hết được ý
muốn của mình bằng những câu đơn giản. Trẻ sử dụng các câu từ, ngữ pháp cịn
chưa chính xác. Vì thế, cần mở rộng vốn từ cho trẻ bằng cách trò chuyện với trẻ
về những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày gần gũi với trẻ
thông qua những câu chuyện mà cô thường kể cho trẻ nghe sẽ làm phong phú
thêm sự hiểu biết của trẻ.
Việc nắm vững được những đặc điểm này sẽ giúp cho bản thân tơi có thêm
những kiến thức và kĩ năng tốt nhất trong quá trình hỗ trợ trẻ phát triển ngơn
ngữ thơng qua giờ kể chuyện. Từ đó, đưa ra những phương pháp phù hợp, linh
hoạt để đạt được hiệu quả cao trong q trình chăm sóc giáo dục trẻ. Đặc biệt là
những trẻ gặp khó khăn trong giao tiếp.
Trên đây là những cơ sở lý luận của đề tài và đã giúp tơi căn cứ vào đó để tìm
ra những biện pháp dạy trẻ sao cho thật phù hợp.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
Năm học 2017 - 2018, tơi được phân cơng chủ nhiệm nhóm lớp nhà trẻ 24 - 36
tháng tuổi với số trẻ là 15. Thời gian đầu năm học trẻ mới bắt đầu đến trường
chưa quen với môi trường mới và phải xa bố mẹ, người thân trong gia đình nên
2



trẻ đang cịn hay khóc và chưa chịu học, chịu chơi. Vì thế, việc cho trẻ phát triển
vốn từ đang còn hạn chế. Mặc dù ở tuổi 24 - 36 tháng tuổi nhưng một số cháu
chưa biết nói chỉ ê, a, baba,... ra hiệu cho cô như cháu Nhật Nam, Bình Minh,
Ngọc Dũng, Minh Vy,.. Từ tình hình thực tế của lớp, tơi thấy những thuận lợi và
khó khăn như sau:
2.2.1. Thuận lợi:
Trường mầm non Bé Ngoan là loại hình mầm non tư thục, chất lượng giảng
dạy ngày càng được nâng cao. Nhà trường luôn được phụ huynh học sinh tin
tưởng, số lượng học sinh ra lớp ngày một đông.
Nhà trường luôn tạo điều kiện tốt nhất về cở sở vật chất, trang thiết dạy bị
phục vụ hoạt động dạy và học.
Hàng năm, giáo viên được dạy và tiếp thu chuyên đề do nhà trường tổ chức
để rút kinh nghiệm.
Luôn tổ chức các hoạt động lấy trẻ làm trung tâm với phương châm “Học mà
chơi, chơi mà học”.
Môi trường, không gian lớp học sạch sẽ, thống mát.
Cơ ln u nghề mến trẻ, khơng ngừng nâng cao trình độ chun mơn, ham
học hỏi.
2.2.2. Khó khăn:
- Khả năng ngơn ngữ của trẻ không đồng đểu, nhiều trẻ chưa tự tin trong giao tiếp.
- Trẻ 24 - 36 tháng đang ở giai đoạn phát triển lời nói, do đó khả năng diễn
đạt ngơn ngữ của trẻ gặp nhiều khó khăn.
- Mặc dù ở cùng độ tuổi nhưng khả năng nhận thức và sự tập trung chú ý của
trẻ không đồng đều.
- Là lớp bé nhất trong trường, 100% là trẻ mới nhập học. Do đó, trẻ chưa
quen nề nếp, chưa quen mọi hoạt động trong ngày. Tính rụt dè, nhút nhát chưa
mạnh dạn tự tin cịn ở nhiều trẻ. Trẻ chưa có thói quen tập thể, hay nói tự do,
phát âm chưa chính xác, trẻ cịn nói ngọng,...
- Một số phụ huynh cịn có suy nghĩ “Chậm đi thì đói, chậm nói thì giàu” nên

nhiều phụ huynh coi trọng việc chăm sóc trẻ, coi nhẹ tầm quan trọng của việc
cung cấp các kiến thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhất là trẻ lứa tuổi nhà trẻ.
- Đồ dùng tự làm chưa phong phú.
2.2.3. Số liệu điều khảo sát trẻ trước khi thực hiện:
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2017 - 2018 tại lớp nhà trẻ Chồi
Biếc 3 trường mầm non Bé Ngoan như sau:
Kết quả
Nội dung
Số trẻ
Số lượng trẻ
Tỉ lệ %
Trẻ hiểu nghĩa của từ, nói mạch lạc,
8 Trẻ
53%
mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
Trẻ biết phát âm rõ lời, sử dụng từ
9 Trẻ
60%
ngữ, ngữ pháp đúng.
15
Trẻ biết sử dụng ngữ điệu giọng
7 Trẻ
46%
phù hợp trong giao tiếp.
3


Qua bảng khảo sát cho tôi nhận thấy việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ là vơ
cùng quan trọng. Chính vì vậy, tơi ln suy nghĩ làm thế nào để hoạt động kể
chuyện có thể lơi cuốn trẻ, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.

2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Với trẻ 24 - 36 tháng tuổi rất thích nghe kể chuyện và rất hứng thú với hoạt
động này. Chính vì vậy, mà tôi muốn thông qua giờ kể chuyện để phát triển
ngôn ngữ cho trẻ. Cụ thể các biện pháp thực hiện như sau:
2.3.1 Biện pháp 1: Đổi mới các hình thức tổ chức giờ kể chuyện
Có thể nói một hoạt động được tổ chức thành công hay không một phần lớn
là do hình thức tổ chức có phong phú, hấp dẫn với trẻ. Nếu một hoạt động tổ
chức một cách cứng nhắc, đơn điệu thì dễ gây cho trẻ cảm giác nhàm chán, mệt
mỏi dẫn đến hiệu quả giáo dục không cao. Đối với giờ kể chuyện mà lại là kể
chuyện cho trẻ nhà trẻ, lứa tuổi trẻ chưa có sự tập trung cao cho hoạt động học
thì địi hỏi hình thức tổ chức lại càng phải phong phú, hấp dẫn.
Trong việc xác định hình thức tổ chức giờ kể chuyện, tôi vẫn phải đảm bảo
cấu trúc của tiết dạy theo quy định. Tuy nhiên, mỗi câu chuyện khác nhau, với
từng chủ đề, từng thời điểm tơi lại có hình thức tổ chức khác nhau cho phù hợp.
Tôi không thay đổi hình thức tổ chức quá nhiều. Tuy nhiên, ở mỗi câu chuyện
khác nhau tơi đưa vào trong đó một số điểm mới, điểm khác biệt, điều này đã
khiến trẻ hứng thú và hào hứng hơn với câu chuyện.
VD: Với truyện “Quả trứng”, tơi sử dụng mơ hình với quả trứng thật để dẫn
dắt vào chuyện. Trong quá trình kể tơi tập trung vào giọng của mình cho hấp dẫn.
Đối với truyện “Chiếc áo mùa xn”, tơi sử dụng hình thức đưa trẻ vào không
gian của mùa xuân với hoa cỏ do cơ trang trí để giúp trẻ hịa nhịp vào câu chuyện.
Có thể nói việc thay đổi hình thức giờ học đa dạng, phong phú, hấp dẫn đã
lôi cuốn trẻ vào giờ học một cách nhẹ nhàng mà vẫn mang lại hiệu quả cao.
Trong giờ kể chuyện lâu nay chúng ta vẫn có thói quen cho trẻ ngồi thụ
động theo một kiểu ngồi từ đầu hoạt động cho đến lúc kết thúc. Điều này đối với
trẻ nhà trẻ ngồi lâu sẽ gây cho trẻ sự mệt mỏi, gị bó. Vì thế, tơi đã ln thay đổi
kiểu ngồi học giúp cho trẻ ln có cảm giác thối mái nhất. Trẻ ngồi gần cơ sao
cho giữa cơ và trẻ ln có sự gắn kết gần gũi. Cô bao quát được trẻ. Trẻ có thể
quan sát được cử chỉ, nét mặt của cô.
VD: Lúc đầu bước vào hoạt động kể chuyện, tôi sẽ cho trẻ ngồi vây quanh

cô để nghe cô kể chuyện. Sau đó, chuyển sang hoạt động đàm thoại, xem tranh
tơi cho trẻ ngồi về hình chữ U. Hoặc nếu kết hợp kể chuyện với mơ hình truyện
tơi có thể cho trẻ đứng xung quanh mơ hình để nghe cơ kể chuyện.
Khi chuyển tiếp từ hoạt động này sang một hoạt động khác tơi thường đưa
các thủ thuật, trị chơi đơn giản, nhẹ nhàng tạo ra một không gian mới xen kẽ
giữa hoạt động: Tĩnh và động.
VD: Truyện “Quả trứng”, sau khi kết thúc hoạt động đàm thoại về câu
chuyện. Trước khi cho trẻ làm quen một lần nữa với câu chuyện bằng tranh chữ
to, tơi cho trẻ chơi trị chơi “Bắt chước tiếng kêu của các nhân vật trong truyện”.
Kết thúc cho trẻ hát bài: “Một con vịt”.

4


Có thể nói việc thay đổi hình thức giờ học đa dạng, phong phú, hấp dẫn đã
lôi cuốn trẻ vào giờ học một cách nhẹ nhàng. Trẻ tập trung chú ý nhiều hơn, học
được nhiều từ ngữ hơn, lắng nghe nhiều hơn đến cách phát âm của cô, chú ý đến
sự thể hiện giọng điệu của từng nhân vật. Mục tiêu đặt ra trong đó có mục tiêu
để phát triển ngôn ngữ được thực hiện một cách dễ dàng hơn.
2.3.2 Biện pháp 2: Làm tốt khâu chuẩn bị cho giờ học
Để có một giờ kể chuyện đạt hiệu quả cao, trước hết khâu chuẩn bị phải
thực sự chu đáo. Thực tế, trong q trình tổ chức hoạt động có những câu
chuyện bản thân tôi cũng như một số giáo viên khác thể hiện được giọng điệu,
ngữ điệu của nhân vật cịn chưa chính xác. Ngun nhân phần lớn do chưa có sự
chuẩn bị kĩ càng. Do đó, để giúp cơ tự tin khi thể hiện câu chuyện thì bản thân
đã chú ý đến việc chuẩn bị trước khi vào giờ kể chuyện.
Những câu chuyện sẽ được tôi chọn lọc và đưa vào kế hoạch giáo dục cho
phù hợp với chủ đề và lên giáo án các bước thực hiện cụ thể, chuẩn bị đồ dùng phù
hợp.
Khi đã lựa chọn được tác phẩm truyện, tôi nghiên cứu kĩ nội dung câu

chuyện, thậm chí đọc đi đọc lại nhiều lần để tìm ra giọng điệu phù hợp với nhân
vật, diễn biến câu chuyện. Nhiều câu chuyện đã được thể hiện trên mạng
Internet, tơi đã tìm tịi và mở ra nghe tham khảo. Tôi đọc và ghi âm để chỉnh sửa
giọng đọc cũng như sửa tiếng địa phương cho chuẩn với tiếng phổ thông. Bởi
một tác phẩm truyền tải thành công tới trẻ đó là qua giọng kể của cơ.
VD: Trong câu chuyện “Hai chú dê con”. Tơi đã dựa vào tính cách và diễn
biến câu chuyện để xác định giọng cho các nhân vật như sau:
Nhân vật hai chú Dê: Khi tranh giành nhau. Giọng chua ngoa và vang xa.
Nhân vật bác Cò vàng: Tốt bụng. Giọng ân cần, đầm ấm, chậm rãi.
Nhân vật hai chú Dê: Khi biết lỗi. Giọng nhẹ nhàng, nũng nịu.
Và đặc biệt giọng người dẫn chuyện phải khác với nhân vật. Tuy nhiên,
cũng sẽ thay đổi theo tình tiết chuyện lúc trầm lúc bổng. Nhằm kích thích sự tò
mò, háo hức của trẻ đối với câu chuyện. Khi kể truyện cô kể chậm hơn, diễn
cảm để trẻ cảm nhận được nội dung tác phẩm.
Khi đã chuẩn bị đầy đủ cả về nội dung lẫn đồ dùng, dụng cụ cũng như tâm
thế. Tơi có thể chủ động tiến hành giờ học một cách tự tin. Do đã thuộc nội dung
câu chuyện cũng như các bước tiến hành, tôi có thể tập trung hóa thân vào nhân
vật. Vì thế trẻ dễ dàng đi vào câu truyện một cách say mê.
2.3.3 Biện pháp 3: Quan tâm đến biện pháp luyện tập cá nhân trẻ
Trong thực tế tổ chức giờ kể chuyện cho trẻ nhà trẻ ở lớp tôi. Một số cháu
rất tích cực tham gia hoạt động, thích được nói cùng cô, một số cháu khác lại thụ
động, rụt rè chỉ biết ngồi nghe cơ và các bạn khác nói. Tìm hiểu ngun nhân tơi
nhận ra các cháu này có vốn từ rất nghèo nàn, phát âm không rõ nên khơng tự
tin trong giao tiếp. Do đó, trong giờ kể chuyện tôi đã sử dụng các biện pháp
khác nhau để kích thích từng cá nhân trẻ luyện nói.
Trước hết, để trẻ tự tin tham gia trả lời câu hỏi của cô, trẻ phải hiểu nội
dung câu chuyện và hiểu câu hỏi của cô. Những câu hỏi mà tôi lựa chọn là
những câu hỏi ngắn gọn.
5



Để trẻ hiểu sâu hơn về nội dung câu chuyện, tôi đã đưa hệ thống câu hỏi
ngắn gọn, phù hợp để trẻ có thể trả lời được. Câu hỏi mang tính chất mở từ dễ
đến khó, sát với nội dung truyện. Câu hỏi phải đạt được những tiêu chí: Ai đây?
Cái gì đây?.. Làm gì?... Thế nào?
VD: Truyện “Cái chng nhỏ”, tôi sẽ đưa ra những câu hỏi như sau:
- Câu chuyện nói về cái gì?
- Cái chng phát ra tiếng kêu như thế nào?
- Ai có cái chng đó?
- Những bạn nào muốn mượn cái chuông của mèo?
- Thế mèo có cho các bạn mượn khơng? Vì sao?
- Sau đó mèo bị làm sao?....
Sau mỗi câu trả lời của trẻ, cô khái quát và cho trẻ nhắc lại. Đặc biệt là
những câu có đoạn hội thoại để trẻ nhớ lại.

Cô hỗ trợ trẻ kể lại truyện cùng các nhân vật
Mỗi lần cho trẻ nhắc lại đoạn hội thoại, đọc và phát âm các từ khó nếu có.
Nếu trẻ phát âm chưa chuẩn, sử dụng câu chưa đúng tôi trực tiếp uốn nắn, sửa
sai cho trẻ. Tôi thường ưu tiên gọi những trẻ nhút nhát, những trẻ đang còn chậm
về cách phát âm và diễn đạt. Tôi động viên, khuyến khích, hướng lái trẻ trả lời
diễn đạt bằng ngơn ngữ lời nói.
Trong khi trả lời các câu hỏi của cơ vốn từ của trẻ tăng lên rất nhiều, đồng
thời trẻ biết sử dụng các câu dài phong phú và đa dạng hơn. Trẻ hiểu được nghĩa
của từ. Cái mà trẻ đạt được hơn thế nữa đó là sự mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
Khi trẻ đã hiểu được nội dung câu chuyện. Tơi khuyến khích trẻ làm động
tác và tập kể lại câu chuyện kết hợp với tranh chữ to bằng cách mớm lời cho trẻ.
Sau mỗi một ngày tôi thường dành riêng ra 15 phút để đánh giá, ghi nhật kí
của trẻ. Thơng qua, sổ nhật kí tơi có thể theo dõi được mức độ phát triển ngơn
ngữ của từng trẻ, đặc biệt là những trẻ nhút nhát hơn. Từ đó, đề ra các giải pháp
cho các giờ học sau.

Với cách thức như vậy, mỗi ngày với sự kiên trì của mình khoảng cách về
khả năng ngơn ngữ giữa các trẻ dần dần được thu hẹp lại. Trẻ tự tin, mạnh dạn
hơn và chủ động hơn trong giờ kể chuyện.

6


2.3.4 Biện pháp 4: Đồ dùng trực quan phong phú đa dạng
Trẻ nhà trẻ tư duy trực quan cụ thể là chủ yếu. Tức là lời nói ln gắn liền
với đồ vật cụ thể thì trẻ mới hiểu được. Trong giờ hoạt động kể chuyện, đồ dùng
càng đẹp, càng hấp dẫn sẽ kích thích lơi cuốn trẻ. Chính vì vậy, tôi luôn chuẩn bị
chu đáo các loại đồ dùng mới lạ, sáng tạo, đẹp mắt phục vụ cho giờ kể chuyện.
+ Tơi tận dụng các ngun liệu vật liệu có sẵn ở địa phương như: Sách báo,
lịch cũ, ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn làm ra những con rối, đồ vật thật xinh
xắn, sáng tạo phục vụ cho các câu chuyện mà tôi sẽ kể.
VD: Truyện "Thỏ con không vâng lời” tơi kể chuyện bằng mơ hình sân
khấu với các nhân vật bằng rối: Rối Gấu, rối Thỏ mẹ, rối Thỏ con, bướm và
chuẩn bị các con rối đầy đủ đẹp mắt cho trẻ hóa thân vào nhân vât đã gây được
sự chú ý cho trẻ.

Cô chuẩn bị rối, mũ múa các nhân vật cho trẻ
+ Khi kể chuyện tôi dùng những tranh ảnh với màu sắc đẹp để gây hứng
thú cho trẻ nghe. Trẻ cũng có thể kể lại truyện với các hình ảnh trong tranh theo
lời nói, cách diễn đạt của trẻ. Từ đó, cung cấp thêm vốn từ cho trẻ.

Tranh minh họa câu truyện với màu sắc đẹp mắt
Ngồi việc sử dụng tranh minh họa, tơi cịn đưa cơng nghệ thơng tin vào hoạt
động kể chuyện. Lâu nay với việc quan sát tranh đã theo lối mịi, việc tơi kết hợp kể
chuyện với những hình ảnh Power ponit với những nhân vật đang chuyển động làm


7


trẻ thích thú hơn nhiều. Trẻ say mê hơn với giờ kể chuyện, khơng cịn tình trạng mất
tập trung.
Kể chuyện kết hợp với mơ hình truyện cũng được tơi sử dụng.
VD: Câu chuyện “Xe lu và xe ca”. Khi trích dẫn nội dung truyện tơi đưa
mơ hình vào để giờ học thêm sinh động. Các nhân vật xe lu và xe ca,… được tơi
tận dụng làm từ các bìa cứng.

Mơ hình câu truyện sáng tạo
Có một số câu chuyện có hình ảnh phức tạp, để đảm bảo tính thẩm mĩ tơi
đã sưu tầm trên Internet. Sau đó, in mầu hoặc đem đi phun mầu. Nhờ đó, những
hình ảnh truyện chân thực và sống động tạo sự thích thú cho trẻ khi tham gia
hoạt động.
2.3.5 Biện pháp 5: Tổ chức mọi lúc mọi nơi
Đối với trẻ nhà trẻ hoạt động chơi nhiều hơn hoạt động học nên tôi đã lồng
ghép, đan xen hoạt động kể chuyện vào mọi lúc mọi nơi "Học mà chơi, chơi mà
học" nhằm củng cố thêm kiến thức đã học và cung cấp thêm vốn từ vốn, cách sử
dụng câu từ đang còn nghèo nàn của trẻ.
Trong giờ đón, trả trẻ tơi cho trẻ quan sát, trị chuyện về một câu chuyện
tranh đã học. Tôi nhận thấy có những trẻ lâu nay ln thụ động trong các hoạt
động nhưng khi nhìn vào bức tranh tơi đưa ra, trẻ nhận ra và nói đúng tên nhân
vật trong truyện là những vật nào. Sau đó, tơi gợi mở, khuyến khích trẻ nói đó là
nhân vật nào? Trong câu chuyện nào?
Tơi trị chuyện với trẻ về diễn biến xảy ra trong câu chuyện. Tơi ln
khuyến khích trẻ kể dưới sự gợi ý của cơ. Ngồi cho trẻ xem tranh tơi cịn cho
trẻ phim hoạt hình về các câu chuyện kể. Trẻ rất thích thú với loại hình này. Qua
hình thức này, trẻ được nói và diễn đạt theo ý của mình. Tơi thấy trẻ tự tin hơn,
khơng cịn khoảng cách rụt rè. Trẻ dễ khắc sâu vào tâm trí trẻ về nội dung câu

chuyện. Theo đó, ngơn ngữ cũng phát triển.
Tôi lồng ghép kể chuyện cho trẻ nghe vào mỗi giờ đi ngủ của trẻ. Trước khi
trẻ đi ngủ, tôi sẽ đọc cho trẻ nghe những câu chuyện cổ tích, những câu chuyện
ngắn gọn, dễ nghe, dễ đi vào giấc ngủ trẻ. Nó giống như một thói quen trước khi
ngủ của trẻ.

8


Trẻ nhà trẻ học và chơi đan xen nhau, sau những hoạt động học, tơi cho trẻ
hoạt động góc, hoạt động ngồi trời.
Ở góc sách, tơi sẽ trang bị cho các cháu sách truyện, tranh truyện kèm với
chữ to gắn liền. Mặc dù trẻ chưa biết chữ nhưng tôi vẫn khuyến khích cho trẻ
cách giở sách và xem sách nhằm kích thích sự ham hiểu biết của trẻ.
Thuận lợi của trường tơi, đó là khu Vườn cổ tích với con vật, nhân vật,
hình ảnh gắn liền với những câu chuyện cổ tích: Tấm Cám, Dê đen và dê trắng,
thỏ và rùa,... Vào những giờ hoạt động ngồi trời, tơi thường cho trẻ tham quan
khu vườn cổ tích. Và kết hợp trị chuyện với trẻ về những hình ảnh, con vật gắn
liền với các câu chuyện đó. Những hoạt động như thế rất sơi nổi lại mang tính
giáo dục cao. Trẻ vừa được nghe truyện, được tri giác, phát triển ghi nhớ có chủ
định. Từ đó ngơn từ của trẻ cũng ngày càng tiến bộ hơn.

Kết hợp kể truyện cho trẻ thơng qua hoạt động ngồi trời
2.3.6 Biện pháp 6: Sửa sai và rèn luyện ngữ điệu giọng cho trẻ
Có rất nhiều trẻ nói ngọng, nói lắp, nói khơng đủ câu,… trong khoảng
thời gian từ 1 đến 3 tuổi. Ở lứa tuổi này, trẻ chưa nói được trịn vành, rõ chữ
vì ở lứa tuổi này trẻ đang trong quá trình phát triển về âm, nếu được sửa trẻ
có thể tự điều chỉnh nói cho đúng. Cùng với sự phát triển của cơ thể, các bộ
phận, chức năng của trẻ sẽ hoàn thiện theo thời gian. Do đó, vai trị của người
giáo viên trực tiếp dạy trẻ là rất quan trọng trong việc phát hiện việc phát âm

chưa chuẩn của trẻ để kịp thời lên kế hoạch uốn nắn, sửa sai cho trẻ. Tuy
nhiên, tuyệt đối khơng nói ngọng theo trẻ, khơng nhại lại, trêu trẻ, điều này
khiến trẻ sẽ không ý thức được việc phát âm chuẩn là việc nên làm.
Trước hết phải để bản thân trẻ nhận thức được rằng cách nói đấy là sai,
nghe buồn cười, phải tập phát âm lại nhiều lần để uốn nắn lại, nếu không sẽ trở
thành thói quen rất khó sửa. Do đó, khi thấy trẻ phát âm chưa chuẩn thì cơ phải
là người nhận thấy và sửa ngay cho trẻ, chỉ cho trẻ cách điều khiển lưỡi thế nào,
khuôn miệng ra sao, cách bật hơi như thế nào,… để trẻ phát âm đúng hơn.
VD: Trong chuyện “Chuyến du lịch của chú gà trống choai” có từ: “Trống
choai”, cơ phải nhận thấy ngay và kịp thời sửa sai ngay cho trẻ, dạy trẻ cách uốn
cong lưỡi, có thể cả ở mọi lúc mọi nơi để cho trẻ phát âm đúng.
VD: Trong câu chuyện “Xe lu và xe ca” có từ “Chạy chậm như rùa” miêu tả xe
lu chạy chậm, nhưng một số trẻ lại đọc là “Chạy chậm như nùa” thì cơ phải uốn nắn
ngay cho trẻ để những lần sau trẻ phát âm chuẩn hơn.
9


Với những cách sửa sai cho trẻ này đã giúp trẻ phát âm chuẩn ngôn ngữ hơn.
Đối với lứa tuổi mầm non trẻ rất thích bắt trước theo người lớn và đặc biệt là
cơ giáo của mình. Vì thế, trong tất cả các hành vi, cử chỉ, lời nói của cô trẻ sẽ dễ
tiếp nhận và ghi nhớ sâu sắc khơng những việc làm mà giọng nói, ngữ điệu của cô
khi kể truyện lôi cuốn, hấp dẫn trẻ, rõ ràng từng nhân vật, nét mặt trong từng tình
huống và có phân đoạn nhịp rõ ràng thì trẻ sẽ thích thú và tập trung hơn.
VD: Trong câu chuyện: “Thỏ con không vâng lời” lúc Thỏ con chạy theo
Bươm bướm đi chơi: “Thỏ con đi mãi… chơi xa… thật là xa…” thì giọng kể
của giáo viên phải kéo dài âm: “mãi”, “xa” diễn tả đường đi chơi của Thỏ con
rất dài và rất xa ngơi nhà của mình.
Khơng chỉ chú ý đến ngữ điệu giọng kể, tơi cịn chú ý đến nhịp độ, cường
độ, lúc dồn dập lúc từ tốn, lúc to lúc nhỏ khác nhau thu hút sự chú ý của trẻ để
trẻ tiếp thu bài nhanh và hiệu quả hơn.

VD: Trong câu chuyện: “Đôi bạn nhỏ” khi Gà con suýt bị Cáo đuổi bắt thì
giọng kể của giáo viên phải hốt hoảng, cuống quýt: “Chiếp! Chiếp! Cứu tôi với!
Cứu tôi với!”.
Sử dụng biện pháp này tôi thấy giọng điệu của trẻ dễ nghe và rất truyền cảm.
2.3.7 Biện pháp 7: Tuyên truyền và phối kết hợp với phụ huynh học sinh
trong việc phát triển lời nói cho trẻ
Nhiệm vụ của giáo viên Mầm non là chăm sóc và giáo dục trẻ, những mầm
non tương lai, những người làm chủ đất nước vì thế bậc học mầm non ngày càng
được coi trọng vì thế có rất nhiều các hình thức và phương pháp chăm sóc trẻ khác
nhau. Cho đến nay có rất nhiều hình thức và phương pháp chăm sóc trẻ khác nhau
như phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ theo hướng đổi mới, hay phương pháp
chăm sóc giáo dục trẻ theo hướng MN mới,… Dù có thực hiện phương pháp chăm
sóc giáo dục trẻ theo hướng nào nếu như chỉ có nhà trường và giáo viên nỗ lực cố
gắng mà khơng có sự phối kết hợp với gia đình và các bậc phụ huynh về cách chăm
sóc giáo dục trẻ thì hiệu quả giáo dục sẽ khơng cao.
Vì vậy, trước cửa lớp tơi có bảng: “Góc trao đổi với phụ huynh”, trên đó có
ghi nội dung bài học của từng tuần, những bài học, câu chuyện bé thích, những
đồ dùng đồ chơi, tranh ảnh... phụ huynh có thể đóng góp phục vụ chủ đề.
Bên cạnh đó cơng nghệ thơng tin cơ và các bậc phụ huynh có thể dễ dàng
cập nhật thơng tin của con em mình do cơ giáo chia sẻ, hay vào giờ đón, trả trẻ,
tơi cùng cơ giáo ở lớp thường xuyên trao đổi với phụ huynh những gì trẻ đã làm
được và chưa làm được, đặc điểm nổi bật của trẻ trong ngày, bé thích câu chuyện
gì, bé trả lời câu hỏi của cơ ra sao,… để thống nhất cách dạy trẻ, có kế hoạch bồi
dưỡng kiến thức cho trẻ, có kế hoạch với phụ huynh để trẻ lĩnh hội được những
kiến thức cần thiết và tư duy tốt nhất khi học ở trường mầm non. Đồng thời tôi
cũng động viên phụ huynh dành thời gian kể chuyện, đọc chuyện cho trẻ nghe
trước khi đi ngủ, lắng nghe trò chuyện với con giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch
lạc, đủ câu, rõ ràng.

10



Góc trao đổi với phu huynh về thơng tin cần thiết với trẻ
VD: Như trẻ Ngọc Dũng, đầu năm học cháu chỉ mới nói được ê a mà chưa
nói được rõ từ. Vì thế, cơ thường xun trao đổi với phụ huynh để cùng nhau
tìm ra giải pháp để tăng cường vốn từ cho cháu.
Kết hợp phụ huynh là một biện pháp rất hữu ích. Từ đó, cả cơ và phụ huynh
đều tìm ra được các giải pháp giúp trẻ phát triển một cách tốt hơn, dần dần trẻ
được rèn luyện cả trên lớp và ở nhà giúp trẻ phát âm tốt hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào thực tế giảng dạy, tơi thấy các cháu
rất hứng thú, rất thích nghe kể chuyện. Qua đó mà việc phát triển ngơn ngữ đạt
hiệu quả cao.
2.4.1 Đối với trẻ:
Trong khi nghe kể chuyện, kể lại chuyện và trả lời các câu hỏi của cô. Vốn
từ của trẻ được tăng lên rất nhiều đồng thời trẻ biết sử dụng các loại câu phong
phú và đa dạng. Biết thể hiện ngữ điệu và thái độ khi nói.
- Một số trẻ đầu năm đang cịn chậm nói thì nay đã có thể nói được những
câu đơn giản.
- Trẻ mạnh dạn, tự tin khi tham gia các hoạt động.
- Trẻ yêu thích các nhân vật trong câu chuyện để tái hiện nó.
- Biết sử sụng ngữ điệu giọng, luyến láy từ.
Sau một năm áp dụng phương pháp mới này kết quả giảng dạy của tôi đã
được nâng lên rõ rệt, cụ thể như sau:
Kết quả
Nội dung
Số trẻ
Số lượng trẻ
Tỉ lệ %
Trẻ hiểu nghĩa của từ, nói mạch lạc,

12 Trẻ
80%
mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
15
Trẻ biết phát âm rõ lời, sử dụng từ
13Trẻ
86%
ngữ, ngữ pháp đúng.
Trẻ biết sử dụng ngữ điệu giọng
11 Trẻ
73%
phù hợp trong giao tiếp.
Sau khi áp dụng “Biện pháp cho trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt
động kể chuyện” tôi thấy đa số trẻ hiểu nghĩa của từ, nhiều trẻ có khả năng phát
11


âm đúng, rõ lời. Tỉ lệ trẻ thể hiện được ngữ điệu, giọng điệu khi giao tiếp tăng
hơn so với trước, cụ thể:
Trẻ hiểu nghĩa của từ, nói mạch lạc, mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp 53%
lên 80% (tăng 27%). Số trẻ biết phát âm rõ lời, sử dụng từ ngữ, ngữ pháp đúng
từ 60% lên 86% (tăng 26%). Số trẻ phát âm đúng, rõ lời tăng từ 33% lên 70%
(tăng 34%). Số trẻ biết sử dụng ngữ điệu giọng phù hợp trong giao tiếp tăng từ
46% lên 73% (tăng 27%).
2.4.2 Đối với bản thân:
Muốn giúp trẻ từ 24 tháng đến 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua
hoạt động kể chuyện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Đổi mới các hình thức kể truyện.
- Chuẩn bị đồ dùng trực quan sinh động đẹp, đồ dùng đồ chơi đầy đủ.
- Đầu tư suy nghĩ, khai thác những nội dung tích hợp vào bài học mọi lúc mọi nơi.

- Quan tâm đến từng cá nhân trẻ.
- Kịp thời sửa những lỗi phát âm cho trẻ.
- chuẩn bị tiết học chu đáo, cẩn thận.
- Rèn luyện ngữ điệu giọng trong khi kể chuyện.
- Tuyên truyền và phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong cơng tác giáo
dục phát triển lời nói cho trẻ.
2.4.3 Đối với nhà trường và đồng nghiệp:
- Trẻ 24 – 36 tháng tuổi có sự phát triển rõ nét về ngơn ngữ nên đã tạo lập được
sự tin tưởng của phụ huynh, thu hút ngày càng nhiều phụ huynh đưa con tới trường.
- Giáo viên các lớp khác học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, giải pháp để thúc
đẩy dự phát triển ngôn ngữ cho trẻ
2.4.4 Đối với phụ huynh:
- Phụ huynh đã quan tâm hơn đến con em của mình, hiểu được tầm quan
trọng của ngơn ngữ, đã trị truyện với con nhiều hơn hay kể truyện cho trẻ nghe.
- Luôn phối hợp với giáo viên để cùng giúp nắm bắt tình hình ngơn ngữ của
trẻ để cùng phối hợp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.
3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận:
Muốn giúp trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể
chuyện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Luôn luôn nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ để có biện
pháp giáo dục phù hợp. Vận dụng các biện pháp giáo dục mọi lúc, mọi nơi. Chú
ý đến các trẻ nhút nhát, rụt rè.
- Dạy học luôn “Lấy trẻ làm trung tâm” để phát huy tính tích cực của trẻ
cơ cần gây hứng thú cho trẻ vào hoạt động kể chuyện bằng các thủ thuật đơn
giản như trị chơi, câu đố, thơ, hát, tình huống có vấn đề.
- Trong q trình tổ chức cơ cần chú ý đến hệ thống câu hỏi ngắn gọn, có
tính mở giúp trẻ được tư duy và phát triển ngôn ngữ. Cơ động viên, khích lệ trẻ
diễn đạt bằng lời nói, quan tâm đến từng cá nhân trẻ.


12


- Đầu tư thời gian để nghiên cứu kĩ đề tài để có các phương pháp dạy học
cụ thể, phù hợp và đạt hiệu quả tốt nhất. Chuẩn bị chu đáo đồ dùng trực quan
đẹp mắt, mới lạ, phong phú hấp dẫn trẻ .
3.2. Kiến nghị:
- Đề xuất với nhà trường: Nhà trường cần tổ chức những tiết mẫu nhiều
hơn, phát thêm tài liệu về các câu chuyện hay, mới,... cho giáo viên, để giáo viên
lĩnh hội thêm kiến thức nâng cao khả năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Đề xuất với phịng giáo dục: Kính mong các cấp lãnh đạo của phòng Giáo
dục và Đào tạo thị xã tổ chức thêm nhiều các lớp bồi dưỡng chuyên đề riêng phát
triển ngôn ngữ cho trẻ để giáo viên nâng cao kiến thức, sự hiểu biết sâu rộng về
chăm sóc, ni dưỡng, phát triển lời nói cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi được tốt hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm được rút ra trong quá trình học tập và công
tác của bản thân tôi nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thông
qua giờ kể chuyện. Trong quá trình thực hiện đề tài này không tránh khỏi những
hạn chế. Tôi rất mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp
và của các cấp lãnh đạo. Để từ đó bản thân tôi rút ra được các kinh nghiệm và
bản SKKN được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Hiệu trưởng:

Bỉm Sơn, ngày 30/3/2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, khơng sao chép nội
dung của người khác.
Người viết:


Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRÊN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

13



×