PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục Mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người mới
có ích. Một trong ba mục tiêu cải cách giáo dục của nước ta là: Làm tốt việc chăm
sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con
người Việt nam mới, người lao động làm chủ tập thể, phát triển toàn diện nhân cách,
giáo dục mầm non đã góp phần thực hiện mục tiêu trên. Ngày nay, chúng ta không
chỉ đào tạo những con người có tri thức, có khoa học, có tình yêu thiên nhiên, yêu
Tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo nên những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái
đẹp, giàu mơ ước và sáng tạo. Những phẩm chất ấy của con người phải được hình
thành từ lứa tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn biết bao điều tốt đẹp trong tương lai.
Trong những năm gần đây bậc học Mầm non đang tiến hành đổi mới chương
trình giáo dục trẻ mầm non, trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động
với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một cách chủ
động tích cực, hồn nhiên, vui tươi. Đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên phát huy
khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục
trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm “ Học mà chơi- chơi mà học” đáp
ứng mục tiêu phát triển trẻ một cách toàn diện.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ có vai trò là một
phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh,
ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh,
thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật hiện tượng có
trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng của
các sự vật cùng với từ tương ứng với nó.
Trong công tác giáo dục thế hệ mầm non cho đất nước, chúng ta càng thấy rõ
vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ.
Dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ lứa tuổi mầm non đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ 24- 36
1/30
tháng tuổi có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ
giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và
phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc trong giao tiếp sẽ dễ
dàng tiếp cận với các môn khoa học khác ở độ tuổi mẫu giáo: môi trường xung
quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình…
Trẻ ở độ tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ
thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối quan
hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ còn rất hạn chế và có nét đặc
trưng riêng, trẻ sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa chính xác, trẻ nhận thức về
công cụ ngữ pháp và sử dụng nó còn rất hạn chế, chúng ta cần phải giúp trẻ phát
triển mở rộng các loại từ trong các từ, biết sử dụng nhiều loại câu, bằng con đường
giao tiếp thường xuyên, có hệ thống của trẻ với người lớn về những sự vật, sự việc
trẻ được nhìn thấy trong sinh hoạt hằng ngày. Chính vì vậy tôi chọn đề tài : “ Một số
biện pháp giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ” làm đề tài nghiên cứu
tại lớp 24-36 tháng tuổi trường Mầm non Hoa Sữa.
2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến tâm sinh lý trẻ em, biện pháp giúp
trẻ 24-36 tháng nói rõ ràng, mạnh dạn, trả lời câu hỏi của cô.
- Tìm hiểu thực trạng vềphát triển ngôn ngữ trong trường mầm non.
- Đề xuất một số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Tổ chức cho trẻ làm quen và gây hứng thú tích cực vào các hoạt động có chủ
đích (LQVH, HĐTH, LQCV…) trong giờ hoạt động ngoài trời,hoạt động góc, mọi
lúc mọi nơi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Phạm vi nghiên cứu:
+Tại lớp D2 ( nhóm trẻ 24- 36 tháng) trường Mầm Non Hoa Sữa Quận Long
Biên- TP Hà Nội từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018
2/30
5. Phương pháp nghiên cứu.
5. 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Đọc, thu thập, phân tích, khái quát hóa, hệ thống hóa những tài liệu có liên
quan tới đề tài: tâm lý học, sinh lý học, giáo dục học mầm non,
5. 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
5.2.1 Phương pháp quan sát
- Quan sát việc thực hiện trong các hoạt động giáo dục trẻ, quan sát hứng thú
của trẻ khi chơi với đồ chơi .
5.2.2 Phương pháp trò chuyện.
- Trò chuyện với trẻ, tìm hiểu để nắm được tình hình tâm lý, sức khỏe của trẻ
từ đó có những biện pháp phù hợp với từng trẻ.
5.2.3 Phương pháp thống kê toán học.
- Dùng công thức toán học để xử lý số liệu thực tiễn đã thu thập được.
6. Kế hoạch nghiên cứu
- Từ ngày 10/09/2017 đến ngày 19/10/2017 chọn đề tài và trang bị lý luận.
- Từ ngày 20/02/2018 đến ngày 25/02/2018 tổ chức cho trẻ thực hiện các biện
pháp trong các hoạt động.
- Từ ngày 26/2/2018 đến ngày 20/3/2018 phân tích kết quả và viết sáng kiến
kinh nghiệm.
3/30
PHẦN II- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỂ
1. Cơ sở lý luận:
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ
Mầm Non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng không thể thiếu
được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt đối với trẻ
nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình
thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng
đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của
người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội mà mọi
người đều phải thực hiện theo những quy định chung đó.
Năm thứ ba là giai đoạn quan trọng nhất trong sự phát triển ngôn ngữ của
trẻ. “ Trẻ lên ba cả nhà học nói”, điều này thật đúng. Do đặc điểm và nhu cầu giao
tiếp mà giai đoạn ba tuổi, lời nói của trẻ phát triển với tốc độ mạnh mẽ nhất. Chính
yếu tố này đòi hỏi người lớn phải hướng trẻ vào thế giới xung quanh, phát triển ở
trẻ năng lực quan sát, nhận biết các đồ vật, hiện tượng khác nhau, đồng thời cho trẻ
làm quen với hoạt động của người lớn. Có như vậy mới phát triển được mặt hiểu ý
nghĩa của lời nói, khả năng phát âm, các chức năng giao tiếp và điều quan trọng
nhất là ở chỗ làm sao cho trẻ không những nắm vững từ mà còn học sử dụng chúng
theo ý mình. Điều này không tự đến, nhu cầu sử dụng ngữ liệu vào giao tiếp cần
phải được giáo dục, quan hệ của người lớn đối với trẻ có ý nghĩa rất quan trọng
đối với sự phát triển kịp thời lời nói cho trẻ, thái độ quan tâm, thận trọng, hết mình
của cô giáo tạo ra sự phát triển những tình cảm tích cực và những phản ứng khác
nhau, thiếu những thứ đó không thể tạo ra được mối quan hệ chặt chẽ và phát triển
ngôn ngữ cho trẻ. Những tác động sư phạm phải được tiến hành thường xuyên và
hướng vào tất cả các mặt phát triển thần kinh- tâm lý của trẻ, chỉ có sự phát triển
toàn diện như vậy ở trẻ mới hình thành được ngôn ngữ.
2. Thực trạng của vấn đề
Đầu năm học 2017-2018, tôi được phân công lớp nhà trẻ (24-36 tháng tuổi)
cùng với cô giáo Vũ Thu Hằng và cô giáo Đặng Thị Hoa với sĩ số là 36 cháu.
4/30
Trong lớp có nhiều cháu chậm nói, chưa nói rõ được các từ đơn giản như: Dạ, bà,
mẹ, cô, cho…. Mỗi khi đến lớp và khi ra về các cháu này chỉ vòng hai tay lại và cúi
đầu xuống, ậm ự trong miệng chứ không nói rõ được từ nào, một số cháu nói được
thì nói chưa rõ lời, chưa đủ ý. Do vậy tôi thăm dò với phụ huynh về tình hình của
các cháu. Qua trao đổi tôi được biết: Nhiều gia đình cán bộ công chức, họ gửi con
cho các nhóm trẻ tư thục, ít có thời gian chơi đùa, trò chuyện với con cái; hay có
những gia đình buôn bán, họ giao con cho người giúp việc, cũng có gia đình giao
con cho bà nội bà ngoại chăm sóc, ở những trẻ này được nội ngoại cưng chiều,
luôn sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của trẻ nên trẻ lười nói dẫn đến chậm nói. Hầu
hết các trẻ nêu trên đều do phụ huynh dành thời gian cho con ở độ tuổi này rất ít,
trẻ hạn chế trong giao lưu với những người thân, cơ hội thỏa mãn nhu cầu, tự bộc
lộ ý muốn của mình và khi được nói, được thể hiện ý mình đôi lúc trẻ phát âm chưa
rõ cũng chưa được sửa sai.
a) Thuận lợi:
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường
- Lớp có diện tích khá rộng rãi, thoáng mát.
- Lớp được chia theo đúng độ tuổi qui định
- Đồ dùng phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong phú
- Giáo viên nắm vững phương pháp giảng dạy bộ môn, được bồi dưỡng thường
xuyên và tham gia học tập tại các lớp chuyên đề do Sở, Phòng tổ chức
- Giáo viên luôn yêu nghề, yêu trẻ, nhiệt tình, tận tụy với công việc.
- Trình độ của giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn
- Phụ huynh luôn ủng hộ, giúp đỡ.
- Trẻ đi học chuyên cần
b) Khó khăn:
5/30
- Lần đầu tiên đến lớp nên trẻ còn khóc nhiều đi học còn khóc nhiều, chưa quen
với các cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiên sinh hoạt và các hoạt động ở lớp,
các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở thích và cá tính khác nhau.
- Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ chưa biết khối lượng các âm tiếp thu cũng như
trật tự các từ khi nhắc lại câu của người lớn, nên trẻ bỏ bớt từ, bỏ bớt âm khi nói.
- 85% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức còn hạn chế dẫn đến
tình trạng trẻ thường dùng từ không chính xác.
- 60% trẻ phát âm chưa chính xác hay ngọng chữ x-s, dấu ngã - dấu sắc, dấu
hỏi, dấu nặng
- Ở lớp nhà trẻ, thời gian chăm sóc trẻ chiếm đa số nên việc giáo viên chú ý
phát triển vốn từ cho trẻ đôi khi còn gặp nhiều khó khăn.
- Đa số phụ huynh đều bận công việc nên ít có thời gian trò chuyện với trẻ
- Trẻ được đáp ứng đầy đủ về nhu cầu trẻ cần mà không cần phải dùng lời để
yêu cầu hoặc xin, nên trẻ chậm nói
Điều trăn trở nhất đối với tôi lúc này là làm sao để cho những cháu chậm nói,
phát âm chưa rõ lời: nói được những từ đơn giản như các bạn cùng độ tuổi, đồng
thời phát triển được khả năng phát âm, hiểu ý nghĩa lời nói, khả năng khái quát và
chức năng giao tiếp ngôn ngữ được chuẩn mực ở các trẻ khác.
Tôi tiến hành khảo sát trẻ trong lớp, kết quả như sau:
Đ
ạt
Tiêu
Số
chí
Vốn từ
Khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ
Và phát âm
Khả năng nói đúng ngữ pháp
Khả năng giao tiếp
Chưa đạt
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
lượng
12/36
33,3%
lượng
24/36
66,7%
16/36
44,4%
20/36
55,6%
12/36
33,3%
24/36
66,7%
27,7
26/36
72,3
10/36
%
6/30
%
3. Biện pháp thực hiện
3.1 Biện pháp 1: Phát triển ngôn ngữ thông qua sinh hoạt hằng ngày
3.1.1Qua giờ đón, trả trẻ
Giờ Sự ân cần niềm nở của cô giáo khi đón trẻ sẽ là niềm tin, sự an tâm từ
phía phụ huynh và cũng là chỗ dự an toàn khi trẻ vào lớp, cũng ngay lúc này đây cô
giáo hướng dẫn trẻ để cặp, xếp dép ngăn nắp đúng nơi qui định vừa trò chuyện
cùng trẻ
Sáng nay bố mẹ đưa con đi học bằng xe gì? ( xe máy ạ )
Xe máy kêu như thế nào? ( xe máy kêu píp píp)
Xe máy có mấy bánh? ( xe máy có 2 bánh)
Trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ và phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ mạch lạc, bởi qua trò chuyện cô
cung cấp và mở rộng vốn từ cho trẻ, khi trẻ mạnh dạn trò chuyện cùng với cô có
nghĩa là trẻ đã tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở
rộng và phát triển hơn.
3.1.2 Qua giờ ăn
Một chế độ dinh dưỡng tốt ngay từ thời thơ ấu sẽ là nền tảng cho sự phát triển
cả về thể chất lẫn tinh thần mà chỉ có khi trưởng thành mới có thể biết được. Bên
cạnh chế độ dinh dưỡng trong bữa ăn, việc vệ sinh trước, trong và sau khi ăn cũng
có phần rất quan trọng trong việc hình thành thói quen cho trẻ, giúp trẻ phát triển
toàn diện về nhân cách sau này.
Sau các hoạt động học tập - vui chơi các bé được cung cấp bổ sung lượng calo
cần thiết để cho cơ thể phát triển một cách tốt nhất. Trẻ được ăn 2 bữa chính: bữa
trưa và bữa chiều
Trước khi ăn, cô và trẻ cùng hát bài “ Mời bạn ăn”, để mau lớn các con phải
ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, thế trong bài hát có những loại thức ăn nào? ( cho trẻ
kể: thịt, rau, trứng, đậu, cá, tôm), bữa trưa hôm nay các con được ăn cơm với món
gì nhỉ?, thế là tôi chia cơm và giới thiệu món ăn
7/30
Ví dụ: Món mặn là “ trứng đúc thịt”, món canh “ Canh tôm mồng tơi”
Hôm nay các con được ăn cơm với món ăn mặn là “Trứng đúc thịt”
Vậy thịt, trứng cung cấp cho chúng ta chất dinh dưỡng gì? (chất đạm), canh rau
cung cấp cho chúng ta chất gì? (vitamin, chất xơ), tôi luôn trò chuyện với trẻ
trước khi ăn để tạo không khí vui vẻ, giúp trẻ ăn ngon miệng vừa củng cố vốn từ
cho trẻ
Giờ ăn của các trẻ
Qua giờ ăn, trẻ có lượng kiến thức phong phú, có thêm kỹ năng vệ sinh, xúc
ăn gọn gàng.
3.1.3 Qua giờ ngủ
Đối với trẻ em, giấc ngủ cũng có tầm quan trọng như thức ăn và nước uống
hàng ngày. Một giấc ngủ sâu là điều rất cần thiết cho sự phát triển toàn diện cả về
thể chất lẫn trí tuệ của trẻ. Ngược lại ngủ không ngon giấc hoặc có thể bị thiếu ngủ,
sẽ khiến trẻ cáu gắt, quấy khóc, không tập trung, mệt mỏi. Nếu thường xuyên ở
trong tình trạng trẻ này sẽ phát triển chậm hơn so với các trẻ khác và dĩ nhiên là sẽ
không nhanh nhẹn, thông minh, hoạt bát và về lâu dài ảnh hưởng đến sức khỏe của
trẻ.
Khi trẻ đã lên giường tôi mở những ca khúc nhẹ nhàng, những bài hát ru êm ái
hay những câu truyện có nội dung giáo dục nhẹ nhàng cho trẻ nghe.
8/30
Ví dụ: Bài hát “ Giờ đi ngủ” trẻ nghe và nằm đúng tư thế, không nằm sấp,
không nói chuyện
Trước khi ngủ, tôi trò chuyện, vỗ về với những trẻ ít nói, chậm nói hỏi trẻ câu
đơn giản để trẻ trả lời:
+ Ở nhà, ai cho con ngủ?
+ Con ngủ với ai?
+ Bố (mẹ) con có hay hát cho con nghe không?
+ Cô hát cho con nghe nhé.
Qua giờ ngủ, trẻ được cung cấp thêm vốn từ, tạo thói quen tốt trong khi ngủ và
thoải mái tự tin khi giao tiếp với cô giáo.
3.2 Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua hoạt động chơi tập có chủ
đích
Đối với trẻ nhà trẻ , được phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động
chơi tập là một biện pháp tốt nhất. Giờ học đã trở thành phương tiện để cung cấp,
tích luỹ được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó
trẻ biết sử dụng” số vốn từ ”đó một cách thành thạo.
3.2.1 Thông qua hoạt động “ Nhận biết tập nói”
Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp
vốn từ vựng cho trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa
hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong
tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ.
Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ
trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc.
VD1: Trong bài nhận biết ” Củ cà rốt” cô muốn cung cấp từ “ củ cà rốt
” cho trẻ cô phải chuẩn bị mỗi trẻ một củ cà rốt thật để cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử
dụng các giác quan như: sờ, nhìn…..nhằm phát huy tính tích cực của tư duy, rèn
khả năng ghi nhớ có chủ đích.
9/30
- Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ
thống câu hỏi:
+ Đây là củ gì? ( “Củ cà rốt ạ”)
+ Củ cà rốt có màu gì? ( màu cam ạ)
+ Đây là gì? ( cuống cà rốt ạ)
+ Chỉ cho cô lá cà rốt đâu? Các con nói lá cà rốt nào. ( lá cà rốt ạ)
+ Lá cà rốt màu gì? ( Màu xanh ạ)
- Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói
được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc , thiếu từ cô phải sửa
ngay cho trẻ.
Giờ học nhận biết tập nói : “Củ cà rốt”
VD2 :
Bài nhận biết “ Ô tô”
Khi vào bài tôi đặt câu đố:
“ Xe gì bốn bánh
Chạy ở trên đường
Còi kêu bim bim
Chở hàng chở khách” ( Ô tô)
10/30
-
Trẻ trả lời đó là ô tô tôi đưa chiếc ô tô cho trẻ xem và hỏi:
+ Xe gì đây?
( Ô tô ạ )
+ Ô tô có màu gì? ( Màu đỏ ạ )
+ Ô tô đi ở đâu?
( Ô tô đi ở trên đường ạ)
+ Ô tô dùng để làm gì? ( Dùng để đi ạ)
+ Còi ô tô kêu như thế nào? ( bíp bíp..)
+ Đây là cái gì?
( Cô hỏi từng bộ phận của ô tô và yêu cầu trẻ
trả lời)
- Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời
nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ thực
tế giáo dục trẻ về an toàn giao thông khi đi trên đường.
Ở hoạt động nhận biết tập nói, trẻ được quan sát hình ảnh mà cô giáo cung
cấp. Đối tượng này đã được cô giáo chuẩn bị trước, sắp xếp chúng từ đơn giản đến
phức tạp dần, khi quan sát cô gợi mở để trẻ nói được điều trẻ đang quan sát, trong
khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói lắp.
Ví dụ: Ở đề tài: “Nhận biết tập nói: Bánh chưng”
Mục đích yêu cầu cần đạt được ở đề tài này là:
- Rèn khả năng phát âm, phát triển lời nói cho trẻ.
- Trẻ biết và gọi được tên bánh chưng
- Biết được nguyên liệu làm bánh chưng: gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn
- Bánh chưng ăn có vị ngon, thơm.
- Giáo dục trẻ quý trọng truyền thống của dân tộc.
Đồ dùng dạy học cho đề tài này là: nguyên liệu gói bánh chưng: gạo nếp, đỗ,
thịt lợn, lá dong, lạt buộc; video các món ăn ngày tết , bánh chưng chín.
11/30
Giờ học nhận biết tập nói: “Bánh chưng”
Tôi cho những trẻ phát âm rõ lời phát âm trước sau đó tập cho những trẻ phát
âm chưa rõ, những cháu chậm nói được phát âm nhiều lần, luân phiên nhau.
Ở hoạt động Nhận biết tập nói, trẻ được phát âm nhiều, được nói nhiều và
cũng dễ bộc lộ ý tưởng của mình muốn nói, cũng chính trong hoạt động này cô
giáo phát hiện ra những cháu phát âm chuẩn, những cháu phát âm chưa chuẩn để
sửa sai kịp thời.
3.2.2 Thông qua hoạt động làm quen văn học
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và
còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy
trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các
từ mới qua giờ học thơ, truyện.
Những bài đồng dao, ca dao rất gần gũi, quen thuộc với trẻ, những động tác
kết hợp với lời thơ( lời ca) trẻ vừa đọc, vừa vận động sẽ là cơ hội để bộ máy phát
âm được làm việc
Ví dụ: Bài “Kéo cưa lừa xẻ”
12/30
Kéo cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Thì ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Về bú tí mẹ
Hai trẻ ngồi đối mặt nhau, chạm chân vào nhau, nắm tay nhau vừa đọc, vừa
làm động tác kéo cưa, kéo qua kéo lại. Trẻ rất thích thú trẻ đang học mà như đang
chơi vậy.
Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho
trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo :
+ Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh
cho trẻ.
+ Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có
chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
+ Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong
sáng, giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
VD2:
Trong câu truyện “ Sinh nhật của thỏ con” ngoài việc giúp trẻ thể
hiện ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai
những từ trẻ hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút
nhát mạnh dạn hơn khi trả lời.
13/30
+
Giờ học Văn học truyện: “Sinh nhật của thỏ con”
+ Trẻ nói Thỏ con
_
Thỏ ngon
+ Gà con
_
Gà ngon
+ Chó con
_
Chó ngon
………….
………..
- Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách : tôi nói
mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo.
- Thể hiện sắc thái , ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham
gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó
tôi động viên , khích lệ trẻ kịp thời.
- Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “ Sinh
nhật của thỏ con”
+ Giọng Thỏ con thì vui tươi, nhí nhảnh, nét mặt rạng rỡ
+ Giọng Chó con thì hơi ồm ồm, nét mặt cũng vui tươi
+ Giọng Gà con thì nhí nhảnh, niềm nở.
14/30
- Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh
của trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung
câu truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức .
VD3:
Qua bài thơ “ Cây bắp cải ” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “ Sắp
vòng quanh”. Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật để cho trẻ quan sát, trẻ phải được
nhìn, sờ, ngửi…..và qua vật thật tôi sẽ giải thích cho trẻ từ “ sắp vòng quanh”.
- Tôi giải thích cho trẻ : Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng
ngày mẹ vẫn mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con nhìn xem lá bắp cải rất to
có màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vòng tròn xếp
trồng lên nhau lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già ở
ngoài . Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời:
+ Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ạ)
+ Cây bắp cải trong bài thơ được miêu tả đẹp như thế nào?
( Xanh man mát )
+ Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao? ( Sắp vòng quanh ạ)
+ Búp cải non thì nằm ở đâu? ( Nằm ở giữa ạ)
- Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm
vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú.
- Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng,
nói lắp cũng vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn
chú trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ.
Tất cả các câu hỏi đều tập cho trẻ trả lời trọn câu, đủ ý và cho nhiều trẻ được
trả lời. Ở đây cô giáo gợi ý để trẻ nhớ và kể theo ngôn ngữ diễn đạt của từng trẻ.
Như vậy khả năng hiểu ý nghĩa lời nói, nắm vững từ và sử dụng chúng theo theo ý
mình được hình thành.
Qua giờ hoạt động làm quen văn học, trẻ biết sử dụng ngôn ngữ nói, là
phương tiện lĩnh hội kinh nghiệm tiếp thu kiến thức, biết sử dụng nhiều từ mới thể
15/30
hiện nội dung câu chuyện. Đây cũng là cơ hội để ngôn ngữ giao tiếp được phát triển.
3.2.3 Qua hoạt động âm nhạc
Âm nhạc là món ăn tinh thần hàng đầu giúp trẻ thư giản thoái mái. Các
nghiên cứu đã chỉ ra, âm nhạc có tác dụng tốt, kích thích sự phát triển trí não. Do
đó người ta khuyên cho trẻ nghe nhạc để phát triển trí tuệ của trẻ.
Ở hoạt động âm nhạc trẻ được tiếp xúc với nhiều loại nhạc cụ như: xắc xô,
trống, phách tre, sáo... và các vật dụng: mũ múa, khăn voan, quạt giấy... , trẻ được
học những giai điệu vui tươi kết hợp với các hình thức hoạt động (vận động theo
nhạc một cách nhịp nhàng, vận động minh hoa theo lời ca). Để làm được như vậy
là nhờ sự hiểu biết, nhận thức, vốn từ, kỹ năng, đặc biệt là sự giao tiếp bằng ngôn
ngữ của trẻ được tích lũy và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm
nhạc
VD:
Hát và vận động bài “ Con voi”
+ Câu đầu tiên : Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước.
( Trẻ đưa tay ra phía trước giả làm vòi con voi)
+ Câu thứ hai : Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau.
( Hai tay chống hông , hai chân nhấc lên nhấc xuống)
+ Câu cuối :
Còn cái đuôi đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Câu chuyên con voi.
( Một tay chống hông, một tay đưa ra đằng sau vờ làm đuôi con voi)
16/30
Giờ học âm nhạc: Dạy hát: “Con voi”
Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có
mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh đẹp
của bài hát.
3.2.4 Thông qua giờ vận động :
Chúng ta không nên chỉ bồi dưỡng trí lực mà coi nhẹ vai trò của vận
động. Vận động có một ý nghĩa rất quan trọng đối với trẻ nhỏ, là một trong những
yếu tố quyết định sự phát triển toàn diện của trẻ trong những năm đầu đời.Theo giáo
sư Kubota Kisou trong cuốn “Dạy Con Kiểu Nhật”, Trẻ em nên được luyện kỹ năng
vận động từ sớm, nhằm thúc đẩy cho não phát triển.
Trong giờ học tôi đã sử dụng những thùng bìa để làm thành tàu hoả cho trẻ
chơi. Mỗi thùng làm thành một toa tàu. Trong khi chơi trẻ có thể vừa chơi vừa kết
hợp âm nhạc hát :” Đoàn tàu tí hon”, “ Tàu vào ga”…..vận dụng vào phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
17/30
_ Tôi còn phân loại màu xanh, đỏ, vàng của những chiếc vòng để khi trẻ phân
biệt màu không bị nhầm lẫn. Khi trẻ chơi với vòng tôi có thể hỏi trẻ giúp ngôn ngữ
của trẻ thêm mạch lạc, rõ ràng hơn:
+ Vòng này có màu gì hả con?
( Màu đỏ ạ)
+ Thế còn vòng này có màu gì đây?
( Màu xanh ạ)
+ Vòng để làm gì con có biết không? ( để học , để chơi trò chơi ạ)
+ Con sẽ chơi gì với vòng ?
( Con lái ô tô ạ)
- Giò học thể dục cho trẻ hoạt động ở ngoài để tăng thêm sự hứng thứ cho trẻ,
làm đồ dùng như mũ thỏ, mũ chim mũ gà con để trẻ thích thú hơn .
Giờ học vận động đi trong đường hẹp
Qua những giờ hoạt động chơi tập trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn
ngữ cũng lưu loát hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên.
3.3 Biện pháp 3: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi tập góc:
Hoạt động vui chơi chiếm thời gian nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là
thời gian trẻ được chơi thỏa mái nhất. Giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát
triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hóa vốn từ cho trẻ, trong quá trình chơi trẻ có điều
kiện học và sử dụng các loại từ khác nhau. Để phát triển giao tiếp ngôn ngữ, việc
tổ chức trẻ chơi cùng nhau có ý nghĩa rất quan trọng, tôi dạy trẻ dần dần, không áp
đặt: bắt đầu quan sát bạn chơi, sau đó từ từ đưa trẻ tham gia vào đó, từ đó xuất hiện
18/30
khả năng chuyển trò chơi từ độc lập sang hợp tác cùng nhau, tự trẻ lôi kéo nhau
vào việc mở rộng quá trình chơi. “ chúng mình sẽ xây công viên”, “ bạn xây cổng,
mình xây tường rào” ,giúp đỡ những bạn còn lúng túng “ bạn cần phải xây như thế
này” đánh giá hoạt động của bạn và của mình “bạn xây sai rồi, mình biết xây đây
này”, ngăn chặn thực hiện một hành động “ đừng làm ngã, đừng đụng vào đây”.
Dần dần trẻ học được không chỉ yêu cầu hay giúp đỡ mà còn liên kết các hành
động của mình với hành động của trẻ khác, lôi cuốn chú ý của chúng vào một cái gì
đó, thú vị, đặc biệt, thỏa thuận nhau cùng chơi, nhờ bạn giúp đỡ hay giúp đỡ bạn đều
tự bộc phát trong khi chơi. Điều quan trọng là lời nói của trẻ trong khi thực hiện chức
năng giao tiếp ở mức độ nào đó bắt đầu thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi.
VD1: Trò chơi trong góc” Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi
sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày.
+ Bác đã cho búp bê ăn chưa? ( Chưa ạ)
+ Khi ăn bác nhớ đeo yếm để bột không dây ra áo của búp bê nhé! ( Vâng ạ)
+ Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé!
+ Bột vẫn còn nóng lắm để mẹ thổi cho nguội đã ! (Giả vờ thổi cho nguội)
+ Búp bê của mẹ ăn ngoan rồi mẹ cho búp bê đi chơi nhé!!
(Âu yếm em búp bê)
Bé chơi với búp bê
19/30
-
Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe,
hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương , gắn
bó của con người
VD2: Trong góc “ Hoạt động với đồ vật” ở chủ điểm “Giao thông” bằng đồ dùng tự
tạo đó chính là những chiếc ô tô đã đục sẵn lỗ và những chiếc ô tô, máy bay chưa có
bánh xe tôi đã cho trẻ lấy dây xâu qua những lỗ đó và tôi sẽ hỏi trẻ:
+ Con đang xâu gì vậy? ( Con đang xâu vòng ạ)
+ Con xâu vòng bằng gì đấy?
(Con xâu bằng dây xâu và hạt gỗ ạ)
+ Con xâu như nào? ( Con xâu hạt đỏ rồi hạt xanh rồi hạt đỏ)
+ Khi xâu xong con để sản phẩm của mình nhẹ nhàng vào khay nhé! ( Vâng ạ)
Bé xâu vòng
VD3: Ở góc “ Bé khéo tay” ở chủ điểm “Bé với thực vật ” bằng miếng củ cà
rốt, miếng khế, củ cải thừa tôi đã tận dụng cắt thành hình bông hoa, chiếc lá để cho
trẻ in màu. Trẻ sẽ được in những bông hoa, lá cây đủ màu sắc tạo lên giấy thành sản
phẩm của mình một cách nghệ thuật. Tôi thấy trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm .
Khi trẻ làm tôi ân cần đến bên trẻ trò chuyện cùng trẻ:
+ Con đang làm gì vậy?
( Con in hình bông hoa ạ)
+ Cây của con có màu gì?
( Màu nâu ạ)
+ Bông hoa in từ củ gì? ( Củ cà rốt ạ )
+ Bông hoa này có màu gì ? ( Màu vàng ạ)
20/30
Trẻ dán hoa, in hình hoa lá từ củ
Như vậy bằng những đồ chơi tự tạo thông qua hoạt động chơi không những rèn
cho trẻ sự khéo léo mà còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ, trẻ được giao lưu
ngôn ngữ với bạn bè, được trao đổi thông tin trong giờ chơi.
3.4 Biện pháp 4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động dạo chơi
ngoài trời.
Bản chất của hoạt động dạo chơi ngoài trời là một hoạt động tự do thoải mái,
khác với các hoạt động có tính tổ chức khác như lao động hay thể thao, vui chơi
không chỉ đầy sự ngẫu hứng mà đôi khi trông bừa bộn, thiếu ngăn nắp.Hoạt động
dạo chơi thường gắn với cuộc sống của trẻ nhỏ và liên quan đến việc sử dụng các
nguyên vật liệu từ thiên nhiên như: đất, cát, nước, đất sét, lá cây, cỏ khô, hoa khô...
càng nhỏ trẻ càng thích tiếp xúc trực tiếp với chúng như: khuấy trộn, nhào, nặn, ấn,
đập... bằng tay thay vì dùng dụng cụ như thìa, dao, xẻng... để chơi. Tuy vậy, các cô
giáo chúng tôi thì luôn chấp nhận những phiền toái đó để khuyến khích, tạo cơ hội
cho trẻ hoạt động, vì chúng tôi hiểu rằng, nó thực sự cần thiết cho sự phát triển của
trẻ và nhất là phát triến ngôn ngữ.
Ví dụ: Cho trẻ quan sát cây xanh
21/30
Tôi chọn được vị trí để trẻ quan sát tổng thể cây xanh, chuẩn bị hệ thống câu
hỏi như:
+ Đây là cây gì? (Ngay lúc này đây trẻ đã được được quan sát, trải nghiệm
thực tế nên trẻ sẽ trả lời được: Cây quất ), tôi cho nhiều trẻ trả lời hoặc đồng thanh
từ mới này
+ Cây quất gồm có những bộ phận nào? ( rễ, thân, cành, lá)
+ Rễ ở đâu? Các con có thấy được phần rễ không? ( rễ bám sâu vào lòng đất)
+ Lá quất như thế nào? ( lá quất nhỏ)
+ Ích lợi của cây quất? ( cho ta quả, vẻ đẹp thiên nhiên)
Vận động đi ziczac, giẫm lên bàn chân trên sân trường.
22/30
Quan sát cây sen cạn
Sau thoạt động dạo chơi ngoài trời về, cô và trẻ cùng đàm thoại về nội dung
dạo chơi nhằm củng cố kiến thức thu được trong buổi dạo chơi tham quan, củng cố
và tích cực hóa vốn từ cho trẻ, cô thường xuyên sửa sai câu nói của trẻ ở mọi lúc
mọi nơi để giúp trẻ có nguồn vốn từ phong phú và đa dạng.
3.5 Biện pháp 5: Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động tham quan dã ngoại
Hoạt động tham quan dã ngoại, trẻ được trực tiếp quan sát các sự vật, hiện
tượng phong phú trong cuộc sống, mục đích của dạo chơi tham quan là mở rộng
tầm hiểu biết của trẻ, trên cơ sở đó cung cấp, củng cố một số lượng lớn vốn từ cho
trẻ. Để dạo chơi, tham quan đạt hiệu quả, tôi chuẩn bị tốt nội dung cho trẻ quan sát,
những từ, câu cần dạy trẻ; những câu hỏi yêu cầu trẻ trả lời, những phương pháp,
biện pháp cần tích cực hóa ngôn ngữ cho trẻ.
Năm nay, trường tôi tổ chức cho trẻ đi thăm quan dã ngoại tại trang trại Vạn
An. Khi tôi thông báo kế hoạch đi tham quan của nhà trường trẻ lớp tôi rất thích. Tôi
đặt ra những câu hỏi đơn giản để trẻ tự tin trả lời cô:
+ Lần này chúng mình được đi ô tô đấy!
+ Các con có say xe không?
23/30
+ Con được đi trang trại này bao giờ chưa?
+ Đi ô tô cậu không được thò đầu, thò tay ra ngoài đâu!
+ Cô kể chuyện “Một chuyến tham quan” cho trẻ nghe.Đàm thoại với trẻ.
Trẻ tham gia Khu trải nghiệm Vạn An
Buổi ngoại khóa nhà trường tổ chức là vào cuối năm. Sau một năm học tôi
thực sự thấy trẻ lớp tôi đã “lớn” hơn rất nhiều cả về thể chất lẫn tinh thần. Trẻ biết
trao đổi với nhau về một vấn đề, biết chia sẻ kinh nghiệm và hiểu biết với nhau, biết
phải làm những gì để chuẩn bị cho chuyến đi và biết những quy tắc mà mình cần thực
hiện cho phù hợp với chuyến đi đó.
Khi đi tôi hướng dẫn trẻ ngồi ngay ngắn trên xe trẻ chào và cảm ơn bác lái
xe khi xuống xe . Khi được phát bánh mỳ và sữa tôi nhận thấy không một trẻ nào tùy
tiện vứt rác lung tung cho đến khi cô đi thu rác. .
Trẻ rất phấn khởi vì được cùng nhau giao lưu với bên ngoài phạm vi trường
mầm non. Trên đường đi trẻ biết đi theo hàng lối và đi sát lề đường bên phải để bảo
vệ an toàn cho bản thân, biết chào hỏi mọi người trẻ gặp. Được đi nhiều lần trẻ trở
nên mạnh dạn, tự tin hơn.
Qua các buổi tham quan, trẻ được luyện kỹ năng giao tiếp xã hội, chào hỏi lễ
phép, được rèn khả năng quan sát nhận biết các sự vật hiện tượng ở trên đường đi
24/30
và ở nơi mà trẻ đến tham quan. Qua đó kiến thức mà trẻ thu được về chủ đề sẽ
được mở rộng và khắc sâu hơn.
3.6 Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Như chúng ta đã thấy, môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà
trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữ gia đình và nhà trường là một biện pháp không
thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quyết định trong việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ. Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh thông qua biểu bảng nêu
lên nội dung về chủ điểm, chương trình học của trẻ. Qua đó, phụ huynh thấy được
ngôn ngữ của trẻ phát triển như thế nào và có biện pháp kích thích ngôn ngữ cho trẻ
tại gia đình.
Ví dụ: Cô trao đổi với phụ huynh những câu truyện sáng tạo trẻ đã kể, yêu cầu phụ
huynh về nhà cho trẻ nghe và kể lại câu chuyện đó hoặc kích thích cho trẻ kể câu
chuyện khác. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách ophong phú và đa
dạng.
Tôi mong muốn phụ huynh hiểu rõ tầm quan trọng của việc phát triển ngôn
ngữ cho trẻ 24- 36 tháng tuổi, từ đó tạo sự thống nhất giữa nhà trường, giáo viên và
phụ huynh trong việc rèn trẻ
- Làm bản tin về chương trình dạy theo chủ đề trong tuần để phụ huynh nắm
bắt và phối hợp với giáo viên rèn thêm lúc ở nhà
- Vận động phụ huynh hỗ trợ nguyên vật liệu: lịch cũ, chai nhựa, vải vụn,... để
làm đồ dùng đồ chơi, trang trí và tạo môi trường lớp học hợp lý sẽ tạo cho trẻ
không gian hoạt động tích cực, giúp trẻ khắc sâu kiến thức đã học
- Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình hoạt động của trẻ trên lớp
qua đó phụ huynh nắm bắt được chương trình chăm sóc giáo dục hiện hành. Cho
phụ huynh biết được, ở độ tuổi này là giai đoạn phát triển lời nói cao nhất của trẻ ở
lứa tuổi Mầm non, phụ huynh hãy dành thời gian thường xuyên trò chuyện cùng
trẻ, cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật, hiện tượng xung quanh, tạo mọi
cơ hội, tình huống để trẻ được nói, và chú ý sửa sai cho trẻ kịp thời, không được
25/30