Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tiểu luận lịch sử văn minh thế giới nền văn minh ai cập cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.36 KB, 23 trang )

lOMoARcPSD|17343589

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
(Học kỳ II nhóm 2, năm học 2021 – 2022)

Đề bài: NỀN VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI

SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ THỊ QUỲNH
MÃ SINH VIÊN:

A39894

CHUYÊN NGÀNH:

NGÔN NGỮ NHẬT BẢN

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NGUYỄN VĂN LỊCH

HÀ NỘI – 2022

1

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

MỤC LỤC


CHƯƠNG 1.

VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ DÂN CƯ 1

1.1. Vị trí địa lý 1
1.2. Dân cư

CHƯƠNG 2.

2

AI CẬP CỔ ĐẠI QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ

2

2.1. Sơ triều đại hay Tảo vương quốc ( 310-2686 TCN) 4
2.2. Cổ Vương quốc (2686–2181 TCN)

6

2.2.1. Sơ lược các Vương triều thời Cổ vương quốc Ai Cập................................6
2.2.2. Sự phát triển của nền kinh tế Ai Cập thời Cổ vương quốc.........................8
2.2.3. Tổ chức nhà nước và quan hệ xã hội thời kỳ Cổ vương quốc.....................9
2.3. Trung Vương quốc (2055–1650 TCN) 11
2.3.1. Sự phát triển của các ngành kinh tế thời Trung vương quốc Ai Cập........11
2.3.2. Chính sách đối nội và đối ngoại...............................................................13
2.4. Tân Vương quốc (1550–1069 TCN)

14


2.4.1. Sự hình thành đế quốc Ai Cập dưới thời các vương triều XVIII và XIX...14
2.4.2. Sự phát triển của sức sản xuất thời Tân vương quốc...............................15
2.5. Thời kỳ Hậu Vương quốc ( khoảng giữa thế kỷ X đến năm 30 TCN)

CHƯƠNG 3.

NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA VĂN MINH AI
CẬP CỔ ĐẠI
17

3.1. Chữ viết

17

3.2. Văn học

18

3.3. Thiên văn học
3.4. Toán học

18

3.5. Y học

18

18

3.6. Kiến trúc và điêu khắc 19

3.7. Tôn giáo

17

19

CHƯƠNG 4.
CHƯƠNG 5.

KẾT LUẬN

20

TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

Downloaded by v? ngoc ()

21


lOMoARcPSD|17343589

CHƯƠNG 1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ DÂN CƯ
1.1. Vị trí địa lý
 Về mặt địa hình Ai Cập là một nước tương đối bị đóng kín. Ai Cập nằm ở
Đơng Bắc châu Phi có vị trí địa lý phía Bắc giáp Địa Trung Hải, phía Đơng
giáp biển Hồng Hải, phía Nam giáp Nubi, nơi giáp giới ấy là một vùng núi
hiểm trở khó qua lại, phía Tây giáp Cộng hịa Li Bi và Sa mạc Sahara. Cũng

chính vì thế nên nền văn minh Ai Cập là nền văn minh phát triển riêng biệt,
độc lập, có bản sắc riêng và phát triển liên tục qua các triều đại.
 Ai Cập nằm ở một vị trí địa lý đặc biệt nên có vị trí địa – chính trị quan trọng.
Ai Cập là nơi giao nhau của 3 châu lục: Á, Phi, Âu. Tại đây, 3 châu lục hoà
nhập quanh một biển trung gian Địa Trung Hải – nơi có thể nối liền hoặc chia
cắt 3 đại dương: Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương.
 Trong thời cổ đại, Ai Cập chia thành hai miền rõ rệt: phía Nam là thượng Ai
Cập – một dải lưu vực hẹp, thuận lợi cho nền kinh tế chăn ni đại gia súc;
phía Bắc là hạ Ai Cập – đồng bằng hình tam giác phì nhiêu, màu mỡ do phù sa
của sơng Nin bồi đắp, dễ giao lưu buôn bán với Châu Á và Tây Âu.
 Ai Cập là vùng đồng bằng dài và hẹp, nằm dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực
sông Nin, sơng Nin bắt nguồn từ vùng xích đạo của Châu Phi, phần chảy qua
Ai Cập khoảng 700km. Miền đất đai do sông Nin bồi đắp rộng khoảng 1525km, ở phía Bắc có nơi rộng đến 50km. Hạ nguồn sơng Nin chia thành 7
nhánh khác nhau. Hằng năm từ tháng 6-11, nước sông Nin dâng cao đem theo
một lượng phù sa phong phú bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ ngày
càng thêm màu mỡ. Do đó, nền kinh tế nơi đây phát triển sớm tạo điều kiện
cho Ai Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm nhất thế giới và dọc sông
Nin là nơi dân cư tập trung chủ yếu, là cơ sở cho sự ra đời của nhà nước.
 Nhà sử học Hêrơđơp đã nói rằng: “Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin”. Sự
thành công của nền văn minh Ai Cập cổ đại một phần đến từ khả năng thích
ứng của nó với các điều kiện của thung lũng Nin cho sản xuất nông nghiệp. Từ
việc có thể dự đốn trước lũ lụt và việc điều tiết thủy lợi ở khu vực thung lũng
màu mỡ đã tạo ra nhiều nông sản dư thừa, giúp nuôi dưỡng một lượng dân số
đông hơn, tạo điều kiện phát triển xã hội và văn hóa, góp phần quy định hình
thức chính thể nhà nước chun chế trung ương tập quyền.
 Ai Cập có số ngày mưa rất ít, quanh năm trời nắng, bầu trời luôn trong xanh,
độ ẩm khơng khí thấp. Tuy nhiên, cũng nhờ điều này mà người Ai Cập lại
thuận lợi trong việc quan sát thiên văn và giữ gìn khá lâu những di sản của nền
văn minh Ai Cập, cụ thể là bảo quản được loại giấy Papyrus. Khí hậu mùa
đơng ơn hồ, mùa hạ nóng và khơ. Vùng ven biển Alêchxanđơria có lượng

1

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

mưa lớn nhất: 200mm. Vùng cạnh biển Đỏ hầu như khơng có mưa. Nhiệt độ
trung bình tháng giêng ở miền bắc là 12 độ, miền nam là 15 – 16 độ; tháng bảy
từ 25 – 26 độ và 30 – 34 độ.
 Bên cạnh đó, Ai Cập cịn có rất nhiều loại đá quý như đá vôi, đá badan, đá hoa
cương, đá mã não…ngun liệu cây dựng các cơng trình nghệ thuật (kim tự
tháp…); kim loại thì có đồng, vàng, cịn sắt thì phải đưa từ bên ngồi vào.
 Tất cả các điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã góp phần hình thành nền văn minh
Ai Cập sớm nhất. Các ngành nghề như đánh bắt cá, nông nghiệp, thủ công
nghiệp và thương nghiệp đều phát triển ngay từ 3.000 năm trước Công
nguyên. Đặc biệt, các di sản kiến trúc đồ sộ và đạt đến một trình độ vươn lên
tầm kỳ quan của thế giới như: các kim tự tháp, các kiệt tác về hội họa, điêu
khắc và nghệ thuật ướp xác.
1.2. Dân cư
Cư dân chủ yếu của Ai Cập ngày nay là người Arập, nhưng thời cổ đại, cư dân ở
đây là người Libi, người da đen và có thể có cả người Xêmit di cư từ châu Á tới. Con
người đã xuất hiện và sinh sống ở lưu vực sông Nin từ thời đồ đá cũ. Những tài
liệukhoa học hiện đại đã xác minh rằng người Ai Cập thời cổ là những thổ dân châu
Phi, hình thành trên cơ sở hỗn hợp rất nhiều bộ lạc. Những thổ dân này đi lại săn bắn
trên lục địa, khi đến vùng đồng bằng sông Nin, họ định cư ở đây và theo nghề trồng
trọt và chăn nuôi từ rất sớm. Về sau chỉ có một chi của bộ tộc Hamit từ Tây Á xâm
nhập hạ lưu sông Nin, chinh phục thổ dân người châu Phi ở đây. Trải qua một quá
trình hỗn hợp lâu dài, người Hamit và thổ dân ở đây đã đồng hố với nhau, hình thành
ra một bộ tộc mới, chính là người Ai Cập. Họ thuộc chủng tộc Mơngơlơit và Nêgrơit.

Người Ai Cập chỉ có một ngơn ngữ chính là tiếng Arập. Cấu trúc làng theo chiều dọc.
Các thành viên trong xã hội khơng được bình đẳng. Thức ăn của họ là lúa mì, lúa
mạch, đậu, trái cây : táo, quả hạnh, quả đấu là thức ăn phụ; thịt gia súc, thịt thú hoang :
hươu, lợn, lừa rừng, các loại sữa, trứng và thuỷ sản. Người Ai Cập ưa phục tùng, thích
ra lệnh. Họ cần cù chăm chỉ. Sống bên cạnh sa mạc và sông Nin nên họ có tính cách
chịu đựng, kiên nhẫn, dũng cảm, liều lĩnh. Họ là những người tháo vát và lanh lợi.
CHƯƠNG 2. AI CẬP CỔ ĐẠI QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
 Vào thời cổ đại, người dân Ai Cập sống thành bộ tộc. Của cải do con người

tạo ra là tài sản chung, khơng có tranh chấp, khơng có sở hữu riêng. Vào
khoảng năm 4000 trước công nguyên, chế độ thị tộc ở Ai Cập bắt đầu tan rã.
Thời đó, các cư dân ở sông Nin sống theo các công xã nhỏ. Công xã nông thôn
là tổ chức kinh tế cơ sở của Ai Cập cổ đại. Có thể nói rằng nơng nghiệp có vai
trị quan trọng hàng đầu trong kinh tế của công xã nông thôn. tuy vậy, nông
nghiệp thời kỳ này cịn đang ở trình độ canh tác nguyên thuỷ. Phương pháp
canh tác còn lạc hậu. Người ta xới đất lên rồi gieo hạt giống. Mặt khác công cụ
2

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

sản xuất cịn thơ sơ, đơn giản, làm bằng đá, gỗ. Tuy nhiên, do đất đai màu mỡ
nên cư dân vẫn thu hoạch được nhiều sản phẩm.
 Bên cạnh đó, hàng năm, người Ai Cập phải thường xuyên đối phó với các loại

hình thiên tai khắc nghiệt như hạn hán, lụt lội. Do đó, họ rất chú trọng cơng
tác thuỷ lợi, xem đó như là một cơng tác trọng yếu của cơng xã nơng thơn. Để
hồn thành tốt cơng tác thuỷ lợi, cần phải có sự đồn kết, hợp lực của nhiều

công xã. Các công xã phân tán không đáp ứng được nhu cầu phát triển sản
xuất. Vì vậy nhiều công xã nông thôn đã hợp lại thành một liên minh cơng xã
rộng lớn hơn, gọi là nơm để có khả năng huy động nhiều nhân công làm công
tác thuỷ lợi. Mỗi nơm đều có thành thị và nơng thơn riêng. Có khoảng 40 nơm
ở Ai Cập, nằm dọc hai bên bờ sông. Đầu thiên niên kỷ thứ IV trước công
nguyên, xã hội Ai Cập phân chia thành hai giai cấp đối kháng rõ rệt : chủ nô
và nô lệ. Nguồn nô lệ chủ yếu là chiến tù, thuộc sở hữu chung của công xã,
được sử dụng một cách rộng rãi trong các ngành thủ công nghiệp và nông
nghiệp, chủ yếu là các cơng trình thuỷ lợi. Lao động trên đồng ruộng thì chủ
yếu là do nơng dân tự do của cơng xã thực hiện.
 Chủ nơ bóc lột cả nô lệ và quần chúng nông dân công xã. Họ là tầng lớp quý

tộc thị tộ, đã tách ra khỏi đám dân tự do, trở thành giai cấp thống trị. Giai cấp
thống trị chủ nô Ai Cập đã tổ chức ra bộ máy nhà nước để cai trị nô lệ và nơng
dân cơng xã.
 Châu ở Ai Cập chính là hình thái nhà nước phơi thai. Đứng đầu mỗi châu là

một chúa châu. Chúa châu đồng thời cũng là thủ lĩnh quân sự, thẩm phán và
tăng lữ tối cao của châu. Chúa châu đựoc coi như là một vị thần sống. Đặc
biệt, mỗi châu có một tín ngưỡng tơn giáo riêng, thờ một vị thần riêng. Giữa
các châu thường xuyên có chiến tranh xảy ra nhằm thơn tính đất đai, cướp bóc
của cải và nơ lệ của nhau. Mặt khác, sự xúc phạm tín ngưỡng tơn giáo của
nhau cũng là một nguyên nhân dẫn đến chiến tranh.
 Do yêu cầu thống nhất việc quản lý công tác thuỷ lợi trên phạm vi ngày càng
rộng lớn , cùng với nguyện vọng chấm dứt những cuộc tranh chấp lâu dài và
tàn khốc nhằm thơn tính đất đai của nhau, nên dần dần các châu hợp thành một
quốc gia thống nhất tương đối rông lớn. Các châu ở miền Bắc thống nhất
thành vương quốc Hạ Ai Cập, còn các châu miền nam thống nhất thành vương
quốc Thượng Ai Cập. Sau một quá trính đấu tranh lâu dài và tàn khốc, vào
khoảng năm 3200 trước công nguyên, Thượng và Hạ Ai Cập đã hợp lại thành

một quốc gia. Ông vua đầu tiên là Menes. Kinh thành đầu tiên là Memphis. Tổ
chức nhà nước lúc bấy giờ còn sơ khai nhưng đã mang đặc điểm của một nhà
nước chuyên chế. Nhà nước Ai Cập cổ đại ra đời từ cuối thiên niên kỷ IV
trước công ngun. Từ đó cho đến năm 525 trước cơng ngun, lịch sử Ai Cập
được chia thành 5 thời kỳ chính.
3

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

 Các triều đại trong lịch sử Ai Cập cổ đại đã trải qua:
 Sơ triều đại hay Tảo vương quốc (3100–2686 TCN)
 Cổ Vương quốc (2686–2181 TCN)
 Chuyển tiếp thứ Nhất (2181–2055 TCN)
 Trung Vương quốc (2055–1650 TCN)
 Chuyển tiếp thứ Hai (1650–1550 TCN)
 Tân Vương quốc (1550–1069 TCN)
 Chuyển tiếp thứ Ba (1069–664 TCN)
 Hậu nguyên (664–332 TCN)
 Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về 5 thời kỳ chính đó là Thời kỳ Tảo vương
quốc, Thời kỳ Cổ Vương quốc, Thời kỳ Trung Vương Quốc, Thời kỳ Tân
Vương quốc và Thời kỳ Hậu nguyên.
2.1. Sơ triều đại hay Tảo vương quốc ( 310-2686 TCN)
 Những di tích văn hóa vật chất của thời kì Cổ vương quốc có thể giúp chúng ta
hiểu một cách khái quát quá trình hình thành xã hội có giai cấp và nhà nước ở
Ai Cập vào đầu thiên kỉ IV TCN. Lúc này, cư dân ở lưu vực sông Nin đã sống
theo từng công xã nhỏ: cùng với nghề chăn nuôi, sân bắn và đánh cá, ngành
nông nghiệp ngày càng chiếm địa vị quan trọng. Tuy nhiên, trình độ canh tác

cịn rất lạc hậu. Công cụ chủ yếu là những chiếc cuốc bằng đá. Đến cuối thời
kì này, người Ai Cập mới biết đến đồng và chì, cịn vàng và bạc thì đã được họ
sử dụng làm đồ trang sức từ khá sớm.
 Nhưng nhờ điều kiện thiên nhiên thuận lợi ở lưu vực sơng Nin, nên mặc dù
trình độ sản xuất cịn lạc hậu, ngành nơng nghiệp đã phát triển nhanh chóng,
tạo ra sản phẩm thừa thường xuyên trong xã hội. Mặt khác, việc trị thủy sơng
Nin cũng địi hỏi các công xã phải liên kết với nhau. Các liên minh công xã
như thế ở Ai Cập gọi là các “Nôm”. Mỗi Nơm có một nơmmaccơ đứng đầu.
 Do u cầu thống nhất quản lí cơng tác thủy lợi trên phạm vi ngày càng rộng
lớn, do những cuộc tranh chấp đất đai và thơn tính lẫn nhau, dần dần, vào giữa
Thiên niên kỉ IV TCN:
 Các Nôm miền Bắc được thống nhất lại thành Vương quốc Hạ Ai Cập với
trung lâm ở Bokđốt (Đamanhur).
 Các Nôm miền Nam được thống nhất thành Vương quốc Thượng Ai Cập
với trung tâm ở Nebut (Ombos).

4

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

 Có Iẽ trong một thời gian dài, hai vương quốc này đã luôn luôn gây hấn với
nhau. Người ta đã tìm thấy một phiến đá miêu tả vua Narmer đang chỉ tay Iên
đầu kẻ thù và bên cạnh đó là dòng chữ: “Vua đã bắt từ đất nước ‘Hồ Garpuna’
6 nghìn tù binh”. Cuối cùng, bằng con đường chiến tranh thơn tính, Mina đã
thống nhất Thượng và Hạ Ai Cập thành Vương quốc Ai Cập thống nhất. Mina,
các sử gia Hy Lạp thường gọi là Menes, xuất thân từ vùng Tina thuộc miền
Nam Ai Cập. Hêrơđốt nói rằng Mina có cơng xây dựng kinh đơ Memphít, có

tường thành bao quanh mà ông gọi là “bức tường trắng”: trong thành Mina còn
xây đền thờ thần địa phương.
 Trong một khu hâm mộ ở gần “Bức tường trắng”, nhà khảo cổ học V.B. Emêri
đã tìm thấy 5 cái giỏ đan trong đó có chứa tới 86 con dao, 35 dao nhỏ, 47 lưỡi
cuốc, 262 mũi kim và 75 mảnh đồng. Một tài liệu cổ cũng cho biết dưới thời
Pharaông Haxêhêmui (thuộc Vương triều II) người ta đúc tượng vua
“Haxêhêmui cao lớn” bằng đồng.
 Các văn tự tượng hình thời kì Cổ vương quốc, bảng phổ hệ các vương triều
của Manêtôn, sau đó là các tác giả Hy Lạp cổ đại có nhắc tới tên một số
Pharaông thuộc hai vương triều đầu tiên trong lịch sử Ai Cập. Sự tồn tại của
hai vương triều này càng được khẳng định qua các tài liệu khảo cổ học.
 Ở vùng Nêgađa và Abiđôxa thuộc miền Nam Ai Cập và ở Xackara thuộc miền
Bắc, người ta đã tìm thấy những khu mộ táng rộng lớn của các Pharaông với
một khối lượng lớn các hiện vật và các tài liệu văn tự cổ, trong đó có nhắc tới
lên các ông vua đầu tiên này. Manêtôn cũng có nói tới một số đời vua kế
nghiệp sau Mina, nhưng hết sức khái lược và nhiều khi thiên về những cá tính
hơn là các hoạt động chính trị. Người đầu tiên trong số các ông vua kế nghiệp
Mina là Atôtis – con trai Mina, rất say mê trong nghệ thuật chữa bệnh và thậm
chí cịn viết cả một cuốn sách về giải phẫu. Ông vua đầu tiên của Vương triều
II là Bocto: trong thời ơng trị vì, người ta đã tiến hành mở mang vùng đất ở
Bubaxtit. Cũng theo Manêtơn các Pharng thuộc Vương triều I trị vì trong
hơn 250 năm, cịn Vương triều II thì tồn tại trong gần 300 năm. Như thế thời
Tảo kì vương quốc phải kéo dài từ khoảng năm 3200 đến 2650 năm TCN.
Điều này thể hiện sự mâu thuẫn trong những thông tin mà Manêtôn cung cấp,
bởi lẽ Vương triều III – mở đầu thời Cổ vương quốc đã được thiết lập từ năm
2778 TCN. Sau Menes, các vua thuộc hai Vương triều I và II đã nhiều lần gây
chiến với các bộ lạc ở phía đơng Ai Cập, sống ở miền Xinai, đánh chiếm vùng
mỏ đồng ở đó và lấy rất nhiều đồng đem về Ai Cập.
 Tuy còn nhiều nét sơ khai, nhà nước Ai cập cổ đại đã được hình thành và đã
mang nhiều đặc điểm của một nhà nước chun chế phương Đơng. Nó là một

trong những dấu hiệu chứng tỏ cư dân Ai Cập cổ đại đã bước vào thời đại xã
hội có giai cấp, thời đại văn minh.
5

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

2.2. Cổ Vương quốc (2686–2181 TCN)
Thời Cổ vương quốc trong lịch sử Ai Cập cổ đại, bao gồm các vương triều từ thứ
III đến thứ VI (khoảng năm 2900 – 2300 TCN) là thời kì hình thành và củng cố nhà
nước trung ương tập quyền và cũng là thời kì phát triển thịnh đạt đầu tiên về các mặt
kinh tế, văn hóa và chính trị – qn sự của Ai Cập.
2.2.1. Sơ lược các Vương triều thời Cổ vương quốc Ai Cập
Thời Cổ vương quốc trong lịch sử Ai Cập cổ đại, bao gồm các vương triều từ thứ
III đến thứ VI (khoảng 2900 – 2300 năm TCN) là thời kì hình thành và củng cố nhà
nước trung ương tập quyền. Đây cũng là thời kì phát triển thịnh đạt đầu tiên về các mặt
kinh tế, văn hóa và chính trị – quân sự của Ai Cập. Các vương triều I và II trước đó
thuộc về thời kỳ Tảo vương quốc. Qua bảng phổ hệ của Manêtơn, người ta có thể biết
khá đầy đủ tên của các Pharaông thuộc 4 vương triều này, nhưng lại khơng biết được
gì nhiều về những chính sách đối nội hay đối ngoại của phần lớn các ông vua này.
Vương triều thứ III
Vương triều thứ III (2778 – 2723 TCN) được mở đầu bằng ông vua có tên là
Giêse (Djeser). Sau khi đã hồn thành việc thống nhất Ai Cập, các Pharaông thuộc
vương triều III và IV liên tiếp mở các cuộc tấn công xâm lược sang các vùng Nubi và
Xinai nhằm mở rộng lãnh thổ và cướp bóc tài sản. Trong suốt thời kì thống trị của
mình, Giêse đã nhiều lần tiến quân ra vùng Đông Bắc và miền Nam Ai Cập. Cạnh một
mỏ đồng trên bán đảo Xinai còn giữ lại được một bức phù điêu, miêu tả cảnh Giêse
chiến thắng các bộ tộc người bản xứ. Một tài liệu cổ văn cũng cho biết, Giêse đã tặng

cho đền thờ thần Hnuma ở Ele-Elêphantina một khu đất thuộc Nubi mà người Ai Cập
mới chiếm được. Chính sách xâm lược đó của Giêse cịn được tiếp tục cho đến đời
Pharaông cuối cùng của vương triều này là Huni.
Vương triều thứ IV
 Người mở đầu cho Vương triều thứ IV (2723 – 2563 TCN) là Snephru
(Xanphara) khơng chỉ thừa kế ngai vàng mà cịn thừa kế cả chính sách bành
trướng, xâm lược của các Pharng vương triều trước. Snephru đã đem quân
tấn công khu mỏ đồng ở Xinai và vùng miền Nam Ai Cập. Bản cổ văn khắc
trên đá Palerm cho biết khi đánh Nubi, Snephru đã bắt về 7.000 tù binh và
200.000 súc vật. Pharaông Kuphu (Kêốp) cũng đã nhiều lần tấn công sang bán
đảo Xinai. Trên vách đá gần Vađi – Marhara còn giữ lại bức phù điêu miêu tả
cảnh chiến thắng của ông vua này trong cuộc chiến tranh với dân bản địa.


Trong chính sách đối nội, các Pharng thuộc Vương triều III và IV ra sức
củng cố chính quyền trung ương tập quyền. Một trong những biểu hiện sức
mạnh và quyền lực vơ hạn của chính quyền Pharng là việc xây dựng các
cơng trình Kim tự tháp. Hầu như các đời Pharaông của hai vương triều này
6

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

đều xây cho mình một Kim tự tháp với kích thước lớn nhỏ khác nhau.
Pharaông đầu tiên của Vương triều III là Giêse xây Kim tự tháp của mình ở
Xackara. Đó là một ngơi tháp 6 tầng, cao 60m. Lớn nhất là hai ngọn Kim tự
tháp ởờ Đaksura (cao 99m) và Kim tự tháp của Kuphu (Kêốp) cao tới 146m.
Đây cũng là những Kim tự tháp hùng vĩ nhất trong số các Kim tự tháp còn lại

đến nay trên đất Ai Cập. Hàng vạn người đã bị bắt đi làm khổ sai trong những
cơng trình “thế kỉ” này và nhiều người trong số họ đã phải vùi thây trong cát
bỏng của sa mạc. Chỉ có một chính quyền chun chế hùng mạnh mới có thể
huy động nổi ngần ấy sức người, sức của phục vụ cho chiến tranh và các cơng
trình xây dựng, đồng thời mới đủ sức trấn áp nổi sự phản kháng của nô lệ và
dân nghèo.
Vương triều thứ V & VI
 Theo truyền thuyết, ông vua sáng lập ra vương triều V (2563 – 2423 TCN) là
con của một nữ tu sĩ với thần Ra – thần Mặt Trời. Thế là quyền lực vô hạn của
các Pharaông đã được thần thánh hóa. Như thế, các Pharng của hai vương
triều V và VI (2423 – 2263 TCN) càng có điều kiện kế tục một cách xuất sắc
chính sách đối nội và đối ngoại của các bậc tiền bối của mình. Điođor có kể lại
rằng vào thời kì cuối của vương triều IV, nhân dân đã nổi dậy và “ném xác của
các Pharaông ra khỏi Kim tự tháp” của họ. Có thể ơng vua đầu tiên của vương
triều V đã lên ngơi trong bối cảnh đó, sau khi đã đàn áp được sự phản kháng
của nô lệ và dân nghèo, rồi ông ta đã “viện” đến thần Ra để củng cố lịng tin
trong dân chúng. Bóc lột và đàn áp nhân dân trong nước, ra sức củng cố chính
quyền trung ương là một chính sách đối nội nhất quán mà các Pharaông của
hai vương triều này đã theo đuổi.
 Trong chính sách đối ngoại, hầu hết các Pharng thời kì này đều tiến hành
chiến tranh xâm lược các nước láng giềng như Libi, Nubi. Pharaông Ixexi
(Vương triều V) tấn công sang vùng Xinai bằng cả quân thủy và quân bộ. Unis
cịn đưa qn sang tận Xiri. Các Pharng Pepi I và II (thuộc Vương triều VI)
đã nhiều lần viễn chinh sang Nubi và bán đảo Xinai. Trong bản cổ văn của ơng
quan trấn thành Una có miêu tả tỉ mỉ một cuộc viễn chinh rất lớn của quân Ai
Cập sang vùng Palextin, họ đã chiến thắng và đã bắt tù binh ở đây về làm nô lệ
như thế nào.


Sau các cuộc chiến tranh xâm lược liên tiếp này, kết quả là không chỉ những

vùng xung quanh Ai Cập bị tàn phá nặng nề, mà cịn làm cho chính thế lực của
chính quyền Pharng ngày càng suy yếu, dẫn tới thời kì phân liệt và cát cứ
sau khi vương triều VI sụp đổ.

2.2.2. Sự phát triển của nền kinh tế Ai Cập thời Cổ vương quốc
Thủy lợi được chú trọng
7

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

Ngay từ thời Mênét, người Ai Cập đã tiến hành xây dựng các cơng trình thủy lợi
có quy mơ to lớn. Một nhà quý lộc có tên là Nêhêbu đã rất tự hào kể lại trong một bản
văn bia rằng theo lệnh của vua và theo một kế hoạch đã có sẵn, ơng ta đã cho đào
nhiều kênh dẫn nước ở cả Bắc và Nam Ai Cập. Hêrêđốt cũng nói rằng vùng châu thổ
sông Nin chằng chịt những kênh đào. Nhà nước cịn đặt ra chức nơng quan có nhiệm
vụ trơng nom các cơng trình thủy lợi trong nước.
Nơng nghiệp phát triển hơn
 Việc đánh chiếm các vùng mỏ đồng ở Xinai đã giúp cho người Ai Cập lấy
được rất nhiều đồng đem về chế tạo vũ khí và cơng cụ lao động. Trong hầm
mộ của Pharaông Giêse người ta đã thấy nhiều công cụ lao động bằng đồng
như búa, rìu, dao và dao khắc. Mặc dù những cơng cụ này mới chỉ được làm từ
đồng nguyên chất còn khá mềm, cũng đã có tác dụng làm cho ngành sản xuất
nông nghiệp phát triển hơn một bước. Trong các tài liệu văn tự cổ thời kì này
có nói tới những loại lúa mì đặc biệt ở Thượng và Hạ Ai Cập: nghề trồng nho,
trồng cây ăn quả và trồng cây gai cũng được nói tới trong các văn tự cổ.
 Do đất đai canh tác hẹp và khí hậu khơ cằn, ngành chăn ni ở Ai Cập khơng
có điều kiện phát triển. Vì thế, một trong những chiến lợi phẩm quan trọng

trong các cuộc chiến tranh là súc vật. Song khơng vì thế mà ngành chăn ni
khơng được chú trọng. Nhiều quý tộc, quan lại trong nhà có những đàn súc vật
lớn – chủ yếu là bò, cừu và dê. Trên tường hầm mộ của các quý tộc quan lại
thường có tranh phù điêu miêu tả các loại và số lượng sức vật mà ơng ta có lúc
sinh thời. Đàn súc vật được coi là một tài sản lớn và quý giá.
Thủ công, mỹ nghệ phát triển
 Nghề thủ công cũng phát triển. Người Ai Cập đã biết cách nấu quặng và chế
tạo đồng. Kĩ thuật chế tác đá đã đạt tới trình độ hồn mĩ. Để xây dựng Kim tự
tháp Kuphu (Koốp) người ta đã phải cưa, đẽo, gọt mài 2.300.000 phiến đá,
mỗi phiến nặng tới 2,5 tấn. Các phiến đá này được đẽo phẳng đến nỗi người ta
chỉ cần xếp chúng khít lại với nhau mà khơng cần có chất keo dính nào và
ngày nay ta cũng chỉ có thể lách mũi dao mỏng vào giữa các khe đó mà thơi.


Những bức tranh phù điêu khắc trên vách đá các hầm mộ, trên tường Kim tự
tháp miêu tả mọi cảnh sinh hoạt của đời thường, những tấm bia đá có khắc chữ
tượng hình được tìm thấy ở khắp mọi nơi trên đất Ai Cập đủ chứng tỏ trình độ
tay nghề hết sức khéo léo của các nghệ nhân Ai Cập.

 Nghề đóng thuyền cũng có những tiến bộ nhất định. Trong bút tích của viên
quan trấn thủ thành Una có nói tới việc đóng thuyền chở hàng “bằng gỗ dài 60
cùi tay, rộng 30 cùi tay, được đóng xong trong 17 ngày”. Nghề làm đồ gỗ, nhất
là nghề làm đồ trang sức từ vàng, bạc và các loại đá quý, rất được phổ biến ở
Ai Cập thời Cổ vương quốc. Người Ai Cập thời kì này đã làm được những đồ
8

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589


trang sức hết sức tinh xảo. Trong hầm mộ của nữ hoàng Hetap – Heres (Vuơng
triều IV), người ta đã tìm thấy nhiều đồ trang sức q giá, trong đó có chiếc
vịng bạc có đính nhiều hạt đá q và những hình chạm nổi tinh vi.
Tiền tệ bắt đầu xuất hiện
Do sự phát triển của các ngành kinh tế, do tính chất chun mơn hóa ngày càng
cao đã làm cho quan hệ trao đổi buôn bán được đẩy mạnh. Qua các bức tranh phù điêu
ta được biết các mặt hàng trao đổi trên thị trường lúc đó rất phong phú. Đó là các sản
phẩm nơng nghiệp như hạt ngũ cốc, bánh mì, hoa quả, cá, bơ… và các sản phẩm thủ
công như đồ trang sức, gương, giày dép. Việc buôn bán khơng chỉ dừng ở hình thức
lấy vật đổi vật, mà tiền tệ cũng đã bắt đầu xuất hiện dưới dạng những mảnh kim loại.
Người ta mua bán cả nô lệ và bất động sản, nhưng đó là trường hợp rất hạn hữu. Chỉ
có một tài liệu tìm thấy ở Gidơ nói tới việc bán nhà, đổi lấy nhiều hiện vật khác trị giá
bằng 10 thanh kim loại. Các tài liệu văn tự cổ cũng nói tới các chuyến bn bán lớn ra
nước ngoài để mua về các loại gỗ quý và kim loại hiếm. Trong một lần khai quật ở
Biblos (Xiri), người ta đã phát hiện được những mảnh gốm có khác tên Pharng
Kuphu và Menkaura và một bình kim loại có khác tên vua Unis. Bức phù điêu trên
tường đền thờ vua Sahura miêu tả một đoàn thuyền buồm Ai Cập sang châu Á để mua
hàng và nô lệ.
Kết luận
Như thế, dù là chậm chạp, nhưng chắc chắn, nền kinh tế Ai Cập thời cổ vương
quốc đã có một bước phát triển mới. Đó chính là cơ sở vững chắc cho sự ổn định về
chính trị và sự phát triển của một nền văn hóa phong phú ở các giai đoạn tiếp sau.
2.2.3. Tổ chức nhà nước và quan hệ xã hội thời kỳ Cổ vương quốc
Tầng lớp thống trị
 Pharng đứng đầu nhà nước và có quyền tối cao
 Đứng đầu bỏ máy nhà nước đó là Pharng – “Ngài ngự trong cung điện”.
Pharng có quyền sở hữu lối cao toàn bộ đất đai trong cả nước và dùng
ruộng đất đó cùng với của cải và nơ lệ để ban tặng cho bà con thân thích,
cho quan lại và tăng lữ cấp cao. Pharaông được coi như một vị thần sống.

Mọi mệnh lệnh của vua đều trở thành pháp luật. Bằng nhiều biện pháp, vua
quản lí chặt chẽ hệ thống quan lại ở trung ương và địa phương. Vua có
quyền bãi nhiệm, bãi miễn hoặc trừng phạt bất cứ người nào. Ngoài chức
năng cai trị thần dân, Pharng cịn kiêm chức năng thẩm phán tối cao,
thống lĩnh qn đội và đứng đầu tăng lữ.
 Pharng cịn được coi là con của thần Ra – thần Mặt trời. Sau khi vua
chết, xác ướp được giữ lại trong các lăng mộ, tức là trong lòng các ngọn
Kim tự tháp hùng vĩ. Dưới chân tường Kim tự tháp, người ta tạc tượng
9

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

Xphanh (Sphinx – nhân sư) khổng Iồ lừ một khối đá nguyên cao tới 20m,
đầu người, mình sư tử, tượng trưng cho Pharng có sức mạnh của sư tử và
trí thông minh của con người.
 Các quan lại và quý tộc
 Dưới vua và để giúp việc cho vua là cả một hệ thống quan lại từ trung ương
tới địa phương do một Vidia (Vizir) như Tể tướng điều hành cơng việc hành
chính. Vidia nắm giữ hầu hết các chức năng quan trọng của nhà nước như
tư pháp, thu thuế, xây dựng các cơng trình cơng cộng và thủy lợi.
 Dưới Vidia là một hộ máy quan liêu cồng kềnh gồm các quan lại cao cấp và
đông đảo các thư lại gọi là Scơribơ (Scribes) là tầng lớp người có học vấn
thời bấy giờ. Đơn vị hành chính quan trọng nhất là các “nôm” hay châu do
các nômmacơ tức là các chúa châu cai quản. Chúa châu cũng là tăng lữ,
thẩm phán và người chỉ huy quân sự cao nhất của địa phương. Cuối cùng, ở
các công xã nông thôn cũng có người trưởng thơn cai quản. Hệ thống chính
quyền nhiều cấp, cồng kềnh và quan liêu này đã tạo nên một tầng lớp quý

tộc quan lại hết sức đông đảo.
 Tăng lữ
Cùng với quý lộc quan lại, tầng lớp q tộc tăng lữ cũng có một vai trị rất quan
trọng trong đời sống xã hội. Tầng lớp tăng lữ là chỗ dựa về mặt tinh thần của quý tộc
quan lại: chúng tìm mọi cách thần thánh hóa nhà vua và chính quyền nhà nước. Vì thế
tăng lữ cũng có quyền hành rất lớn và được hưởng nhiều quyền lợi đặc biệt.
Tầng lớp bị trị


Nông dân công xã
 Đại bộ phận cư dân Ai Cập lúc đó là nơng dân cơng xã. Nghề chính của họ
là làm ruộng và chăn nuôi gia súc. Họ được tự do sản xuất và phải nộp tô
thuế cho nhà nước thông qua các công xã. Ngồi ra, họ cịn phải chịu nghĩa
vụ lao dịch để xây dựng các cơng trình thủy nơng và các cơng trình kiến
trúc như đền miếu, lăng mộ.
 Thời Cổ vương quốc, nhà nước thường lệnh cho các địa phương thống kê
ruộng đất, số người, súc vật… trong cả nước sau một kì hạn nhất định, có lẽ
là để đánh thuế và bắt phu.

 Nộ lệ
Tầng lớp đông đảo thứ hai sau nông dân công xã là nô lệ. Người Ai Cập cổ đại
gọi nơ lệ là Jets có nghĩa là con vật. Phần đông những nô lệ này là tù binh bắt được
trong chiến tranh. Nô lệ được coi là một phần tài sản của nhà vua và của các gia đình
quý tộc. Họ chủ yếu sinh sống, lao động và phục vụ trong các cung điện và các gia
10

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589


đình q tộc, giàu có. Tuy nhiên, trên tường đá của các cung điện hay lăng mộ, người
ta cũng thấy những bức phù điêu miêu tả cảnh nô lệ cày cuốc, trồng trọt, gặt hái, hoặc
làm các nghề thủ công khác nhau. Cảnh nô lệ bị hành hạ, đánh đập và cả cảnh mua bán
nô lệ nữa.
 Tầng lớp trung gian
Ngồi ra, trong xã hội Ai Cập cịn có tầng lớp thợ thủ công, thương nhân với số
lượng không nhiều. Họ là tầng lớp trung gian, nên thân phận và địa vị của họ cũng
khơng có gì nổi bật.
2.3. Trung Vương quốc (2055–1650 TCN)
2.3.1. Sự phát triển của các ngành kinh tế thời Trung vương quốc Ai Cập
Nông nghiệp
 Phát triển thủy lợi
 Ở thời Trung vương quốc Ai Cập, chính quyền Pharaoh đã hiểu một cách
sâu sắc tác dụng của cơng trình thủy lợi và tầm quan trọng của việc quan sát
mực nước sông Nin đối với sản xuất nơng nghiệp. Vì thế, chính quyền nhà
nước đã rất quan tâm tới cơng tác thủy lợi.
 Ở thời kì vương triều XII, nhất là dưới thời trị vì của Pharaoh Amênêmhet
III, hệ thống thủy nông của Ai Cập đã được tu bổ và mở rộng hơn nhiều.
Điôđo viết rằng vùng tam giác châu của Ai Cập bị chia nhỏ ra bởi các kênh
đào.
 Người Ai Cập cũng đã biết đo mực nước sông Nin lên xuống bằng một
dụng cụ đặc biệt mà người la gọi là Ninlômét (Nilomètre). Trên sườn núi ở
gần thác thứ hai của sông Nin, người ta thấy có đánh dấu các mực nước
sơng Nin lên xuống và gần đấy lại tìm thấy một bản văn tự cổ thuộc thời
các vương triều XII – XIII. Rất có thể đây cũng là một loại Ninlômét đặc
biệt, được làm ngay trên vách đá ở bờ sơng. Có quy mơ to lớn nhất trong
thời kì này là cơng trình sửa chữa hồ Phayum (mà các tác giả Hi Lạp gọi là
hồ Mơris) thành một bể chứa nước nhân tạo rộng lớn. Cơng trình này đã
được bắt đầu từ thời Hêraclêơpơlít.

 Đến thời vương triều XII, người ta đã đào một con kênh dẫn nước nối từ hồ
tới sông Nin dài 19km. Các tác giả Hi Lạp cho biết người Ai Cập đã làm hồ
đào kênh để khi nước sông Nin dâng cao, thì được chia bớt và chứa trong
hồ, sau đó lại từ từ chảy ra khi mực nước sơng Nin xuống thấp. Chính nhờ
việc xây dựng cơng trình thủy lợi này, ở đây đã xuất hiện một trung tâm –
thành thị mới – thành Kahun.


Ứng dụng công cụ đồng thau
11

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

 Cùng với việc củng cố và mở rộng các cơng trình thủy lợi, cơng cụ lao động
ở thời Trung vương quốc đã được cải tiến thêm một bước. Bước tiến quan
trọng đó thể hiện trước hết từ sự xuất hiện các công cụ bằng đồng thau.
Người Ai Cập thời kì này chế được đồng thau là nhờ việc nhập khẩu thiếc
từ vùng Tiền Á.
 Sự xuất hiện công cụ bằng đồng thau đã làm thay đổi căn bản tình trạng kĩ
thuật sản xuất lạc hậu trước đây trong mọi ngành kinh tế. Người ta có thể
phỏng đốn sự phát triển của nền kinh tế nơng nghiệp thời kì này qua việc
xảy dựng các cơng trình thủy lợi, qua các công cụ lao động bằng đồng thau
phát hiện được trong các di chỉ ở Kahun và Xackara, qua các bức phù điêu
trên tường các hầm mộ ở Beni-Haxana, và El-Bers.


Chăn nuôi được đặc biệt chú ý


Ngành chăn nuôi cũng được nhà nước đặc biệt chú ý. Nhà vua đã cử ra một chức
“quan trông coi súc vật trong cả nước” và thành lập “cơ quan thống kê súc vật có
sừng”, cịn ở hồng cung thì cử một chức “quan chăn súc vật của vua”. Rất có thể
những hiện pháp trên đây đã có tác dụng khuyến khích cho ngành chăn nuôi phát triển.
Trong một bản cổ văn, một quý tộc địa phương đã rất tự hào nói rằng ơng ta có một
đàn súc vật lớn và có thể cung cấp cho nhà nước một số lượng súc vật cần thiết vào bất
cứ lúc nào.
Thủ công nghiệp


Đi đôi với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, sản xuất thủ công nghiệp
và các hoạt động thương nghiệp và mậu dịch đối ngoại cũng được đẩy mạnh.
Thời kì này, người Ai Cập đã có quan hệ bn bán hai chiều thường xun với
Syria, Palestine, cả với Babylon và vùng biển Egiê nữa. Ở Gezera gần
Jerusalem, người ta đã tìm thấy những bức tượng Ai Cập và các sản phẩm từ
ngà voi. Những bình gốm với hoa văn linh xảo và chữ tượng hình khắc tên các
Pharaoh Amênêmhet III và IV đã được tìm thấy ở Biblơs (Xiri).

 Ngược lại khi khai quật một ngôi đền ở Tốt vào năm 1936, người ta đã tìm
thấy 4 chiếc hịm bằng đồng có khắc tên Pharaoh Amênêmhét II, trong đựng
đầy các sản phẩm mĩ nghệ, vàng, bạc, hạt chuỗi, vịng hình lục giác của
Babylon. Ở Ai Cập đã tìm thấy những mảnh gốm vỡ được chế tạo ở đảo Krét;
và ngược lại những hạt chuỗi Ai Cập thuộc các vương triều XI – XII đã được
phát hiện ở Krét.


Sự phát triển chung của các ngành kinh tế còn được biểu hiện ở việc mở
mang các đường giao thông thủy bộ, ở sự hưng thịnh của các thành phố củ và
sự xuất hiện thêm nhiều thành phố mới. Tuy nhiên, nếu so sánh với những

Kim tự tháp hùng vĩ của thời Cổ vương quốc thì thời kì này người ta lại khơng
thấy những cơng trình xây dựng có “tầm cỡ” như vậy
12

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

2.3.2. Chính sách đối nội và đối ngoại
 Như đã nói, các Pharaoh thuộc hai vương triều VII và VIII, về danh nghĩa vẫn
đóng đơ ở vùng Memphis, nhưng trong thực tế hầu như khơng nắm được
quyền hành gì. Lợi dụng sự suy yếu của chính quyền trung ương, các chúa
châu ngày càng củng cố thế lực của mình và thực tế đã trở thành những ông
vua nhỏ ở địa phương.


Trong số đó, các chúa châu ở Hêraclêơpơlít là có thế lực lớn mạnh hơn cả.
Thủ lĩnh của họ – Heti I đã chinh phục đuợc những vùng xung quanh và trở
thành người sáng lập ra vương triều mới – vương triều IX và X (2222 – 2070
TCN).

 Tài liệu lịch sử về thời kì này cịn lại rất ít ỏi, nên người ta khơng hiểu biết
được gì nhiều lắm. Nhưng qua tài liệu văn tự cổ “Lời khuyên của vua
Hêraclêơpơlít”, các đời vua của hai vương triều này đã ln ln phải đối phó
với các cuộc nổi dậy của dân chúng và sự chống đối của tầng lớp quý tộc cũng
như nạn xâm lược từ bên ngồi. Tình hình đó ảnh hưởng tai hại đến nền sản
xuất kinh tế, trước hết là nền sản xuất nơng nghiệp vì các cơng trình thủy lợi
đã bị phá hủy. Bởi vậy, sau một thời kì phân liệt, việc khơi phục Iại nhà nước
thống nhất trung ương tập quyền đã trở thành một yêu cầu cấp thiết.

 Quá trình thống nhất đất nước đã diễn ra trong cuộc đấu tranh gay go, quyết
liệt và kéo dài giữa hai tập đoàn quý tộc lớn ở Hêráclêơpơlít và Tebơ. Nhờ có
vị trí địa lí thuận lợi lại được các châu miền Nam ủng hộ, nên tập đoàn quý tộc
ở Tebơ đã thắng. Lãnh tụ của thành Tebơ là Mentuhôtép trở thành người sáng
lập ra vương triều thứ XI, và cũng trở thành Pharaông của cả Ai Cập, đóng đơ
ở thành Tebơ. Từ đó bắt đầu thời kì Trung vương quốc trong lịch sử cổ Ai Cập.


Các Pharaoh thuộc vương triều XI (2160 – 2000 TCN) đã tiến hành các cuộc
viễn chinh sang vùng phía bắc Nubi. Nhưng các nguồn tài liệu ít ỏi cịn lại đã
khơng cho biết gì chi tiết hơn về các cuộc viễn chinh này.

 Ông vua đầu tiên của vương triều XII (2000 – 1785 TCN) là Amenemhat I đã
tiếp tục các cuộc chiến tranh xâm lược của vương triều XI, nhiều lần tấn công
sang Nubi, đã chiếm được nhiều đất đai. Kết quả của các cuộc viễn chinh này
đã được ơng nói tới trong “Lời khun bảo” của mình. Sênuxret I – người kế
ngôi Amenemhat I lại tiếp tục tấn cơng Nubi và đã mở rộng lãnh thổ của mình
tới thác thứ hai trên sông Nin ở vùng Vađi Hanpha. Tại đây, ông đã cho dựng
một tấm bia đá vừa “kỉ niệm” chiến thắng vừa đánh dấu “điểm” biên giới phía
nam xa nhất của mình. Đặc biệt, dưới đời các Pharaoh Senuxret III (1867 –
1849 TCN), Amenemhat II và III, quân Ai Cập đã tấn công sang tận Sirya và
Palestine.
13

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589




Để khống chế và khai thác các miền bị chinh phục, một mặt, các Pharaoh phái
quân đội thường trú tới chiếm đóng và cử quan lại tới trực tiếp cai trị, mặt
khác cũng rất chú ý tới việc mở mang các đường giao thông liên lạc thủy bộ
để dễ kiểm sốt. Điều đó cũng đã ảnh hưởng rõ rệt tới sự phát triển của ngành
thương mại, nhất là ngoại thương. Chính quyền Pharaoh càng đặc biệt chú ý
tới cơng tác thủy lợi, khuyến khích phát triển sản xuất nơng nghiệp. Về mặt
chính trị, các Pharaoh ra sức củng cố chính quyền, tập trung cả pháp quyền và
thần quyền trong tay mình, đàn áp các cuộc khởi nghĩa và sự chống đối của nơ
lệ và dân nghèo. Những biện pháp đó đã dẫn tới sự ổn định và phát triển trong
nước.

2.4. Tân Vương quốc (1550–1069 TCN)
2.4.1. Sự hình thành đế quốc Ai Cập dưới thời các vương triều XVIII và XIX
Căm thù bọn thống trị ngoại tộc trong suốt 150 năm bị người Híchxốt đơ hộ,
người Ai Cập đã ln ln nổi dậy chống lại. Lãnh đạo phong trào đấu tranh giải
phóng Ai Cập lúc ấy là một quý tộc lên là Atmet I (Almes) ở thành Tebơ. Sau khi đã
đánh đuổi được quân xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng đất nước (năm 1560
TCN) Atmet I trở thành người sáng lập vương triều XVIII (1580 – 1314 TCN), mở đầu
thời kì mới trong lịch sử Ai Cập – thời Tân vương quốc.
Vương triều XVIII (1580 – 1314 TCN)


Sau khi lên ngôi và định đô ở thành Tebơ, Almet I đã tiến hành ngay các cuộc
viễn chinh xâm lược nhằm mở rộng lãnh thổ của vương quốc. Đuổi theo quân
Híchxốt. Atmet I đã tiến quân vào Tiền Á, đến tận vùng Palestine và Syria. Ở
Nubi, Almet I cũng giành được nhiều thắng lợi và chiếm lại được toàn bộ đất
đai mà trước kia đã thuộc về Ai Cập.




Người nối ngôi và cũng là người kế tục chính sách bành trướng của Atmet I là
Amenkhơtep I. Dưới thời trị vì của ông, quân đội Ai Cập đã tấn công vùng
Ethiopia và Libya, sáp nhập đất đai của những khu vực này vào lãnh thổ Ai
Cập. Amenkhơtep I cịn tiến sang cả Syria và Palestine, nhưng những nguồn
tài liệu ít ỏi khơng cho ta biết gì chi tiết hơn về cuộc viễn chinh này.

 Tham vọng bành trướng, chiếm đất để thành lập một đế quốc Ai Cập rộng lớn
được thể hiện rõ nhất dưới thời vua Tutmet I, người nối ngôi và là em rễ của
Amenkhôtep I. Bỏ qua những nước nhỏ khơng dám chống đối, Tutmet I tiến
thẳng đến phía bắc sông Ơphơrát (Euphrate) và ở đây quân Ai Cập đã đánh tan
đội quân hùng mạnh của Vương quốc Mitanni. Cũng tại đây, Tutmet I đã để lại
bút tích của mình, gọi vùng mới chiếm là “lãnh thổ” của Ai Cập, đánh dấu
điểm xa nhất về phía bắc của đường biên giới của Ai Cập mà giờ đây nó đã
trải dài từ miền Nam Êtiôpia đến vùng trung lưu Ơphơrát. Dưới thời Tutmet
III – một ông vua, một ông tướng chỉ huy tài giỏi, quân đội Ai Cập liên tiếp
14

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

tiến công sang châu Á và liên tiếp giành thắng lợi. Trong 42 năm trị vì, Tutmet
III đã 15 lần dẫn quân đi viễn chinh, trong đó có trận chiến đấu ác liệt ở thành
Kates trên bờ sông Côntơ, quân Ai Cập đã chiến thắng liên quân của các tiểu
quốc miền Tiền Á, triệt hạ thành trì kiên cố này, thanh thế lừng lẫy khắp miền
Tây Á.
 Thời kì thống trị của Tutmet III là thời kì lực lượng quân sự của Ai Cập phát
triển mạnh nhất, cũng là thời kì hình thành đế quốc Ai Cập rộng lớn. Hoảng sợ

trước sức mạnh quân sự của Ai Cập, hầu hết những nước nhỏ còn lại ở vùng
Tiền Á và thậm chí cả những đảo ở Địa Trung Hải cũng đều phải cống nạp hay
kết bạn đồng minh với Ai Cập. Trên tường hâm mộ một nhà quý tộc có tên là
Menheperaxnep có miêu tả những người mang cống nạp kèm theo dịng chữ
chỉ rõ đó là những người đứng đầu các thành bang Tunip và Kates, quốc
vương Hatti và Kêphtuy (tức đảo Crét).
Vương triều XIX (1314 – 1200 TCN)


Những Pharaoh đầu tiên của vương triều XIX, một mặt ra sức củng cố chính
quyền ở trong nước và ở những vùng mới bị chiếm đóng, mặt khác tăng cường
lực lượng quân đội để có thể tiếp tục chính sách xâm lược.

 Hôremhep – người sáng lập ra vương triều XIX (1314 – 1200 TCN), đã tổ
chức nhiều cuộc viễn chinh sang vùng Nubi tấn công vương quốc Punt. Đặc
biệt, dưới thời Ramses II (1317 – 1251 TCN), quân Ai Cập đã hai lần tấn công
sang Syria. Nhưng sau hai lần chiến tranh giữa Ai Cập và Hatti, hai bên đều
không phân thắng bại, cuối cùng phải đi đến kí hịa ước vào năm 1296 TCN,
miền Nam Syria lại trở lại phụ thuộc Ai Cập.
 Thế là, do chính sách bành trướng bằng vũ lực của các Pharaoh thuộc vương
triều XVIII và XIX, Ai Cập dần dần trở thành một đế quốc rộng lớn – biên
giới phía bắc giáp vùng Tiền Á, biên giới phía nam đến tận xứ Nubi với
khoảng cách dài gần 3200 km. Các đời vua kế tiếp sau Ramses II cũng rất ham
chiến trận, đã nhiều lần tiến hành chiến tranh với các dân tộc láng giềng,
nhưng chủ yếu là để giữ vững đường biên giới và ảnh hưởng của Ai Cập ở
những vùng này. Cho đến thời Ramses III, Ai Cập vẫn giữ được thế nước của
mình, là một đế quốc rộng lớn và hùng mạnh nhất trong khu vực.
2.4.2. Sự phát triển của sức sản xuất thời Tân vương quốc
 Vẫn như trước đây, nền kinh tế Ai Cập thời Tân vương quốc dựa chủ yếu trên
sự phát triển của ngành nông nghiệp tưới tiêu. Nhưng đến thời kì này, ngành

nơng nghiệp đã có bước phát triển mới. Bước tiến đó thể hiện trước hết trong
kĩ thuật canh tác. Công cụ bằng đồng thau đã được sử dụng rộng rãi trong sản
xuất. Người ta đã biết dùng loại cày cán đứng có lỗ cầm tạo cho người cày tư
thế thoải mái và biết dùng vồ để đập đất. Bức phù điêu trên tường hầm mộ của
15

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

một quý tộc có tên là Hacmhet miêu tả cảnh 20 người đang làm ruộng – một
nhóm cày, một nhóm cuốc, cịn nhóm khác cầm vồ đập.
 Sự phát triển của ngành sản xuất nơng nghiệp cịn được biểu hiện ở sự quan
tâm của nhà nước đến công tác thủy lợi. Quan Vidia được cử đặc trách lãnh
đạo mọi công việc sản xuất nơng nghiệp trong cả nước. Có tài liệu cổ văn đã
ghi lại: “Công văn các châu gửi về triều đình được giữ trong dinh Vidia : Vidia
xét mọi đơn kiện tụng về ruộng đất. Ông quy định ranh giới của mỗi châu, mỗi
trang viên của quý tộc và của tăng lữ, giữ sổ sách, địa bạ. Công tác thủy lợi
cũng do ông điều khiển. Ngày đầu của mỗi tuần ơng nghiên cứu tình hình mực
nước các lạch, các sơng ngịi…, cử quan lại chun trách theo dõi từng địa
phương do đó nắm vững được tình hình mùa màng trong cả nước. Ông theo
dõi, quan sát sao Lang xuất hiện và mực nước sông Nin Iên xuống.
 Trong nhiều cơng văn của triều đình Ai Cập thời bấy giờ cũng có nó tới lệ quy
định cứ 4 tháng một lần, quý tộc các châu phải gửi báo cáo tình hình sản xuất
nơng nghiệp ở địa phương lên cho quan Vidia. Tất cả những điều trên đây
chứng tỏ nhà nước hết sức quan tâm tới ngành sản xuất nông nghiệp.
 Trong ngành thủ công nghiệp, ở thời Tân vương quốc người ta thấy xuất hiện
những xưởng lớn, chủ yếu là thuộc các nhà thờ lớn. Thợ thủ công làm việc ở
các xưởng này có tới hàng trăm người. Trên tường lăng mộ quan Vidia Rekmir

có miêu tả xưởng thủ công của đền thờ thần Atôn ở Tebơ. Trong bức phù điêu
người ta đếm được tới 150 thợ thủ công đang làm việc. Một số ngành thủ công
truyền thống của Ai Cập như nghề làm đồ mĩ nghệ, làm đồ gỗ, đóng thuyền,
ngành luyện kim v.v… vẫn tiếp tục phát triển. Trong việc nấu quặng và đúc
đồng, người Ai Cập chế tạo được những hợp kim gồm nhiều thành phần. Một
tài liệu cổ văn đã có nói tới một hợp kim “đồng thau gồm 6 thành phần”. Họ
cũng đã làm được những dây bằng vàng hết sức mảnh và dài để làm dây
chuyền.
 Việc thành lập một đế quốc Ai Cập rộng lớn với chiều dài Bắc Nam tới 3200
km là một nhân tố hết sức quan trọng thúc đẩy ngành ngoại thương phát triển.
Quan hệ mậu dịch với Syria và Palestine được củng cố. Ai Cập xuất sang
Syria, Palestine, Phênixi (Phénicie)… các hàng nông sản, đồ mĩ nghệ bằng
vàng, đá hay ngà voi. Ai Cập lại mua gỗ của Libăng, sắt của người Hatti, đồng
của đảo Síp và nhiều loại hàng khác của khu vực Lưỡng Hà hay của các đảo
trên biển Êgiê (Aegean). Mặc dù trong buôn bán vẫn dùng hình thức vật đổi
vật là chủ yếu, việc sử dụng tiền tệ bằng kim loại đã bắt đầu có. Để xác định
giá trị của các loại hàng hóa khác nhau, người ta đã sử dụng những thanh kim
loại (vàng, bạc, hoặc đồng) có trọng lượng nhất định, thường là bằng 91g.
Loại “tiền” đó được gọi là Đêben và chia thành 10 đơn vị nhỏ hơn.
16

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

2.5. Thời kỳ Hậu Vương quốc ( khoảng giữa thế kỷ X đến năm 30 TCN)
 Đây là thời kỳ khủng hoảng, suy vong của nhà nước Ai Cập cổ đại. Ai Cập trở

thành đối tượng xâm lược và thống trị của nhiều nước trong khu vực. Ai Cập

rơi vào tình trạng phân liệt và loạn lạc.
 Vào giữa thế kỷ thứ X trước công nguyên, một thủ lĩnh quân đội người Libi đã

tiến hành đảo chính quân sự, lật đổ Pharaông, lập ra một vương triều ngoại
tộc, cai trị tồn Ai Cập. Đầu thế kỷ VIII trước cơng ngun, người Nubi tiến
đánh Ai Cập, lật đổ nền thống trị của Libi, xác lập nền thống trị mới. Năm 671
trứơc công nguyên, Ai Cập lại bị quân đội Assyri đánh chiếm. Năm 525 TCN,
Ba Tư xâm lược đất nước này và đặt ách thống trị ở đây. Sau đó, vào năm 332
trước công nguyên, Ai Cập lại bị Alechxanđơ xứ Macxêđônia chinh phục. Sau
khi đế quốc này bị tan rã, Ai Cập thuộc quyền thống trị của một vương triều
Hy Lạp gọi là vương triều Ptolemy. Năm 30 trước công nguyên, Ai Cập trở
thành một tỉnh của đế quốc La Mã.
CHƯƠNG 3.

NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA VĂN MINH AI CẬP CỔ
ĐẠI

Nền văn hoá vật chất và tinh thần của văn minh Ai Cập cổ đại được xây dựng từ
khi có người đến sinh sống ven sơng Nin. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế – xã
hội, văn hoá Ai Cập cũng đạt được nhiều thành tựu đáng chú ý. Có thể nói rằng văn
hố Ai Cập là một trong những nền văn hoá cổ nhất và phát triển rực rỡ nhất của thế
giới cổ đại. Cho đến nay, những thành tựu văn hoá ấy vẫn làm cho chúng ta thán phục
và ngạc nhiên trước sức sáng tạo kì diệu của nhân dân Ai Cập thời cổ đại.
3.1.

Chữ viết
 Chữ viết Ai Cập ra đời khi xã hội hình thành giai cấp. Đó là chữ tượng hình.

Đối với các khái niệm phức tạp và trừu tượng, người ta dùng phương pháp
mượn ý. Tuy nhiên, hai phương pháp này chưa đủ để ghi mọi khái niệm của

cuộc sống nên dần dần xuất hiện những hình vẽ biểu hiện âm tiết. Lâu dần,
những chữ chỉ âm tiết trở thành chữ cái. Tổng số chữ tượng hình của Ai Cập
cổ đại có khoảng 1000 chữ, trong đó có 24 chữ cái. Loại chữ này được dùng
trong hơn 3000 năm.
 Chữ viết cổ này thường được viết trên đá, gỗ, đồ gốm, vải gai, da... nhưng chất

liệu phổ biến nhất là giấy papyrus. Bút được làm từ thân cây sậy. Mực được
làm từ bồ hóng.
3.2. Văn học

Ai Cập cổ đại có một kho tàng văn học khá phong phú và đa dạng, gồm có thơ ca
trữ tình, tục ngữ, truyện thần thoại... Những tác phẩm tiêu biểu là : “Nói Thật và Nói
17

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

Láo”, “Sống sót sau vụ đắm thuyền”, “Lời kể của Ipuxe”, “Nói chuyện với linh hồn
của mình”... Các câu chuyện đều có ý nghĩa tích cực, mang tính chất răn đe, giáo huấn,
dạy con người phải sống sao cho tốt đẹp, đúng đạo lý và khuyến khích tinh thần vươn
lên của con người trong xã hội. Các tác phẩm còn phản ánh những biến động lớn trong
xã hội thời đó.
3.3.

Thiên văn học
 Người Ai Cập cổ đại đã biết đến 12 cung hoàng đạo, biết về các hành tinh như

sao Thuỷ, sao Kim, sao Hoả, sao Mộc, sao Thổ. Để đo thời gian, họ đã phát

minh ra cái nhật khuê. Đó là một thanh gỗ đầu cong. Muốn biết mấy giờ thì
xem bóng mặt trời của mút cái đầu cong in lên vị trí nào trên thanh gỗ. Tuy
nhiên, dụng cụ này chỉ xem được thời gian khi có ánh mặt trời. Về sau, người
ta phát minh ra đồng hồ nước. Đó là một cái bình bằng đá hình chóp nhọn.
Nhờ vào cái đồng hồ nước này, người ta có thể xem được giờ cả ngày lẫn đêm.
 Thành tựu quan trọng nhất là việc đặt ra lịch, dựa trên kết quả quan sát tinh tú

và quy luật dâng nước của sông Nin. Họ nhận thấy buổi sáng sớm khi sao
Lang bắt đầu mọc cũng là lúc nước sông Nin bắt đầu dâng. Hơn nữa, khoảng
cách giữa hai lần mọc của sao Lang là 365 ngày. Họ lấy khoảng thời gian ấy
làm một năm. Một năm được chia làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày, 5 ngày
cịn thừa để cuối năm ăn tết. Năm mới của Ai Cập bắt đầu từ ngày nước sông
Nin bắt đầu dâng. Một năm được chia làm 3 mùa, mỗi mùa có 4 tháng. Đó là
mùa Nước dâng, mùa Ngũ cốc và mùa Thu hoạch.
3.4. Toán học

Do yêu cầu của việc xây dựng, sản xuất, người dân ở đây đã có khá nhiều hiểu
biết về toán học từ rất sớm. Người Ai Cập cổ ngay từ đầu đã biết dùng phép đếm lấy
10 làm cơ sở. Các chữ số cũng được dùng chữ tượng hình để biểu thị nhưng vì khơng
có số 0 nên cách viết chữ số của họ tương đối phức tạp. Họ chỉ mới biết phép cộng và
phép trừ, chưa biết đến phép nhân và chia. Đến thời Trung Vương quốc, mầm mống
của đại số học đã bắt đầu xuất hiện. Về hình học, họ đã biết cách tính diện tích hình
tam giác, diện tích hình cầu, biết được số p là 3,14. Họ cũng biết tính thể tích hình
tháp đáy vng. Họ cịn biết vận dụng mầm mống của lượng giác học.
3.5. Y học
 Người Ai Cập có những hiểu biết rất rõ về cấu tạo của cơ thể người do tục ướp

xác xuất hiện từ rất sớm. Nhờ đó, y học có cơ hội phát triển mạnh. Họ đã đề
cập đến nguyên nhân của bệnh tật, mối quan hệ giữa tim và mạch máu, các
loại bệnh, khả năng chữa trị, phương pháp khám bệnh... Họ hiểu rằng nguyên

nhân của bệnh tật không phải là do ma quỷ hoặc phù thuỷ gây nên mà là do sự
khơng bình thường của mạch máu. Người dân ở đây còn biết được tầm quan
trọng của óc và tim đối với sức khoẻ con người.
18

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

 Việc chữa bệnh đã được chun mơn hố rất tỉ mỉ. Y học được chia thành

nhiều chuyên môn. Mỗi thầy thuốc có một chun mơn riêng, chữa một loại
bệnh riêng.
3.6. Kiến trúc và điêu khắc

Kim tự tháp
 Kim tự tháp là các ngôi mộ của các Pharaông, được xây dựng ở vùng sa mạc

phía tây nam Cairơ. Kim tự tháp bắt đầu được xây dựng từ thời vua đầu tiên
của vương triều III. Đây là một ngơi tháp có bậc, đáy là một hình chữ nhật.
Xung quanh tháp có đền thờ và mộ của các thành viên trong gia đình và những
người thân cận. Vương triều IV là thời kỳ Kim tự tháp được xây dựng nhiều
nhất và đồ sộ nhất, với các kim tự tháp nổi tiếng như : Kêôp, Kêphren,
Mikêrin.
 Tuy nhiên, việc xây dựng các Kim tư tháp đã đem lại khơng ít tai hoạ cho

nhân dân. Bằng bàn tay và khối óc của mình, họ đã để lại cho văn minh nhân
loại những cơng trình kiến trúc vô giá. Trải qua gần 5000 năm, các Kim tự
tháp vẫn đứng sừng sững trên sa mạc bất chấp thời gian và mưa nắng.

Tượng Nhân sư
Tượng và phù điêu của Ai Cập cổ cũng là những thành tựu rất đáng chú ý. Các
Pharaông thường sai các nghệ nhân tạc tượng của mình và những người trong vương
thất. Tượng thường được tạc trên đá, gỗ hoặc được đúc bằng đồng. Bức tượng đẹp
nhất là tượng nữ hồng Nêfectiti. Cịn độc đáo nhất là tượng Nhân sư, những bức
tượng mình sư tử đầu người hoặc dê. Những tượng này thường được đặt trứơc cổng
đền miếu.
3.7.

Tôn giáo
 Giống như cư dân Việt cổ, người Ai Cập cũng thờ rất nhiều thứ : các thần tự

nhiên, linh hồn người chết, động vật, thần cây, thần đá, thần lửa...
 Các thần tự nhiên là Thiên thần, Địa thần và Thuỷ thần. Thiên thần là một nữ

thần. Địa thần là một nam thần. Thuỷ thần là thần sơng Nin. Thuỷ thần cũng
chính là thần Âm phủ, Diêm vương. Cũng giống như loài người, các thần cũng
thưòng kết hợp với nhau để tạo ra những vị thần mới.
 Về sau, cùng với sự hình thành của nhà nứơc tập quyền trung ương, thần Mặt

Trời trở thành vị thần quan trọng nhất. Nơi thờ thần Mặt Trời đầu tiên là thành
Iunu. Đến thời Trung Vương quốc, Thebes trở thành kinh đô của cả nước nên
thần Mặt Trời đã trở thành vị thần cao nhất của Ai Cập. Đến thời Ichnatôn,
thời Tân Vương quốc, ông đã tiến hành một cuộc cải cách tôn giáo do thế lực
của tầng lớp tăng lữ quá mạnh. Ông chủ trương thờ một vị thần Mặt Trời mới
19

Downloaded by v? ngoc ()



lOMoARcPSD|17343589

là Atôn. Thần Atôn đựơc coi là vị thần duy nhất nên việc thờ cúng các thần
khác đều bị cấm. Bên cạnh đó, người Ai Cập cịn thờ thần Mặt Trăng Tốt.
Thần Tốt là thần văn tự, kế toán và trí tuệ. Thần Mặt Trăng được thể hiện với
hình tượng một người có đầu chim hồng hạc hoặc đầu khỉ.
 Mặt khác, người dân ở đây cũng rất coi trọng việc thờ người chết. Theo họ,

mỗi con người đều có linh hồn như cái bóng ở trong gưong. Khi con người ra
đời thì linh hồn chui vào trong thân thể. Khi con người chết thì linh hồn chui
ra khỏi cơ thể. Sau đó, linh hồn độc lập khỏi cơ thể, con người khơng thể nhìn
thấy được. Linh hồn chỉ mất đi khi thi thể người chết bị phân huỷ hoàn tồn.
Do đó, nếu thi thể được bảo tồn thì linh hồn cũng sẽ khơng mất đi. Chính vì
quan niệm đó, người Ai Cập mới có tục ướp xác.
 Người Ai Cập còn thờ các loại động vật từ dã thú đến gia súc, chim mng

đến cơn trùng như chó sói, cá sấu, rắn, sơn dương, cừu, mèo, hồng hạc, bò
mộng. Ngồi ra, họ cịn thờ cả các con vật tưởng tượng như nhân sư, phượng
hồng.
CHƯƠNG 4.

KẾT LUẬN

Qua phần tìm hiểu sơ qua nói trên, tơi đã học hỏi được một số điều cơ bản về nền
văn minh Ai Cập cổ đại. Tơi nhận thấy Ai Cập cổ đại nói riêng và Trung Cận Đơng nói
chung là khu vực rất đặc biệt với nền văn minh phát triển từ rất sớm và tồn tại trong
thời gian khá lâu dài. Điều kiện tự nhiên của Ai Cập vừa thuận lợi vừa khắc nghiệt đã
tạo nên nét đặc trưng trong tính cách con người Ai Cập và trong văn hố Ai Cập nói
chung cũng như các cơng trình kiến trúc nói riêng. Cư dân ở đây là những người dũng
cảm, liều lĩnh, kiên nhẫn và chăm chỉ. Nhà nước Ai Cập ra đời từ rất sớm, mang tính

chất chuyên chế. Đời sống nhân dân vơ cùng cực khổ do bị áp bức bóc lột q nặng
nề. Chính vì vậy, tầng lớp áp bức đã khơng ít lần nổi dậy đấu tranh, lật đổ chế độ cai
trị. Ai Cập cũng đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược các vùng đất, các nước
khác. Mặt khác, Ai Cập cũng là đối tượng xâm lược của các thế lực bên ngồi. Có thể
nói, người dân Ai Cập sớm bước vào xã hội văn minh cùng những thành tựu vô cùng
to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống, bao gồm : chữ viết, văn hoá, tôn giáo, khoa học
tự nhiên, kiến trúc, điêu khắc... mà ngày nay nhân loại không thể phủ nhận được. Tất
cả đều là do sức sáng tạo thần kỳ của con người thuở đó. Tóm lại, Ai Cập cổ đại là một
đất nước rất vĩ đại, rất đáng tự hào, có vai trò quan trọng trong việc mở đường cho nền
văn minh nhân loại. Do đó, nghiên cứu về văn minh Ai Cập cũng là một công việc cần
thiết mà các học giả cần phải quan tâm.

20

Downloaded by v? ngoc ()


lOMoARcPSD|17343589

CHƯƠNG 5.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
LÊ SĨ GIÁO (chủ biên) và các tác giả, Dân tộc học đại cương, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 2000.
2.
NGUYỄN QUỐC HÙNG (chủ biên) và các tác giả, Những nền văn minh
rực rỡ cổ xưa, Tập I : Văn minh Ai Cập, Tây Á, Ấn Độ, NXB Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 1993.

3.
TRỊNH NHU, Đại cương lịch sử thế giới cổ đại, NXB Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1990.
4.
LƯƠNG NINH (chủ biên) và các tác giả, Lịch sử thế giới cổ đại, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1997.
5.
VŨ DƯƠNG NINH (chủ biên) và các tác giả, Lịch sử văn minh thế giới,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
6.
MAI LÝ QUẢNG (chủ biên) và các tác giả, 198 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới, NXB Thế giới, Hà Nội, 2002.
7.
NGUYỄN QUANG QUYỀN, Các chủng tộc loài người, NXB Khoa học
và kĩ thuật, Hà Nội, 1978.
8.
PHẠM HỒNG VIỆT, Một số vấn đề văn hoá thế giới cổ đại, NXB Thuận
Hoá, 1993.
9.
Almanach những nền văn minh thế giới, NXB Văn hố Thơng tin, Hà Nội,
1995.
10. Những vấn đề lịch sử xã hội nguyên thuỷ, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1963.
11. PH.ANGGHEN, Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà
nước, NXB Sự thật, Hà Nội, 1972.
12. PAUL KENNEDY, Hưng thịnh và suy vong của các cường quốc, NXB
Thơng tin Lí luận, Hà Nội, 1992.
13. G.N.MACHUSIN, Nguồn gốc loài người, NXB Khoa học và kĩ thuật, Hà
Nội, 1986.
14. L.I.MEDVEDKO, Về phía Đơng và phía Tây kênh Suez (tiếng Nga),
NXB Khoa học, Matxcơva, 1966.


21

Downloaded by v? ngoc ()



×