Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Hướng dẫn học sinh lớp Một viết đúng chính tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.38 KB, 23 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HƯỚNG DẪN
HỌC SINH LỚP 1 VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ

Người thực hiện:
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

BỈM SƠN NĂM


MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài:...............................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu:........................................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu:.......................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................................3
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN.......................................................................3
1. Cơ sở lí luận:.....................................................................................................3
2. Thực trạng:........................................................................................................3
3. Các giải pháp tổ chức thực hiện........................................................................4
3.1. Chuẩn bị tốt cho học sinh những kiến thức cơ bản về âm, vần, nét, chữ:................4
3.2. Dạy đúng kiểu bài chính tả.............................................................................8
3.3. Dạy chính tả gắn với khắc phục những ảnh hưởng do phương ngữ..................14


3.4. Tăng cường cho học sinh luyện tập thực hành.............................................15
3.5. Giáo viên cần chấm, chữa bài cho học sinh thường xuyên và chu đáo có
trách nhiệm..........................................................................................................17
3.6. Tạo hứng thú cho học sinh học tốt phân môn chính tả bằng cách khuyến
khích học sinh......................................................................................................18
4. Hiệu quả của sáng kiến:...................................................................................18
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................19
1. Kết luận:..........................................................................................................19
2. Kiến nghị…………………………………………………………… ………18

0


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Ở tiểu học, chính tả là một phân mơn có vị trí đặc biệt quan trọng nhằm
thực hiện tiếng mẹ đẻ cho học sinh, trong đó có năng lực chữ viết. Dạy tốt chính
tả cho học sinh tiểu học là góp phần rèn luyện kĩ năng viết chính tả và kĩ năng
nghe. Đó là kỹ năng viết đúng hơn. Hơn nữa, khi học sinh viết đúng, viết chính
xác thì mới có điều kiện học tốt các môn học khác và trên cơ sở đó mà rèn luyện
kỹ năng sử dụng Tiếng Việt có hiệu quả trong suy nghĩ và giáo tiếp đặc biệt là
giao tiếp bằng “ngôn ngữ viết”. Nếu viết sai lỗi chính tả thì dẫn đến người đọc
khơng hiểu được vấn đề người viết muốn trình bày, thậm trí cịn hiểu sai dụng ý
của người viết. Mặt khác, một bài và cũng thể hiện được trình độ văn hố về mặt
ngơn ngữ của người viết. Ngồi ra, chính tả cịn góp phần quan trọng vào việc
rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như: Tính cẩn thận, tính kỷ
luật và khiếu thẩm mĩ. Đúng như Bác Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng
là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết
đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỉ luật, lịng tự trọng
đối với mình cũng như đối với thầy và bạn bè đọc bài, vở của mình”. Chính vì

vậy việc nghiên cứu biện pháp để dạy tốt phân môn chính tả là một việc làm hết
sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm góp phần vào việc thực hiện mục
tiêu của mơn học Tiếng Việt nói riêng và mục tiêu giáo dục nói chung.
Muốn đọc thơng, viết thạo trẻ em phải được học chính tả. Chính tả là phân
mơn có tính chất cơng cụ. Nó có vị trí quan trọng trong giai đoạn học đầu tiên
của trẻ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để học sinh đọc, viết chuẩn Tiếng Việt và
chuẩn hóa chính tả. Thơng thường ngun lí cơ bản phải có chuẩn chính âm rồi
mới chuẩn chính tả. Con đường phát triển tự nhiên có tính bản năng là phát âm
đúng sẽ viết đúng. Để học sinh viết đúng chính tả điều quan trọng là giáo viên
phải tìm ra phương pháp dạy học tích cực cho giờ Chính tả nhẹ nhàng và đạt
hiệu quả.
Trong thực tế học sinh mắc lỗi chính tả rất nhiều. Có những học sinh viết
hơn 6 lỗi ở một bài chính tả khoảng 30 chữ. Khi chấm bài, tôi không thể hiểu
các em viết gì vì bài mắc quá nhiều lỗi chính tả. Điều này ảnh hưởng tới kết quả
học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng như môn học khác, hạn chế khả năng
giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở nên rụt rè nhút nhát. Vì thế tơi thực sự quan
tâm đến vấn đề dạy phân môn chính tả cho học sinh như thế nào để đạt được kết
quả cao. Từ đó tơi đã đúc rút được một số kinh nghiệm và đã mạnh dạn áp dụng
vào năm học 2017 - 2018 để dạy cho học sinh lớp mình phụ trách. Kết quả thu
được khá khả quan chính vì vậy tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiệm: "Hướng
dẫn học sinh lớp Một viết đúng chính tả". Nhằm mục đích nâng cao chất lượng
dạy phân môn chính tả lớp 1, giúp cho học sinh nói, viết đúng chính tả. Góp
phần vào việc giữ gìn sự trong sáng cho ngơn ngữ dân tộc. Qua đó giúp các em
mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp, nhằm mục tiêu đào tạo những chủ nhân
tương lai năng động sáng tạo phù hợp với su thế phát triển hiện nay.
1


2. Mục đích nghiên cứu:
+ Điều tra lỗi chính tả cơ bản, thường hay mắc của học sinh, tìm ra

nguyên ngân và cách khắc phục lỗi chính tả cho học sinh.
+ Vận dụng một số nguyên tắc dạy học chính tả có ý thức, nhằm nâng cao
kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Việc dạy và học chính tả của học sinh lớp 1E Trường Tiểu học Ngọc Trạo
4. Phương pháp nghiên cứu:
Thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này tôi sử dụng phối hợp các phương
pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp điều tra.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
1. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết phương pháp giảng dạy của giáo viên có tác động
ảnh hưởng lớn đến chất lượng học của học sinh nói chung và khả năng sử dụng
kĩ năng chuẩn của học sinh trong viết đúng chính tả nói riêng. Thơng qua việc
dạy Tiếng Việt góp phần rèn luyện thao tác tư duy. Phân mơn chính tả ở chương
trình tiểu học có hai kiểu bài là chính tả đoạn bài và chính tả âm vần. Nội dung
các bài chính tả âm vần là luyện viết đúng chữ ghi tiếng có âm, vần, thanh dễ
viết sai chính tả. Thời gian dành cho bài tập chính tả âm chỉ chiếm một phần so
với chính tả đoạn bài song việc rèn kĩ năng qua bài tập đó có ý nghĩa rất lớn đối
với học sinh. Qua các bài tập chính tả âm, vần các em được rèn luyện để tránh
việc viết sai chính tả các chữ ghi tiếng có âm, vần, thanh dễ lẫn nhằm đạt mục
tiêu mơn học. Vì thế phân mơn Tiếng Việt có vị trí đặc biệt trong chương trình
Tiểu học. Nó đảm nhiệm việc vận dụng và phát triển cho học sinh kĩ năng cơ
bản cho tư duy ngôn ngữ, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh Tiểu
học đồng thời làm cơ sở, nền móng cho mọi sự phát triển và trở thành nhiệm vụ
cấp thiết của mỗi người đi học. Biết sử dụng Tiếng Việt con người đã nhân khả
năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây họ biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận
thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội.

2. Thực trạng:
- Trong thực tế giảng dạy tôi nhận thấy học sinh khi viết hay mắc lỗi. Từ
thực tế đó tơi thiết nghĩ muốn cho học sinh viết đúng chính tả và đẹp trước hết
người giáo viên phải tìm hiểu rõ tình trạng chữ viết của học sinh lớp mình như
thế nào học sinh yếu ở mức độ nào, mức độ yếu của học sinh ra sao?
Tôi nhận thấy các em viết chính tả còn hay mắc một số lỗi sau: một số
học sinh viết chữ chưa đúng mẫu các chữ cái để ghi âm, vần, tiếng, không đúng
cỡ chữ (độ cao, rộng; khoảng cách giữa các con chữ và giữa các chữ thường quá
hẹp hoặc quá rộng) ; ghi dấu thanh không đúng vị trí.


Ví dụ:
Học sinh thường viết sai mẫu chữ, nhất là những chữ dễ lẫn như n với u, ô
với â, s với r, tr với th, k với h.
Dấu thanh ghi khơng đúng vị trí như: thừơng, phựơng, ngịai, qủa,...
- Một số học sinh chưa nắm chắc luật chính tả nên còn viết sai chính tả.
- Phần lớn học sinh viết chữ chưa đẹp (chưa có tính thẩm mỹ) các nét chữ,
con chữ chưa đều, sự kết hợp các con chữ chưa hài hoà, mềm mại, chữ viết
nghiêng ngửa (lúc bên phải, lúc bên trái) một cách tuỳ tiện.
- Một số học sinh chưa biết cách trình bày một bài viết vừa đảm bảo tính
khoa học vừa thể hiện tính thẩm mỹ. Chưa biết trình bày một bài văn xi khác
với bài thơ, lục bát khác với thơ tự do,...
Nguyên nhân chủ quan đều xuất phát từ việc học sinh chưa nắm vững quy
tắc chính tả, nguyên tắc đánh dấu thanh, chưa luyện tập thực hành nhiều để tự
chiếm lĩnh tri thức hình thành kỹ năng, kỹ xảo khi viết chính tả. Bên cạnh đó các
em cịn chịu ảnh hưởng của nguyên nhân khách quan như: ảnh hưởng của
phương ngữ địa phương, giọng đọc của giáo viên.....Nhất là đối với học sinh lớp
Một buổi đầu tiên các em cắp sách đến trường, các em được ví như một trang
giấy trắng, giáo viên dạy như thế nào thì các em hình thành như thế đó. Chính
vì vậy việc hình thành kỹ năng, kỹ xảo,tính cẩn thận khi viết đúng chính tả là

một vấn đề rất cần thiết.
* Kết quả, hiệu quả của thưc trạng trên
Qua thực tế khảo sát chất lượng lớp mình phụ trách, tơi nhận được kết
quả như sau:
Đầu năm
Kết quả
Số lượng
%
Số học sinh viết đúng chính tả
6
15.78
Số học sinh viết sai 1 - 3 lỗi
8
21.05
Số học sinh viết sai 4 - 6 lỗi
9
23.68
Số học sinh viết sai nhiều, viết tuỳ
15
39.49
tiện,chưa có ý thức viết đúng
Từ thực tế này cho thấy việc nâng cao chất lượng viết chính tả cho học
sinh là hết sức cần thiết. Chính vì vậy tơi quyết tâm tìm ra biện pháp hữu hiệu để
hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả.
3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi nhận thấy sự cần thiết và cấp bách phải
giúp các em có khả năng viết đúng chính tả, nhằm nâng cao chất lượng môn
Tiếng Việt. Bằng tất cả nhiệt huyết và trách nhiệm, tơi đã tìm hiểu và mạnh dạn
đưa ra các giải pháp sau:
3.1. Chuẩn bị tốt cho học sinh những kiến thức cơ bản về âm, vần, nét, chữ:

Để giúp học sinh lớp 1 viết đúng chính tả đúng chuẩn, biết sử dụng các
quy tắc chính tả đúng chỗ, đúng lúc…Ngay từ tuần học thứ nhất đến tuần học
thứ sáu cần phải nỗ lực tập trung dạy cho tất cả học sinh trong lớp đều phải viết


được, viết đúng quy trình, độ cao, độ rộng các chữ ghi âm và các dấu thanh. Học
âm, chữ, tiếng nào học sinh viết( đọc) được thành thạo chắc chắn các âm, chữ,
tiếng đó.
Trong sáu tuần đầu rèn cho các em nghe viết trong khâu kiểm tra bài cũ
(đọc âm, tiếng, từ). Ngồi ra cứ đến bài ơn tập giáo viên đọc các âm, tiếng, từ
cho học sinh nghe viết vào bảng con. Trong quá trình học sinh viết kết hợp sửa
sai về độ cao, độ rộng con chữ, chữa viết sai lỗi. Đây cũng chính là hình thức
nghe viết ở bước sơ giản nhưng rất quan trọng đối với các em.
Ví dụ: Bài 16: Ôn tập ( SGK- Tiếng Việt 1- Tập 1, Trang 34)
Giáo viên đọc cho học sinh nghe một số âm, từ, tiếng như: n, th, nơ, ni,
na, tở cị. Học sinh nghe và viết bảng con.
Trong các tiết học âm, vần các em chưa nắm vững được các nét cơ bản
của các chữ, các chữ có trong vần, tiếng nên dẫn đến các em cịn viết sai chưa
đúng qui định về cỡ chữ các nét chữ của các con chữ, viết chưa liền mạch trong
các chữ cái, vần, tiếng, từ, câu.
Một số học sinh do phát âm sai lẫn lộn giữa các thanh hỏi và thanh ngã,
thanh ngã và thanh nặng hoặc các vần có nguyên âm đôi
Ví dụ: nhãn vở – nhản vỡ, ngủ - ngụ, kiến – kín
a- Rèn cho học sinh viết đúng mẫu, đúng quy trình các nét chữ, chữ cái:
Nếu cùng một lúc đòi hỏi các em học sinh lớp 1 viết đúng chính tả, viết
đẹp ngay là điều thiếu thực tế, khó có thể thực hiện được. Do vậy cần đặt ra kế
hoạch rèn chữ hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng một cách cụ thể.
* Đối với lớp 1 các con vừa bước vào làm quen với bút, vở do vậy muốn
học sinh viết đúng, đẹp thì giáo viên cần lưu ý cho học sinh luyện viết các nét cơ
bản: trước hết tôi cho học sinh rèn các nét móc xi, móc ngược, móc hai

đầu.Viết đúng và đẹp các nét các nét móc trên thì khi dạy các chữ n, m, i, u, v,r,
t …học sinh có thể viết nhẹ nhàng.
Tiếp theo là dạy các nét khuyết trên, khuyết dưới. Tôi chú trọng dạy cho
học sinh nắm được cách đặt bút, cách lia bút và viết thành thạo các nét khuyết
giúp học sinh học các chữ cái l, b, k, g, y… một cách dễ dàng.
Sau khi học sinh đã viết thành thạo các nét thẳng, nét ngang ngay ngắn, nét
khuyết thành thạo tôi chuyển sang dạy học sinh viết nét cong hở trái, cong hở
phải và nét cong kín. Việc này có cơ hội giúp học sinh học các chữ o, c, x, ô, ơ,
e, ê, g, d, đ, q… một cách nhẹ nhàng. Nhóm chữ này nhiều người cho rằng quá
đơn giản nhưng thực tế dạy cho học sinh lớp 1, tơi thấy khó nhất là chữ o và dễ
sai nhất là chữ o. Tôi cảm thấy khi dạy học sinh viết chữ o cũng rất khó nói cho
học sinh hiểu và viết đúng. Viết chữ o như thế nào? Đặt bút từ đâu? Chiều cao
so với chiều ngang như thế nào, chiếm tỉ lệ bao nhiêu? Để cho học sinh lớp 1 dễ
hiểu, dễ nắm được cách viết chữ o tôi kẻ 1 ô vuông lớn trên bảng chia cạnh trên
và cạnh dưới của ô vuông thành 4 phần bằng nhau, kẻ một đường dọc để tạo
thành hình chữ nhật, đánh dấu ở 4 điểm giữa các cạnh hình chữ nhật dùng phấn
màu chấm chấm(…) thành hình chữ o sau đó giáo viên tơ lên các dấu (…) vừa
viết vừa hướng dẫn học sinh quan sát. Hướng dẫn xong cho học sinh quan sát


chữ o mẫu chữ, sau đó cho học sinh tập viết vào bảng con. Tôi nhắc học sinh cần
phải nhớ điểm đặt bút và điểm dừng bút để sau này viết vần, tiếng nhanh và
đúng. Đặc biệt khi ghép con chữ o với các chữ khác thì ở bên phải trên đầu chữ
o phải tạo ra “nét ảo”để khi viết nhanh và mềm mại.
* Để khắc phục tình trạng học sinh viết không đúng cỡ chữ tôi cho các em
luyện viết theo các nhóm chữ có cùng độ cao: 2,5 đơn vị, 2 đơn vị, 1,5 đơn vị, 1
đơn vị:
Nhóm chữ cao 2,5 đơn vị gồm: b, h, k, l, g, y ; Kết hợp cho học sinh nhận
xét sự giống nhau và khác nhau của nhóm chữ này (Giống nhau cùng độ cao, 4
chữ b, h, k, l đều có nét khuyết trên, 2 chữ g, y có nét khuyết dưới)

Nhóm chữ cao 2 đơn vị gồm: d, đ, p, q.
Chữ cao 1, 5 đơn vị: t
Nhóm chữ cao 1 đơn vị: gồm các chữ cái còn lại.
+ Ví dụ: - Khi viết chữ “ C” các em phải nắm chắc chữ C được viết bằng
một nét cong hở phải, cao 2 ly, bề rộng 1,5 ly (đối với cỡ chữ nhỡ). Khi thu về
cỡ chữ nhỏ các em cũng phải nắm được độ cao, bề rộng của chữ C.
- Khi viết từ “tở cị” tơi hướng dẫn các em phải nắm nghĩa của từ, nắm
được vị trí của các dấu thanh và các chỗ nối giữa các chữ có trong tiếng. Tơi lưu
ý cho học sinh khoảng cách giữa các chữ là một nửa con chữ o, giữa các tiếng
trong từ là một con chữ o, giữa từ này cách từ kia là một tiếng.
Kết thúc sáu tuần đầu các em đã hoàn toàn nắm được độ cao, độ rộng con
chữ, các dấu thanh.
b- Hướng dẫn kĩ thuật viết liền mạch:
Trong đó giáo viên quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh các kĩ thuật
viết chữ như: viết liền mạch (đây là một trong những yêu cầu cơ bản giúp cho
chữ viết được nhanh, đúng và đẹp); kĩ thuật “lia bút”; kĩ thuật “rê bút”.Cụ thể
như sau:
Viết liền mạch: Đây là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc
của nét đứng trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau. Thực hiện được điều này
sẽ tạo cho chữ viết được mềm mại hơn và viết được nhanh hơn. Trong quá trình
hướng dẫn học sinh viết giáo viên cần quan tâm hướng dẫn kĩ thao tác này.
Kĩ thuật “lia bút”: Đây là thao tác mà trong quá trình viết nét bút được
thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết (đầu ngịi bút, phấn ...) khơng được chạm
vào mặt phẳng viết (giấy, bảng ...). Thao tác đưa bút trên không ấy gọi là “lia
bút”. Để đảm bảo viết được nhanh, viết liền mạch tạo cho nét chữ được mềm
mại thìkĩ thuật “lia bút” là kĩ thuật khơng thể thiếu. Khi viết mẫu bản thân giáo
viên cần thể hiện một cách thật cụ thể kĩ thuật này để các em nắm vững thực
hiện một cách nhuần nhuyễn.
Kĩ thuật “rê bút”: Đây là thao tác viết đè lên theo hướng ngược lại với
nét chữ vừa viết. Thao tác này xảy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút,

phấn, ...) “chạy nhẹ” từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của
nét liền sau.
Sau khi rèn dứt điểm các chữ cái tôi hướng dẫn học sinh viết tiếng và từ. Để


giúp học sinh lớp 1 viết nhanh tôi hướng dẫn các em kỹ thuật viết liền mạch:
thông thường viết 1 tiếng nét bút đưa liền mạch từ đầu đến cuối tiếng, sau đó
mới dừng lại ghi dấu chữ và dấu thanh:
Ví dụ: Viết tiếng “bờ”, ta viết âm “b” trước nối liền với âm “o” thêm dấu
chữ ơ và ghi thanh huyền ở trên “ơ” thành tiếng “bờ”
Ví dụ: Bài 29: vần ia. Viết i đứng trước, a đứng liền sau thì được vần ia
c. Luyện phát âm:
Để khắc phục được lỗi chính tả do phát âm sai, trước hết là người giáo
viên luôn luyện phát âm, giọng đọc của mình thật chuẩn để học sinh học phát
âm theo bởi ta đã biết giọng đọc của giáo viên trong giờ tập đọc, giờ chính tả là
rất quan trọng trong việc thành công của tiết dạy
- Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm
cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối với chữ
quốc ngữ là chữ ghi âm; âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy.
- Việc rèn phát âm không chỉ được thực hiện trong tiết Tiếng Việt mà
được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như
Chính tả, Tập đọc, Tốn …
- Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm ( nói ngọng, nói lắp…)
giáo viên lưu ý học sinh chú ý nghe cô phát âm để viết cho đúng. Vì vậy, giáo
viên phải cố gắng phát âm rõ ràng ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học
sinh viết đúng được.
Cụ thể là: Phân biệt cách phát âm các phụ âm đầu ch, tr, s, x dựa trên cách
phân tích cấu tạo ngữ âm để học sinh phân biệt và phát âm đúng.
Ví dụ:
+ ch: Phụ âm mặt lưỡi, ta phát âm bình thường.

+ tr: Phụ âm đầu lưỡi, ta phát âm cong lưỡi
+ s : Phụ âm đầu lưỡi, ta phát âm cong lưỡi
+ x: Phụ âm đầu lưỡi - răng, ta phát âm bình thường.
+ Khi đọc gặp dấu thanh hỏi: Hạ thấp giọng, hơi nhấn giọng khi đọc gặp
dấu thanh ngã: Nhẹ giọng và cao giọng về cuối.
c. Hướng dẫn học sinh đánh dấu thanh đúng vị trí:
- Ở đầu lớp 1 các em cịn viết dấu thanh sai quy trình, dấu thường quá to nên
trong bài dạy về các dấu thanh tôi thường cho học sinh quan sát rất kĩ cấu tạo,
cách viết, và viết mẫu cho học sinh quan sát sau đó cho học sinh viết bảng và viết
vào vở. Với những học sinh viết dấu quá to tôi cho học sinh quan sát các chữ viết
mẫu phân tích và trong bài chấm tôi sửa lỗi thật cụ thể, dành thời gian cho các em
luyện lại tránh sai sót ở những lần viết sau.
- Khi dạy Tiếng Việt ta cần lưu ý dạy các em đáng dấu thanh theo nguyên
tắc khoa học, tức là ghi dấu thanh vào âm chính của tiếng. (Dấu huyền , sắc, hỏi,
ngã đặt trên các chữ ghi âm chính, dấu nặng đặt dưới chữ cái ghi âm chính).
Thông thường các em đánh dấu thanh đúng, ít sai sót. Tuy vậy khi gặp các tiếng
có các vần gồm 2, 3 chữ ghi nguyên âm đi liền nhau như: oa, oe, uê, uy, ia, ua, a, ao, eo, au, âu, ui. oeo… thì khơng phải em nào cũng dễ dàng xác định được


đúng vị trí đánh dấu thanh. Để hiểu nguyên tắc khoa học, có tính đến nguyên tắc
thẩm mĩ, nói chung là phải diễn giải dài và không phải là dễ, vì thế tơi đa ra một
Ví dụ: Nên đánh dấu thanh ở các trường hợp sau, cách nào là chính xác:
Miá hay mía
Khoẻ hay khỏe
Đùa hay đ
Tơi hướng dẫn cho các em thêm một phụ âm cuối (như n, m, nh, ng, c, t…)
tạo thành tiếng mới mà đọc được thì dấu thanh được ghi vào chữ ghi nguyên âm
sau cùng của âm tiết.
Ví dụ: Khoẻ +n = khoẻn (đọc được) nên viết đúng là khoẻ
Ngược lại, khi thêm bất kỳ phụ âm cuối nào vào sau tiếng mà tạo thành

một tiếng mới mà khơng đọc được thì dấu thanh sẽ đánh vào chữ ghi nguyên
âm thứ hai tính từ phía sau âm tiết:
Ví dụ: Mía+ n = mían (không đọc được) nên viết là mía
Đùa +n = đùan (không đọc được) nên viết là đùa
Chữa lỗi viết thiếu nét, thiếu dấu. Một trong những nguyên nhân dẫn đến
việc viết thiếu nét, thiếu dấu là do các em không cẩn thận, viết cẩu thả hoặc viết
chưa theo quy trình. Đối với những học sinh này tôi thường xuyên nhắc nhở các
em viết cẩn thận hơn đồng thời theo dõi sát sao xem em nào viết chưa đúng quy
trình, tơi hướng dẫn lại quy trình viết cho các em.
Các con chữ được viết liền nét với nhau và chỉ còn chữ cuối cùng của
mỗi chữ viết. Như vậy các em sẽ rất nhanh hơn và không bị thiếu nét như : cười,
xn
d. Phân tích, so sánh:
- Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo
tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau
để học sinh ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “muống” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “muốn”,
giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- Muống = M + uông + thanh sắc
- Muốn = M + uôn + thanh sắc.
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “muống” có âm cuối là “ng”, tiếng
“muốn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không
viết sai.
3.2. Dạy đúng kiểu bài chính tả
Phân môn chính tả ở lớp 1 được viết từ tuần thứ 25 mỗi tuần có 02 bài
chính tả hình thức chủ yếu là tập chép và các tuần cuối năm có thêm hình thức
chính tả nghe viết để chuẩn bị cho các em học lên lớp 2 và dạy lồng ghép trong
hệ thống bài tập. Do vậychúng ta cần dạy hai kiểu bài chính tả sau:
*Chính tả tập chép (gắn với việc viết mẫu của giáo viên)
*Chính tả nghe viết (gắn với việc đọc mẫu của giáo viên)

a. Dạy chính tả tập chép:
Kiểu bài chính tả tập chép yêu cầu đặt ra là học sinh phải đọc từng từ,


cụm từ do giáo viên viết lên bảng và học sinh nhìn chép vào vở của mình theo
đúng nội dung cũng như chữ mẫu. Chính vì vậy khi giáo viên viết bài trên bảng
cho học sinh nhìn chép, giáo viên phải viết đúng kiểu chữ theo QĐ 31. Chữ viết
phải rõ ràng, ngay ngắn, đúng mẫu và đẹp. Chữ viết của giáo viên là hình ảnh
trực quan sinh động nhất để học sinh soi ngắm và bắt trước.
Chính vì thế trong giờ học chính tả tập chép, việc viết bài trên bảng để
học sinh nhìn chép là rất quan trọng.
b. Dạy chính tả nghe viết:
Kiểu bài chính tả nghe viết yêu cầu đặt ra là học sinh phải nghe từng từ do
giáo viên đọc, vừa tái hiện lại hình thức chữ viết của các cụm từ, câu. Tức là học
sinh phải biết phối hợp hoạt động tư duy:
Nghe
Nhớ
Viết.
Để chuyển hoá âm thanh thành ngôn ngữ viết. Để giờ dạy đạt kết quả tốt
thì việc đọc mẫu của giáo viên phải chuẩn xác, phải đúng với chính âm điều này
có nghĩa là giáo viên cần đọc thong thả, rõ ràng, ngắt hơị hợp lý sau mỗi cụm từ,
mỗi câu, nên nhắc lại để học sinh dễ theo dõi, tốc độ đọc vừa phải theo quy
định. Trước khi cho học sinh viết bài giáo viên cần đọc mẫu một lần nhằm giúp
học sinh có cái nhìn bao qt, có ấn tượng chung về nội dung bài viết, làm cơ sở
cho việc viết từng từ, cụm từ, câu trong văn bản. Trong quá trình viết giáo viên
nêu một số câu hỏi: Chữ đầu câu phải như thế nào? Chấm xuống dòng phải như
thế nào?. Cứ từng bước giáo viên hướng dẫn các em nghe và viết bài. Tiếp đó
giáo viên đọc mẫu lần 2 cho học sinh viết và cuối cùng giáo viên đọc mẫu lần 3
cho học sinh kiểm tra, rà soát bài viết của mình.
Như vậy trong giờ dạy chính tả, việc đọc mẫu chuẩn mực của giáo viên là

hết sức cần thiết.
c. Rèn học sinh viết chính tả một cách có ý thức
* Dạy chính tả với việc nắm nghĩa của từ
- Chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học nhưng trong thực tế muốn
viết đúng chính tả việc nắm nghĩa của từ là rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là
một trong những cơ sở giúp người học viết đúng chính tả.
- Biện pháp để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa từ. Việc
giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Tiếng việt, Tập đọc nhưng nó
cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết chính tả, khi mà học sinh từ khó dựa vào
phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng.
- Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học
sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đó hiểu
nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật,
mơ hình, tranh ảnh
Ví dụ: Phân biệt chiêng hoặc chiên.
+ Giải nghĩa từ chiêng: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh, ảnh
cái chiêng hoặc miêu tả đặc điểm ( Chiêng hoặc là nhạc cụ bằng đồng, hình trịn,
đánh bằng dùi, âm thanh vang dội).
+ Giải nghĩa từ chiên: Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ chiên


hoặc giải thích bằng định nghĩa ( Chiên là làm chín thức ăn bằng cách cho thức
ăn vào chảo dầu, mỡ đun trực tiếp trên bếp lửa ).
- Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể
để giải nghĩa từ.
Ví dụ:
Nghe viết: Ị…ó… o
Nếu giáo viên đọc một từ có hình thức ngữ âm là /za/ thì học sinh có thể
lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này là"da" hay "ra".
Thế nhưng giáo viên đưa ra từ gia đình; da thịt; ra vào; cặp da.....thì việc học

sinh nắm được nghĩa của các từ này thì học sinh mới dễ dàng viết đúng chính tả.
Vì vậy việc dạy chính tả cần gắn với việc nắm nghĩa của từ đó là một đặc
trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt mà khi dạy
chính tả người giáo viên cần phải chú ý
* Dạy chính tả với việc nắm vững các quy tắc chính tả
Trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học, ở phân môn chính tả phần luyện
tập có giới thiệu một số quy tắc chính tả đơn giản. Đó là những quy tắc mà dựa
vào đó các em có thể nắm tương đối dễ dàng chính tả của một số âm nhất định
các quy tắc chính tả được trình bày rất ngắn gọn và dễ nhớ, thế nhưng đối với
học sinh lớp 1 không phải em nào cũng ghi nhớ lâu được. Vì vậy địi hỏi giáo
viên phải cung cấp kiến thức giúp các em nắm chắc một số quy tắc chính tả cơ
bản mà các em còn vướng mắc.
Ở lớp Một, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: Các
âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê
- Học sinh lớp 1 mới làm quen với chữ viết nên khi viết các em cịn mắc lỗi
do khơng nắm chắc quy tắc chính tả. Nhiều em không phân biệt được lúc nào
ghi g- gh; ng- ngh; c-q-k: VD có một số em viết tiếng “nghỉ” lại viết là “ngỉ”;
“quà” viết thành “coà”; “kẻ” viết thành “cẻ”. Do đó tơi phải hướng dẫn các em
nắm vững các quy tắc chính tả sau:
a. Quy tắc viết phụ âm đầu g/gh; ng/ngh
Ví dụ: Tâp chép: Hoa sen
Điền chữ g hay gh?
Tủ …ỗ lim
đường gồ ….ề
con … ẹ.
Qua bài tập rút ra kết luận:
-Viết gh đứng trước i, e, ê
Ví dụ: ghé, ghi chép, ghế, ghẹ…
-Viết g trong các trương hợp cịn lại như; o, ơ, ơ, u, ư, a, ă, â
Ví dụ: ga, gà, gặt, gỡ, gõ, gửi, gù........

b. Quy tắc viết phụ âm ng/ ngh:
Ví dụ: Nghe – viết: Mời vào
Điền chữ: ng hay ngh?
…ôi nhà
…ề nông
…e nhạc
Kết luận:
- Viết ngh khi đứng trước i, e, ê.


Ví dụ: Nghé, nghỉ, nghênh, nghiêng, nghề, nghe...
- Viết ng trong các trường hợp còn lại.
- Phụ âm đầu viết ng thường kết hợp với âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
Ví dụ: Nga, ngắc, ngây, ngô, ngó, ngỡ, ngủ, ngu, ngư, ngơi, ngoan
ngỗn....
c. Quy tắc viết phụ âm c/k/q.
* Chữ cái c luôn luôn đứng trước các vần bắt đầu bằng các chữ cái
nguyên âm : a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
Ví dụ: cu; căn; ca, can, cô, co, cứ,…
* Chữ cái k chỉ đứng trước các vần bắt đầu bằng các chữ cái nguyên âm:
e, ê, i.
Ví dụ: ke; kèm; kèn; kê; kĩ........
* Chữ cái q luôn luôn kết hợp với chữ u thành qu (Đọc là quờ).
Ví dụ: quanh; qua; quýt; quyên.....
* Ngoài ra để các em nhớ lâu những quy tắc chính tả này tơi cịn tở chức
cho các em chơi trị chơi “ Ai nhanh – Ai đúng”
Nội dung là làm các bài tập dạng:
Nối:
c
im

k

ao
ao
eo

Hoặc cho các học sinh làm các bài tập dạng điền vào chỗ chấm:
Ví dụ: ng hay ngh
Lắng …..e
Bãi ……..ô

….ỉ hè
…..à voi

d. Quy tắc viết i/y.
* Viết i khi i đứng sau phụ âm đầu.
Ví dụ: đi thi; lí do; địa lí.....
* Viết y khi y đứng một mình.
Ví dụ: y tá, ý kiến, y tế.....(trừ trường hợp ầm ĩ; ì ạch).
* Khi y đứng đầu tiếng như : yêu quý, âu yếm, chim yến, .....
* Khi y đứng sau âm đệm u trong vần:
Ví dụ: quyền quý, tuyết, duyên dáng, quyển vở.
- Chữ "Quyển" khi đánh vần qu + uyên + ?. Và khi viết phải bỏ đi chữ u.
g. Quy tắc viết phụ âm đầu r/d/gi.
- Phụ âm đầu viết d thường đứng trước những vần viết oa, uê, âu, uy.
Ví dụ: doạ nạt, doanh trại, duy trì, duyệt binh, con dâu....
- Một số từ láy bắt trước tiếng động thường có phụ âm đầu viết r.
Ví du: Mưa rơi rả rích.; Tằm ăn rào rào.; Nước chảy róc rách.; Ve kêu ra
rả; Tiếng đàn réo rắt.; Bước chân rầm rập.; Sóng vỗ rì rào.; Cười nói rơm rả...



* Ngồi ra giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật
khác như:
- Để phân biệt âm đầu tr/ch:
Nghe viết: Câu đố
Điền chữ: tr hay ch ?
Chị Mái …ăm một đàn con
…ân bới, miệng gọi mắt trịn ngó …ơng
Cơ mơ đẻ một … ứng hồng
Cục ta cục tác sân …ong ngõ ngoài.
Qua bài tập ta có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo để phân biệt
tr/ ch như sau:
- Một số từ chỉ người trong quan hệ gia đình, họ hàng thường có phụ âm
đầu viết ch.
Ví dụ: cha, chú chị, chồng, cháu, chắt, chút, chít,......
Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch.
Ví dụ: + Tên đồ vật: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum,
chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé,…..
+ Tên con vật: chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào,
chiền chiện, chèo bẻo, chìa vơi.
- Một số từ chỉ vị trí thường có phụ âm đầu viết tr.
Ví dụ: trên, trước, trong, trái, trán....
- Các từ Hán Việt mà không biết hay nhưng đi với dấu nặng hay dấu
huyền thì đó là tr.
+ Ví dụ: trụ sở, trịnh trọng,trình độ....
* Để phân biệt âm đầu s/x: đa số các từ chỉ tên cây hoặc tên con vật đều
bắt đầu bằng s: Sả, Si, Sồi, Sứ, Sung, Sắn, Sim, Sao, Su su, Sa nhân, Sơn trà,
Sặt, Sậy, Sấu, Sến, Săng lẻ, Sầu riêng , So đũa, .... Sam, Sán, Sáo, Sâu, Sen, Sếu,
Sị, Sóc, Sói, Sứa, Sáo sậu, Săn sắt, Sư tử, Sơn dương, San hô....
* Để khắc phục lỗi chính tả về vần khó như : i, ui, ươu, ưu, iêu, iu

eo, oe có trong các bài tập chính tả phân biệt: iu, iêu, êu, ưu, ươu .
Sau khi học sinh tìm những tiếng trong bài viết có vấn viết iu, iêu, ưu,
ươu thì tơi cho học sinh nắm vững lại cấu tạo của vần qua phân tích cấu tạo âm
tiết của vần, phát âm để đối chiếu vào các cặp vần hay lẫn lội.
Ví dụ:
ươu  ươ-u
ưu  ư-u
iu  i-u
iêu  iê-u
- Khi phân tích vần để so sánh, phân biệt, tơi cho học sinh tìm từ mang
vần cần luyện tập theo từng cặp để đối chiếu.
Chằng hạn: Tìm từ trong đó có tiếng chứa vần ươu, ưu: Con hươu/nghỉ
hưu.
Hoặc có thể cho học sinh tìm từ trái nghĩa với từ chữa vần cần phân biệt;
VD: xuôi
ngược; đầu
đuôi và cho học sinh nắm 1 số quy tắc sau:


+ Nguyên âm “iê” có thể viết bằng 3 cách:
- Viết là “ya” nếu có âm đệm và khơng có âm cuối
VD: Khuya..
- Viết là “yê” nếu có âm cuối mà khơng có âm đầu.
VD: Chun chính, tuyết rơi, quyển sách…
- Viết là “iê” thì phải có âm cuối và âm đầu.
VD: Bạn Liên, siêu thị, thiếu niên…
+ Nguyên âm đơi ươ:
- Khơng có âm cuối viết là ưa. VD: Thưa thớt, con lừa, ngựa…
- Có âm cuối viết là ươ. VD: Lườn bụng, xương sườn…
+ Nguyên âm đôi uơ:

- Khơng có âm cuối viết là ua. VD: Khua, lùa…
- Có âm cuối viết là uơ. VD: Khn khở, ln luôn…
- Gặp trường hợp học sinh viết sức khoẻ thành sức khẻo, tôi cho học sinh
ôn lại quy tắc viết:
+ Khi đứng trước các nguyên âm rộng (a, ă) hoặc hơi rộng (e) âm đệm
được viết là “o”. VD: oa, oăn, oe, như vậy các em phải viết là: sức khoẻ.
+ Đứng trước y, ê, ơ, â âm đệm viết là “u”. VD: Hoa huệ, huơ vòi, mùa
xuân, tiền tuyến.
* Luật bổng - trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh ( hay dấu ) của
2 yếu tố ở cùng một hệ bổng (ngang/ sắc/ hỏi) hoặc trầm (huyền/ ngã/ nặng).
để nhớ được 2 nhóm này giáo viên chỉ cần dậy cho học sinh thuộc được 2 câu
thơ:
Em Huyền mang nặng, ngã đau
Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh
huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước
mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (Hoặc ngược
lại).
Ví dụ: Bổng.
+ Ngang + hỏi: nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ…
+ Sắc + hỏi: nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ…
+ Hỏi + hỏi: lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ…
Ví dụ: Trầm:
+ Huyền + ngã: sẵn sàng, lững lờ, vồn vã.
+ Nặng + ngã: nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…
+ Ngã + ngã: dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…
* Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bập bênh, không vững chắc: gập
ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, chếnh choáng, chệch choạch,
lênh đênh, bấp bênh, cơng kênh

Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng
đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, ùng oàng, quang quác, ắng


ẳng, ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng,
chập cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng
ùng, đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thình, thình thịch, rập rình,
xập xình, huỳnh huỵch.....
Vần uyu chỉ xuất hiện trong cỏc từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu,
khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong cỏc từ ngoằn ngoèo, khoèo chân
* Quy tắc viết hoa, danh từ riêng chỉ tên người, tên địa danh:
Danh từ riêng chỉ tên người, tên địa danh thường được viết hoa chữ cái
đầu mỗi tiếng. Ngoài ra các chữ cái của tiếng đầu câu; đầu đoạn, chữ cái đầu của
tên nước ngồi cũng được viết hoa.
Tóm lại: Dạy chính tả tức là giúp học sinh nắm vững các quy tắc chính tả
để từ đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo chính tả. Nói cách khác là giúp học sinh hình
thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả.
3.3. Dạy chính tả gắn với khắc phục những ảnh hưởng do phương ngữ.
Dạy chính tả theo khu vực nghĩa là nội dung giảng dạy về chính tả phải
sát với phương ngữ địa phương nói cách khác phải xuất phát từ tình hình thực tế
mắc lỗi chính tả của học sinh ở từng khu vực, từng miền để hình thành nội dung
giảng dạy. Phải xác định được những trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh ở
mỗi khu vực, từng địa phương, vì như ta biết cách phát âm của mỗi phương ngữ
địa phương có ảnh hưởng trực tiếp đến việc viết chính tả của học sinh.
Ở địa phương ta thuộc phương ngữ bắc bộ nên chủ yếu là chưa phát âm
phân biệt rõ các cặp âm đầu: tr/ch; d/gi/r; s/x; ng/ngh; g/gh; c/k, l/n...và một số
khuôn vần như: ưu/iu; ươu/iêu; yêu/iêu; an/anh, ong/ oong... căn cứ vào đặc
điểm phương ngữ trên người giáo viên khi dạy cần dạy cho học sinh phân biệt rõ
từng âm vần, dấu thanh và phân biệt thanh hỏi, ngã.
Ví dụ:

Bài chính tả: (Nghe - Viết); Câu đố.
Bài tập:
a. Điền chữ tr hay ch ?
thi ….ạy
…..anh bóng
b. Điền chữ v hay d hay gi ?
…ỏ trứng
…ỏ cá
cặp …a
Để việc dạy chính tả theo khu vực đạt kết quả tốt trước khi dạy người giáo
viên cần tiến hành điều tra cơ bản để nắm lỗi chính tả phở biến của học sinh từ
đó lựa chọn phương pháp nội dung giảng dạy cho thích hợp.
Trong lớp tôi phụ trách sau khi điều tra tôi thấy:
+ Số học sinh mắc lỗi tr/ch :
17 học sinh.
+ Số học sinh mắc lỗi x/s :
18 học sinh.
+ Số học sinh mắc lỗi d/r/gi:
19 học sinh.
+ Số học sinh mắc lỗi ng/ngh;
15 học sinh.
+ Số học sinh mắc lỗi c/k:
10 học sinh.
+ Số học sinh mắc lỗi thanh ? và thanh ~ : 12 học sinh.
+ Số học sinh mắc lỗi về các vần có ngun âm đơi, vần khó do các em


ngọng, nắm vần chưa chắc chắn còn nhầm lẫn.
Bên cạnh đó việc dạy chính tả theo khu vực địi hỏi người giáo viên cần
tăng cường sự linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy cụ thể trong việc xây dựng nội

dung bài sao cho sát với đối tượng học sinh lớp mình. Ở một chừng mực nào đó
có thể lược bớt nội dung giảng dạy trong sách giáo khoa nếu thấy không phù
hợp, đồng thời bổ xung những nội dung cần thiết.
3. 4. Tăng cường cho học sinh luyện tập thực hành
a. Hướng dẫn học sinh trình bày một bài chính tả:
Đối với các em học sinh lớp Một bây giờ mới được làm quen với phân
môn chính tả, nên các em chưa biết cách trình bày như thế nào cho đúng, cho
đẹp, viết làm sao cho đúng chính tả. Nên người giáo viên phải nhiệt tình hướng
dẫn các em cách trình bày cho đúng về một đoạn văn, một đoạn thơ (Thể thơ 4
chữ; thể thơ lục bát).
Ví dụ: khi viết một bài chính tả ở dạng bài văn tôi hướng dẫn các em cách
trình bày như sau:
+ Khi viết: Thứ…ngày…tháng… năm… các em phải lùi vào một ô so với lề.
+ "Chính tả" Các em lùi vào 4 ơ so với lề, đánh dấu 2 chấm, gạch chân
dưới chữ.
+ " Tập chép" các em lùi sát ra lề gạch chân dưới chữ tập chép: Từ “ tập
chép” lại lùi vào một ô rồi viết tên đề bài.
+ Khi viết đoạn văn phải viết lùi vào một ô chữ đầu của đoạn văn và viết
hoa chữ cái đầu của tiếng đó. Sau mỗi dấu chấm các em phải viết hoa.
+ Tôi cứ từng bước hướng dẫn như thế để các em nắm được cách trình
bày từng bài chính tả.
b. Tăng cường cho học sinh luyện tập thực hành:
Sau mỗi bài chính tả có phần lụn tập giống như các mơn học khác, tính
chất nổi bật của phân môn chính tả là tính thực hành. Bởi lẽ chỉ có thể hình
thành các kỹ xảo chính tả cho học sinh thông qua hoạt động luyện tập thực hành,
do đó các quy tắc chính tả, các đơn vị kiến thức mang tính chất lý thuyết không
được bố trí trong tiết dạy riêng mà dạy lồng ghép trong bài tập.
Phần luyện tập chính tả nhằm kiểm tra năng lực phân tích so sánh của học
sinh đối với những hiện tượng chính tả dễ lẫn. Đặc biệt là đối với phương ngữ
địa phương ta, thì phần luyện tập này thực sự quan trọng. Các bài tập đưa ra để

học sinh tự làm bằng cách cho học sinh quan sát tranh để nhận ra âm, vần, tiếng,
dấu thanh và điền vào chỗ trống, nối từ với hình vẽ nối những từ ngữ đã cho để
tạo thành câu đúng, nhìn tranh cho trước sau đó giáo viên tổ chức chữa bài và
củng cố lại các quy tắc chính tả cho học sinh.
- Thông qua cách tổ chức thực hiện các bài tập chính tả, bồi dưỡng cho
học sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong cơng việc như: Cẩn thận,
chính xác có óc thẩm mỹ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm...
Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học
sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ.
Trong văn cảnh cụ thể sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các


quy tắc chính tả để các em ghi nhớ.
* Bài tập chắc nghiệm:
+Khoanh tròn vào chữ cái trước những chữ viết đúng chính tả:
a. hướng dẩn
b. hướng dẫn
c. giải lụa
d. dải lụa
e. oan uổng
f. oan uổn
* Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S
vào ơ trống trước những chữ viết sai chính tả:
rau muốn
rau muống
chải chuốc
chải chuốt
giặc quần áo
giặt quần áo
* Nối các tiếng ở cốt A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ

viết đúng chính tả:
A
B
bênh
trái
bên
vực
bện
tật
bệnh
tóc
Bài tập chọn lựa:
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
- Cháu bé đang uống ……… (sửa, sữa)
- Học sinh …...........mũ chào thầy giáo. (ngả, ngó).
- Đôi …… này đế rất …….. (giày, dày)
- Sau khi ……. con, chị ấy trông thật …… (xinh, sinh)
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
- Học sinh …. đèn học bài….. đêm khuya. (trong, chong)
- Lan thích nghe kể……….hơn đọc……….. (truyện, chuyện)
- Trời nhiều …….., gió heo ………lại về. (mây, may)
Bài tập điền khuyết:
* Điền vào chỗ trống:
- l/n: lành…. ặn, nao…úng,…anh lảnh
- s/x: chim…ẻ, san…ẻ, …ẻ gỗ. …uất khẩu, năng….uất.
- ươn / ương: bay l…..., b…. chải, bốn ph….. , chán ch……
- iêt/ iêc: đi biền b…....., thấy tiêng t…/.., xanh biêng b…..
Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ gợi
ý từ đồng âm, từ trái nghĩa….

* Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng ươt hoặc ươc có nghĩa như sau:
- Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ:
- Thi không đỗ:
- Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh:
* Tìm các từ chỉ hoạt động:
- Chứa tiếng bắt đầu bằng r:


- Chứa tiếng bắt đầu bằng d:
- Chứa tiếng bắt đầu bằng gi:
- Chứa tiếng có vần ươt:
- Chứa tiếng có vần ươc:
* Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau:
- Bài tập phân biệt:
Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau:
- nồi - lồi
- no - lo
- bàn - bàng
- ngả - ngó
- Bài tập giải câu đố
* Em chọn tr hay ch để điền vào chỗ trống rồi giải câu đố sau:
Mặt….. ịn, mặt lại đỏ gay
Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao
Suốt ngày lơ lửng… ên cao
Đêm về đi ngủ, ….ui vào nơi đâu?
(là gì?)
* Em chọn dấu hỏi hay dấu ngã để đặt trên những chữ in đậm rồi
giải câu đố sau:
Cánh gì cánh chăng biết bay
Chim hay sà xuống nơi đây kiếm mồi

Đôi ngàn vạn giọt mồ hơi
Bát cơm trắng deo, đia xơi thơm bùi.
(là gì?)
3.5. Giáo viên cần chấm, chữa bài cho học sinh thường xuyên và chu
đáo có trách nhiệm.
Đây là một yêu cầu quan trọng trong việc dạy chính tả, việc chấm, chữa
bài chính tả cho học sinh ngồi u cầu về chun mơn còn đòi hỏi cả về lương
tâm và trách nhiệm của mỗi giáo viên. Theo quy định chuyên môn giáo viên
phải chấm ngay một số bài chính tả của học sinh trên lớp (khoảng 1/4 số bài ) để
nắm được thông tin về kết quả bài viết, từ đó nhận xét, uốn nắn kịp thời giúp
học sinh mau tiến bộ. Những bài cịn lại nên thu về nhà chấm tồn bộ hoặc chấm
luân phiên hai tuần một lần vì cha mẹ học sinh thích được thầy cô chấm, chữa
bài để biết được kết quả học tập của con mình. Khi chấm cần sửa lỗi rõ ràng cho
học sinh, với những lỗi sai của học sinh giáo viên không gạch chéo vào bài của
học sinh mà phải sửa lỗi cụ thể, ghi lời nhận xét rõ ràng và đúng mẫu chữ, để
học sinh nhận ra lỗi từ đó học sinh chú tâm sửa chữa. Việc ghi lời nhận xét trong
bài chính tả, trong lớp học cần yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng xác định
trong tiết học.
Qua chấm bài, giáo viên có điều kiện rút ra nhận xét và nêu hướng khắc
phục lỗi chính tả cho cả lớp.
- Sau khi học sinh viết xong, giáo viên giúp học sinh tự kiểm tra và chữa


lỗi trong bài theo một trong hai cách sau:
+ Giáo viên đọc từng câu, có chỉ dẫn cách viết những từ dễ sai chính tả.
+ Học sinh đối chiếu bài viết với bài in trong sách giáo khoa.
- Hàng tháng giáo viên kiểm tra vở và chữ viết của học sinh ít nhất 1 lần /
tháng, để đánh giá, xếp loại.
Như vậy chỉ qua hoạt động đánh giá của giáo viên học sinh có căn cứ
chính tả để rèn luyện, để nâng cao năng lực nói và viết đúng lỗi chính tả.

3.6. Tạo hứng thú cho học sinh học tốt phân môn chính tả bằng cách
khuyến khích học sinh.
a. Hướng dẫn học sinh đọc nhiều, nhớ lâu
Hướng dẫn học sinh mượn sách báo, truyện thiếu nhi trong thư viện để
đọc, giúp các em học tốt hơn và đặc biệt tránh viết sai chính tả. Ở lớp, tôi xây
dựng tủ sách thư viện của lớp, được trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau
theo chủ đề: “tủ sách Bác Hồ”, “tủ sách lịch sử”, “câu đố vui”, “những con vật
đáng yêu”, “hoa trái bốn mùa”, … được thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách,
báo nhi đồng, truyện nhiều kích cỡ, vừa tầm các em, để các em dễ lấy để đọc.
Ngoài ra hằng tuần các em được liên đội phát báo Đội để đọc. Cứ đến giờ sinh
hoạt ngày thứ 6, sinh hoạt 15 phút đầu giờ, lớp tổ chức thi đọc báo Nhi Đồng, thi
viết lại những bài thơ hay lên bảng (thi viết chữ đẹp). Những em ham đọc sách
báo thường chăm học và viết chính tả thường đạt nhiều điểm tốt.
b. Khuyến khích học sinh chép các bài thơ vui để rèn chính tả
Đọc thơ giúp các em nhớ nhanh và nhớ lâu. Ở lớp tôi, hằng tuần các em đều
được cô giáo đọc cho chép bài thơ ngắn có các chữ cần rèn viết đúng chính tả( hoặc
giáo viên khuyên khích học sinh tự sưu tầm các câu thơ, bài thơ hay để viết, nêú câu
thơ có tác dụng rèn kĩ năng viết đúng chính tả thì càng tốt). Mỗi bài thơ,câu thơ do
giáo viên cung cấp sẽ giúp các em luyện viết đúng các âm r, d, gi hoặc s, x….điều
này hỗ trợ rất tốt cho kỹ năng viết đúng chính tả của học sinh.
c. Hướng dẫn học sinh ghi sở tay chính tả
Ngồi ra trong lớp,tơi hướng dẫn mỗi em có một quyến sổ tay chính tả,
mỗi buổi học đến tiết chính tả có quy tắc chính tả cần ghi nhớ. Tơi hướng dẫn
các em chép lại các quy tắc chính tả cần ghi nhớ để các em lưu lại để nhớ lâu.
4. Hiệu quả của sáng kiến:
Sau một thời gian giảng dạy, tôi đã áp dụng các biện pháp trên và nhận
thấy các em viết chính tả tiến bộ hơn hẳn, chữ viết rõ ràng, trình bày sạch đẹp, ít
sai lỗi chính tả. Tôi tiếp tục khảo sát chất lượng lớp 1E ở tuần thứ 30 và thu
được kết quả như sau:
Giữa kì 2( tuần

Đầu năm
30)
Kết quả
Số lượng
%
Số lượng
%
Số học sinh viết đúng chính tả
6
15.78
19
50.0
Số học sinh viết sai 1 - 3 lỗi
8
21.05
12
31.59
Số học sinh viết sai 4 - 6 lỗi
9
23,68
5
13.15
Số học sinh viết sai nhiều
15
39.49
2
5.26


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận:
Việc áp dụng những kinh nghiệm đã trình bày ở phần trên vào giảng dạy
phân môn chính tả ở lớp 1 tôi thu được kết quả khá khả quan học sinh đã nắm
vững hơn các quy tắc chính tả đơn giản, hiểu nghĩa các từ có hiện tượng chính
tả, sửa chữa được một số lỗi chính tả thường mắc theo phương ngữ địa phương,
sôi nổi hơn trong hoạt động luyện tập thực hành. Điều quan trọng nhất là đã hình
thành được cho các em ý thức viết đúng chính tả.
Qua thực tế giảng dạy bản thân đã rút ra một số kinh nghiệm dạy phân
môn chính tả như sau:
Để đạt hiệu quả cao trong dạy học chính tả trước tiên người giáo viên phải
là người phát âm chuẩn viết đúng, luôn tự học hỏi tự bồi dưỡng nghiệp vụ, soạn
giảng theo phương pháp mới, nắm chắc phương pháp đặc trưng của phân môn.
Kiểm tra để nắm được mức độ viết chính trả của mỗi học sinh ngay từ đầu
năm học. Phân loại học sinh theo năng lực để từ đó có biện pháp rèn học sinh.
Tìm hiểu các lỗi chính tả cơ bản, phở biến hay nói cách khác là trọng
điểm chính tả của lớp, tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
Lưu ý sử dụng phương pháp dạy học chính tả có ý thức của học sinh để
hình thành kỹ năng, kỹ xảo viết chính tả cho học sinh.
Người giáo viên phải trang bị cho bản thân nắm chắc các kiến thức về
ngôn ngữ học, chuẩn chính tả các mẹo luật, các ngoại lệ của việc viết chính tả là
người nắm vững cơ sở tâm lý học trong giảng dạy chính tả.
Rèn chính tả cho học sinh đòi hỏi phải thời gian dài nên người giáo viên
phải kiên nhẫn, công phu khơng nóng vội, dùng biện pháp khen, chê kịp thời.
2. Kiến nghị:
a. Với giáo viên: Muốn nâng cao chất lượng học sinh viết đúng chính tả
thì người giáo viên phải cần xác định rõ vị trí tầm quan trọng của việc học sinh
viết đúng chính tả, nắm được yêu cầu cơ bản của khối lớp mình phụ trách. Xác
định rõ những lỗi sai mà học dễ mắc phải trong khi viết. Giáo viên cần có kế
hoạch cụ thể để khắc phục những lỗi sai của học sinh, phải biết sáng tạo cải tiến
phương pháp linh hoạt trong khi dạy. Giáo viên thực sự là người thầy mẫu mực

là tấm gương sáng về mọi mặt( nói chuẩn, viết chuẩn, đọc chuẩn) bằng chữ viết
trên bảng cũng như viết vào vở. Mặt khác giáo viên phải có sự nhiệt tình, kiên
trì và đầy tâm huyết " Tất cả vì học sinh thân yêu" để từng bước uốn nắn sửa
chữa dìu dắt, hướng dẫn các em cụ thể.
b. Đối với phụ huynh:
Phụ huynh phải quan tâm đến việc học tập của con em mình và dành
nhiều thời gian kiểm tra đơn đốc, nhắc nhở các em học bài và chuẩn bị bài ở nhà
chu đáo.
Trong quá trình giảng dạy học sinh lớp Một, những hạn chế thiếu sót là
khơng thể tránh khỏi. Bản thân tơi rất mong muốn các đồng nghiệp tham gia
đóng góp ý kiến, sự chỉ đạo của cấp trên cho sáng kiến kinh nghiệm này, để cho


sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày càng sát với thực tế giảng dạy. Góp phần
nâng cao chất lượng học sinh viết đúng chính tả.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Bỉm Sơn, ngày 30 tháng 3 năm 20
ĐƠN VỊ
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
NGƯỜI VIẾT

XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK và SGV Tiếng Việt 1 (Nhà xuất bản Giáo dục)
2. Từ điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản từ điển Bách khoa)





×