LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm nâng cao vai
trò của kiểm toán nhà nước trong nền
kinh tế hiện nay
Lời Nói Đầu
Trong nền kinh tế chuyển đổi, vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các
hoạt động kinh tế và xã hội càng trở nên cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Trong hệ công cụ điều tiết nền kinh tế, kiểm toán Nhà nước được coi như là một công
cụ cần thiết phụ trợ đắc lực cho quá trình quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế-điều đó được thể hiện rất rõ qua chức năng, nhiệm vụ của cơ quan kiểm toán
Nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả, hiệu lực của việc sử dụng
các nguồn lực tài chính quốc gia.
Cơ quan kiểm toán Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam được thành
lập ngày 11/7/1994 theo nghị định 70/CP của Chính phủ, được tổ chức và hoạt động
theo Quyết định 61/TTG của Thủ tướng chính phủ. Kể từ đó đến nay, sau 4 năm vừa
xây dựng tổ chức vừa đi vào hoạt động, kiểm toán Nhà nước bước đầu đã thu được
nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần làm lành mạnh hoá hoạt động tài chính
công,ngăn ngừa những hành vi vi phạm kỷ luật tài chính, chống lãng phí, giúp Nhà
nước quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Ngày nay, trong xu hướng hội nhập và sự phát triển đa năng của nền kinh tế
đòi hỏi hoạt động của kiểm toán Nhà nước, phải phát triển lên một tầm cao mới,
hướng tới những mục tiêu, nội dung và phương pháp kiểm toán quốc tế. Mặt khác để
góp sức mình trong công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước, kiểm toán Nhà
nước cần phải từng bước nâng cao vai trò của mình cũng như không ngừng củng cố
và hoàn thiện hệ thống kiểm toán Nhà nước, xây dựng và tổ chức bộ máy vững mạnh
xứng đáng là một cơ quan kiểm toán tối cao của một quốc gia.
Trong đề tài : “Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của kiểm toán nhà
nước trong nền kinh tế hiện nay ” em xin trình bày những nội dung sau:
Chương I: Lý luận chung về kiểm toán Nhà nước
Chương II: Cơ quan kiểm toán Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của kiểm toán Nhà
nước
Phần I
Lý luận chung.
I - Cơ sở lý luận :
Trong tình hình hiện nay, vai trò của kiểm toán đặc biệt là kiểm toán nhà nước
càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, từ nhiệm vụ chức năng, của mình, kiểm toán
nhà nước đã từng bước khẳng định nên điều đó trong việc giải quyết các vấn đề nổi
cộm của nền kinh tế và những vấn đề đã và đang tồn tại trong nền kinh tế cần được
giải quyết.
1- Quá trình vận hành nền kinh tế.
Kể từ khi Nhà nước thay đổi hướng phát triển của nền kinh tế, chuyển từ cơ
chế quản lý kế hoạch tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động
theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, hoạt động kinh tế có nhiều
chuyển biến rõ rệt, với chủ trương đa phương hoá đầu tư đa dạng hoá hình thức sở
hữu đã xuất hiện nhiều mối quan hệ phức tạp đan xen lẫn nhau, các thành phần kinh
tế cùng tồn tại trong một môi trường cạnh tranh và hợp tác theo pháp luật,hạch toán
kế toán đã trở thành công cụ cần thiết và quan trọng trong quá trình quản lý kinh tế.
Người quan tâm tới thông tin kế toán không chỉ trong nội bộ các doanh nghiệp,các tổ
chức kinh tế mà bao gồm cả các cơ quan Nhà nước,các nhà đầu tư và công chúng
Vì lẽ đó hệ thống thông tin kế toán chuẩn xác và đáng tin cậy phục vụ cho việc ra
quyết định đã trở thành xu hướng tất yếu của hoạt động quản lý.
2-Hoạt động kiểm toán ở Việt Nam.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập theo Nghị định 70/CP ngày
11/7/1994 của chính phủ và sau đó là Quyết định 61/TTg của Thủ tướng chính phủ
ban hành theo điều lệ tổ chức và hoạt động của kiểm toán Nhà nước. Từ đó đến nay
kiểm toán Nhà nước đã thực hiện được nhiều cuộc kiểm toán và thiết lập được 3
trung tâm kiểm toán đặt tại 3 khu vực: miền Bắc tại thủ đô Hà Nội, miền Nam tại
thành phố Hồ Chí Minh, miền Trung tại thành phố Đà Nẵng với số lượng 500 kiểm
toán viên. Đây mới chỉ là số lượng khiêm tốn so với nhu cầu đặt ra của nền kinh tế.
Bên cạnh hoạt động của kiểm toán Nhà nước các công ty kiểm toán độc lập cũng phát
triển mạnh trong đó có một công ty kiểm toán liên doanh giữa Việt Nam và nước
ngoài, 4 công ty kiểm toán có 100% vốn đầu tư nước ngoài, 4 công ty tư nhân. Như
vậy cho đến nay tại Việt Nam đã có 35 chi nhánh và văn phòng với số lượng 1268
người làm việc trong lĩnh vực kiểm toán vầ tư vấn tài chính kế toán tại Việt Nam.
II - Khái quát chung về kiểm toán Nhà nước.
1-Kiểm toán Nhà nước là gì?
Kiểm toán Nhà nước là việc kiểm toán do các cơ quan quản lý chức năng của
Nhà nước (tài chính, thuế ) và cơ quan kiểm toán Nhà nước tiến hành theo luật định.
Theo định nghĩa của Hiệp hội kiểm toán tối cao quốc tế (INTOSAI): “Cơ
quan kiểm toán tối cao được hiểu là một tổ chức công cộng của một Nhà nước được
chỉ định, thiết lập tổ chức theo các cách khác nhau, thực hiện theo luật định, chức
năng kiểm toán công cộng”
Điều 73 trong luật ngân sách Nhà nước Việt Nam đã ghi rõ: “Kiểm toán Nhà
nước là cơ quan thuộc chính phủ, thực hiện việc kiểm toán xác định tính đúng đắn
hợp pháp của các số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan Nhà nước, các
đơn vị có nhiệm vụ thu chi ngân sách Nhà nước theo quy định của Chính phủ”.
Hoạt động kiểm toán của kiểm toán Nhà nước là hướng vào hoạt động kiểm
toán tính tuân thủ xem xét việc chấp hành các chính sách luật lệ và chế độ của Nhà
nước tại đơn vị sử dụng vốn do ngân sách Nhà nước cấp. Ngoài ra kiểm toán Nhà
nước còn thực hiện kiểm toán tính hiệu năng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan có
sử dụng vốn kinh phí từ ngân sách Nhà nước.
2 - Đặc điểm tổ chức của kiểm toán Nhà nước của một số nước trên thế giới.
Trên thế giới cơ quan kiểm toán Nhà nước có thể trực thuộc chính phủ (cơ
quan hành pháp); Quốc hội (cơ quan lập pháp ); Toà án (cơ quan tư pháp). Nước Mỹ
văn phòng kế toán trưởng Hoa kỳ (GAO) là một cơ quan trung lập của chính quyền
liên bang. Tổ chức GAO có nhiệm vụ báo cáo và chịu trách nhiệm trực tiếp với Quốc
Hội. Trách nhiệm trước tiên của kiểm toán viên thuộc GAO là thực hiện chức năng
kiểm toán cho Quốc Hội.
Tại Cộng Hoà Liên bang Đức: cơ quan kiểm toán Nhà nước cũng như các
bang đều do Quốc hội liên bang hoặc do bang lập ra nhưng có vị trí độc lập với cả
hành pháp, tư pháp và lập pháp, do đó có vị trí khách quan trong việc kiểm tra, giám
sát ở các đơn vị sử dụng nguồn vốn của Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước do Quốc
hội lập ra nhưng không phụ thuộc vào quốc hội.
Cộng hoà Pháp có Toà thẩm kế Pháp, Toà này vừa thực hiện chức năng của
cơ quan kiểm toán Nhà nước vừa thực hiện chức năng cuả cơ quan xét xử,như một
toà án không phụ thuộc vào các cơ quan hành pháp tư pháp và lập pháp. Toà thẩm kế
Pháp có quyền kiểm tra tất cả các cơ quan chính quyền Nhà nước (trừ tài khoản của
tống thống,Quốc Hội,thượng viện và uỷ ban tư pháp). Các công sở quốc gia toà thẩm
kế Pháp có quyền xét xử như một toà án,bằng các phán quyết của mình toà có thể
quy kết trách nhiệm cá nhân và tiền bạc của các kế toán viên công và các thủ quỹ mà
họ nắm giữ. Có thể ra lệnh cho họ lấy tiền túi ra đền cho các khoản chi không hợp lệ.
3 - Đặc điểm của kiểm toán Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
a) Cơ quan kiểm toán Nhà nước Việt Nam là cơ quan thành lập và tổ chức
theo nguyên tắc tập trung thống nhất. Đặc điểm này được điều lệ tổ chức và hoạt
động cơ quan kiểm toán Nhà nước khẳng định là hoàn toàn đúng đắn. Thực tiễn cũng
chỉ ra rằng, chỉ có một cơ quan kiểm toán Nhà nước tập trung thống nhất là phù hợp
với tính thống nhất của quốc gia và chế độ kinh tế xã hội của Việt Nam đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, sự thống nhất và tập trung cao của nền tài chính quốc gia đặc biệt
là nền tài chính công.
b) Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là cơ cấu trong bộ máy quản lý Nhà nước.
Trong thông báo số 18 /TB của thủ tướng chính phủ ngày 17 /12/1996 có nêu: “Kiểm
toán nhà nước Việt Nam là một cơ cấu mới trong bộ máy Nhà nước”. Như vậy kiểm
toán Nhà nước không phải là một tổ chức chuyên môn mà là một cơ quan Nhà nước
do vậy phải tuân thủ nguyên tắc tổ chức xây dựng bộ máy Nhà nước, thực hiện chức
năng nhiệm vụ được luật pháp quy định và chính phủ giao cho.
c) Cơ quan kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra chuyên về tài chính công
từ bên ngoài các hoạt động tài chính của chính quyến Nhà nước, doanh nghiệp Nhà
nước các đơn vị có sử dụng vốn từ kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp.
d) Kiểm toán Nhà nước là cơ quan tối cao của nước Cộng Hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong lĩnh vực kiểm toán thể hiện trong những điểm sau:
- Cơ quan này có trách nhiệm trước Nhà nước trong lĩnh vực kiểm toán.
- Có quyền cao nhất trong hoạt động kiểm toán trong cả nước.
- Hướng dẫn chỉ đạo phối hợp hoạt động các đơn vị trực thuộc nội bộ kiểm
toán các doanh nghiệp.
- Thực hiện quyền kiểm toán toàn bộ các hoạt động kiểm toán như kiểm toán
độclập, kiểmtoán toàn bộ.
e) Ngoài những đặc điểm đã nêu trên,kiểm toán Nhà nước là cơ có chức năng
đối ngoại và hợp tác. Thể hiện mối quan hệ giữa các cơ quan kiểm toán Nhà nước
Việt nam và các cơ quan kiểm toán tối cao của cac nước trong khu cũng như trên
toàn thế giới.
III-Địa vị pháp lý chức năng nhiệm vụ của kiểm toán Nhà nước.
1 - Địa vị pháp lý :
Địa vị pháp lý của cơ quan kiểm toán Nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc xây dựng, phát triển tổ chức và điều hành hoạt động của kiểm toán Nhà
nước. Kinh nghiệm từ thực tế cho thấy các nước có kiểm toán Nhà nước phát triển
thì việc tổ chức và hoạt động của kiểm toán được quy định cụ thể rõ ràng trong hiến
pháp và trong từng điều luật của các bộ luật cụ thể.
Trung Quốc, khi chuẩn bị cho kiểm toán Nhà nước ra đời năm 1983 thì trước
đó một năm nghĩa là năm 1982 đã tiến hành sửa đổi và bổ sung vào hiến pháp thêm
điều luật về kiểm toán Nhà nước, sau đó là điều luật về ngân sách Nhà nước, trong
luật kiểm toán Nhà nước nêu ra thấy rõ “Quốc vụ viện lập ra cục kiểm toán tối cao để
lãnh đạo hoạt động kiểm toán trong toàn quốc dưới sự lãnh đạo của thủ tướng,quốc
vụ viện ”. Liên bang Nga trong điều 1 của luật liên bang nói rõ: “Cục kiểm toán liên
bang Nga là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của hệ thống kiểm tra tài
chính của Nhà nước.” Còn trong điều một của Cộng hoà liên bang Đức có nói: “Cơ
quan kiểm toán liên bang là cơ quan có quyền tối cao của liên bang Đức với tư cách
là một thể chế độc lập về kiểm tra tài chính ” Điều 114 khoản 2 trong Hiến pháp
1992 (đã sửa đổi) quy định: “Cơ quan kiểm toán liên bang phải nộp báo cáo trực tiếp
cho Chính phủ Liên bang cũng như nghị viện liên bang & cho Hội đồng Liên bang sẽ
được điều chỉnh bằng luật Liên bang.” Những quy định trên cho thấy Kiểm toán Nhà
nước có vị trí rất cao, ngoài ra chúng ta còn thấy trong một số điều khoản luật ở
những nước này còn quy định cụ thể chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm toán
Nhà nước.
Một vấn đề mang tính nguyên tắc là kiểm toán Nhà nước hình thành và hoạt
động trên cơ sở pháp luật bảo đảm. Kiểm toán Nhà nước hoạt động độc lập chỉ tuân
theo pháp luật do đó đòi hỏi cần có địa vị pháp lí và luật đầy đủ, rõ ràng cụ thể. Có
như vậy mới đáp ứng được yêu cầu kiểm tra tài chính của tất cả các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội có sử dụng ngân sách Nhà nước. Mặt khác, trong tiến trình
hội nhập quốc tế cũng đòi hỏi kiểm toán Nhà nước phải có một địa vị pháp lí đầy đủ
mà theo như chuẩn mực kiểm toán quốc tế và thông lệ quốc tế đều có.
Kiểm toán Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam được thành lập năm
1994 trên cơ sở Nghị Định số 70/CP ngày 11.7.1994 của chính phủ về việc thành lập
cơ quan kiểm toán Nhà nước,được hoạt động theo quyết định số 61/TTg ngày
24.1.1995 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động của
kiểm toán Nhà nước. Từ kinh nghiệm các nước có kiểm toán Nhà nước phát triển ,địa
vị pháp lí của kiểm toán Nhà nước Việt nam đã và đang từng bước củng cố, hoàn
thiện và phát triển trong điều 73 Luật Ngân sách Nhà nước quy định “kiểm toán Nhà
nước là cơ quan thuộc Chính Phủ ”, cũng trong luật này điều 74 xác định tính độc
lập của kiểm toán Nhà nước,quy định về quyền kiểm toán Nhà nước khi thuộc nhiệm
vụ kiểm toán và trách nhiệm phải báo cáo kết quả kiểm toán với chính phủ,Quốc hội
và Uỷ ban thường vụ Quốc hội khi có yêu cầu.Tại điều 70 và điều 2 của Luật Ngân
sách Nhà nước mới chỉ giới hạn trách nhiệm kiểm toán Nhà nước trong trường hợp
cơ quan quyền lực chưa phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước và Ngân sách địa
phương. Rõ ràng là kiểm toán Nhà nước chưa có điều luật nào nói lên chức năng và
nhiệm vụ của hoạt động kiểm toán,cũng vấn đề này trong luật thuế,pháp lệnh kế toán
thống kê,luật doanh nghiệp Nhà nước vị trí của kiểm toán chưa được nhắc đến.
Đặc biệt là quan hệ giữa kiểm toán nhà nước và kiểm toán độc lập, giữa kiểm toán
Nhà nước và các Bộ ngành, địa phương, giữa kiểm toán Nhà nước với kiểm toán nội
bộ vẫn chưa có điều luật nào của Nhà nước quy định cụ thể. Như vậy địa vị pháp lí
của kiểm toán Nhà nước mới chỉ giới hạn ở một số điều luật trong đó chưa quy định
rõ và cụ thể. Trong khi đó vai trò của kiểm toán Nhà nước đã được nâng lên một tầm
cao mới trong điều kiện phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt là đã góp phần không
nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, định hướng xã hội chủ
nghĩa.
2/Chức năng kiểm toán Nhà nước
Qua sự trao đổi và học hỏi kinh nghiệm các nước có hoạt động kiểm toán Nhà
nước phát triển cho thấy hoạt động của cơ quan kiểm toán Nhà nước thường hướng
vào:
* Kiểm toán tài chính (Financial Audit)
* Kiểm toán tuân thủ (Comphiance Audit)
* Kiểm toán hoạt động (Operation Audit)
* Một trong những hoạt động thường thấy ở tất cả các cơ quan kiểm
toán Nhà nước trên thế giới là việc kiểm tra và xác nhận tính đúng đắn và hợp pháp
của các số liệu,thông tin được thể hiện trong báo cáo tài chính hàng năm của các tổ
chức kinh tế bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp có cổ phần
Nhà nước. Trên cơ sở kết quả của hoạt động kiểm toán, kiểm toán Nhà nước đưa ra
các ý kiến, kiến nghị cho đơn vị được kiểm toán, các cơ quan có thẩm quyền trên cơ
sở đó có những biện pháp thích hợp để cải tạo tình hình. Trong xu thế hiện nay việc
kiểm tra của cơ quan kiểm toán Nhà nước ngày càng được mở rộng mà thể hiện là
không chỉ chú trọng đến kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ mà bên cạnh đó
kiểm toán Nhà nước thông qua kiểm toán hoạt động đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả
kinh tế xã hội, các mặt hoạt động của chủ thể kinh tế cũng đang là trọng điểm của
hoạt động kiểm toán Nhà nước.
* Chức năng của cơ quan kiểm toán Nhà nước:
Kiểm toán Nhà nước phải báo cáo và tư vấn cho Quốc hội trong những quyết
định của Quốc hội, không những ở chừng mực Quốc hội là cơ quan giám sát cơ quan
hành pháp mà cả trong việc thực hiện những nhiệm vụ của mình, với tư cách là cơ
quan ban hành luật ngân sách và các đạo luật chuyên môn có hiệu lực tài chính.
Kiểm toán Nhà nước cần phải báo cáo và tư vấn cho Chính phủ, cụ thể là báo
cáo cho cấp quản lí hành chính Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình,
đồng thời báo cáo cho cấp lãnh đạo trong công tác lãnh đạo cơ quan hành chính Nhà
nước,cũng như về tác động tài chính của biện pháp đề ra.
Kiểm toán Nhà nước thực hiện chức năng phòng ngừa và răn đe đối với bộ
máy hành chính Nhà nước, chống lại việc sử dụng phung phí và lạm dụng các
phương tiện tài chính của Nhà nước.
Kiểm toán Nhà nước cần phải thông báo cho công luận về việc sử dụng các
phương tiện tài chính Nhà nước,của Chính phủ và Quốc hội.
3/Nhiệm vụ của kiểm toán Nhà nước.
Trong một nhà nước pháp quyền hiện đại, với tư cách là cơ quan kiểm toán tối
cao của một nhà nước, kiểm toán nhà nước phải thực hiện những nhiệm vụ quan
trọng sau:
a/ Thực hiện nhiệm vụ và quyền kiểm toán tất cả các hoạt động kiểm toán của
đất nước và kiểm toán tài chính công đối với các cơ quan hành chính, các doanh
nghiệp và các dự án, các chương trình chính phủ. b/ Thực hiện nhiệm vụ hướng
dẫn, chỉ đạo công tác kiểm toán trong cả nước. Với tư cách là cơ quan kiểm toán tối
cao của một quốc gia mặc nhiên cơ quan kiểm toán Nhà nước phải đảm nhiệm trọng
trách vô cùng quan trọng cụ thể là:
- Cơ quan kiểm toán Nhà nước đánh giá và ấn định cả những chuẩn mực, quy
trình kiểm toán áp dụng cho các cơ quan kiểm toán nội bộ.
- Trong trường hợp kiểm toán độc lập có tham gia vào kiểm toán các doanh
nghiệp Nhà nước thì chịu sự phê chuẩn của kiểm toán Nhà nước trên hai phương diện
sau:
+ Một là: kiểm toán Nhà nước đánh giá báo cáo kiểm toán độc lập về quyết
toán năm.
+ Hai là: kiểm toán Nhà nước định ra các chuẩn mực và quy trình kiểm toán.
c/ Thực hiện nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ kiểm toán viên,
hoàn thiện tổ chức hệ thống thông tin kỹ năng kiểm toán thành lập hội đồng nghiên
cứu khoa học về kiểm toán Những nhiệm vụ này được đặt ra cho kiểm toán Nhà
nước với tư cách là một cơ quan có nghiệp vụ chuyên biệt và có tính độc lập cao.
d/ Thực hiện nhiệm vụ quản lý hệ thống kiểm toán Nhà nước trên hai lĩnh vực
hành chính và chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan, các công chức trong hệ thống
kiểm toán từ Trung ương đến địa phương.
Phần II
Cơ quan kiểm toán Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập theo nghị định số 70/CP của
chính phủ ngày 11/7/1994 và được tổ chức hoạt động theo quyết định số 61 /Ttg ngày
24/1/1995 của thủ tướng chính phủ về việc ban hành điều lệ tổ chức hoạt động của
kiểm toán Nhà nước.
Kể từ đó tới nay, sau 4 năm ổn định và phát triển bộ máy tổ chức và triển khai
hoạt động kiểm toán, kiểm toán Nhà nước đã bước đầu ổn định việc tổ chức và cơ
chế hoạt động. Trong 4 năm qua kiểm toán Nhà nước đã tích cực hoạt động và đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ, góp phần ổn định nền tài chính quốc gia, đóng góp
tích cức vào công tác phòng chống tham ô và tham nhũng trong bộ máy kinh tế, tiết
kiệm chi và thu cho ngân sách Nhà nước hàng nghìn tỷ đồng Bên cạnh những thành
tích đã đạt được, hoạt động kiểm toán Nhà nước vẫn còn gặp nhiều khó khăn cũng
như những mặt hạn chế cần khắc phục. Song về cơ bản bằng những kết quả mà kiểm toán
Nhà nước đã đạt được, kiểm toán Nhà nước từng bước khẳng định vị trí cũng như vai trò
to lớn của mình trong quá trình ổn định nền tài chính làm ổn định và phát triển nền kinh
tế đất nước.
I - Những kết quả đạt được sau bốn năm xây dựng tổ chức và hoạt động.
1- Xây dựng, tổ chức bộ máy.
Việc tổ chức và quản lý kiểm toán Nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc
tập trung thống nhất. Theo nguyên tắc này, cơ quan kiểm toán Nhà nước Việt Nam
được tổ chức thống nhất từ trên xuống, là một cơ quan của Chính phủ và thực hiện
chế độ một thủ trưởng trong suốt quá trình xây dựng, tổ chức và phát triển bộ máy
kiểm toán Nhà nước.
1.1. Bộ máy lãnh đạo.
Đã bổ nhiệm Tổng Kiểm toán Nhà nước và các phó tổng kiểm toán giúp việc.
Tổng kiểm toán Nhà nước do thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, có vị trí cao nhất trong
bộ máy lãnh đạo, với cương vị lãnh đạo cao nhất, tổng kiểm toán phân giao nhiệm vụ,
quyết định về nhân sự, xây dựng kế hoạch và dự thảo trình Chính phủ đồng thời trên
cơ sở nhiệm vụ do Chính phủ giao cho, Tổng kiểm toán lên kế hoạch xây dựng cơ
chế hoạt động, tổ chức các đoàn kiểm toán, báo cáo kết quả kiểm toán lên Chính phủ.
1.2. Bộ máy giúp việc.
Thành lập các Vụ kiểm toán chuyên ngành:
- Kiểm toán Ngân sách Nhà nước (từ Trung ương đến địa phương)
- Kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình, dự án vay nợ viện
trợ Chính phủ.
- Kiểm toán doanh nghiệp Nhà nước.
- Kiểm toán các chương trình đặc biệt.
- Văn phòng kiểm toán Nhà nước (ngang cấp Vụ)
Trên cơ sở nội dung Nghị định 70/CP của Chính phủ, Tổng kiểm toán bổ
nhiệm các kiểm toán trưởng, phó kiểm toán trưởng ở ba khu vực Bắc, Trung, Nam.
Bổ nhiệm chánh, phó văn phòng. Kiểm toán trưởng khu vực giao nhiệm vụ cho các
Vụ kiểm toán, văn phòng kiểm toán.
1.3. Hội đồng kiểm toán.
Hội đồng kiểm toán là hội đồng tư vấn cho Tổng kiểm toán, Hội đồng này
không thường trực mà chỉ thành lập khi cần thiết để thẩm định lại kết quả và báo cáo
kiểm toán của các cuộc kiểm toán đã thực hiện. Cơ cấu Hội đồng kiểm toán gồm
Tổng kiểm toán Nhà nước đứng đầu, các thành viên: các phó tổng kiểm toán, kiểm
toán trưởng, chánh văn phòng, khi cần thiết có thể mời thêm các chuyên gia.
1.4. Kiểm toán khu vực.
Triển khai việc xây dựng và tổ chức bộ máy kiểm toán Nhà nước, cho đến nay
đã thành lập được ba kiểm toán khu vực trực thuộc Tổng kiểm toán Nhà nước. Miền
Bắc đặt tại Hà Nội, miền Trung đặt tại thành phố Đà Nẵng, miền Nam tại thành phố
Hồ Chí Minh.
Như vậy về bước đầu, xây dựng, tổ chức bộ máy kiểm toán Nhà nước đã đạt
được kết quả đáng khích lệ, về cơ cấu tổ chức tương đối hợp lý trong thời gian qua,
chính vì vậy kiểm toán Nhà nước đã khẳng định được vị trí quan trọng của mình
trong nền kinh tế khẳng định được vai trò kiểm tra; kiểm soát của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
2 - Hoạt động của kiểm toán Nhà nước Việt Nam.
Kiểm toán Nhà nước sau bốn năm hoạt động đã bước đầu ổn định về tổ chức
và cơ chế hoạt động (như đã trình bày ở phần trước). Chính vì vậy kiểm toán Nhà nước
đã được xã hội thừa nhận và nhận được nhiều sự hợp tác và ủng hộ của các cấp, các
ngành, các tổ chức trong và ngoài nước.
Trong bốn năm qua kiểm toán Nhà nước đã tiến hành được gần 1500 cuộc
kiểm toán đối với hầu hết các tỉnh, thành, nhiều bộ ngành và hàng trăm doanh nghiệp
lớn của Nhà nước, các công trình XDCB trọng điểm, qua hoạt động đó đã giúp tiết
kiệm và tăng thu cho ngân sách Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng, kịp thời ngăn chặn và
xử lý các hiện tượng tiêu cực, những hành vi sai trái, gian lận trong quản lý và sử
dụng các nguồn lực của đất nước.
Kiểm toán Nhà nước đã góp phần thiết lập trật tự và kỷ cương quản lý nền
kinh tế tài chính trong tình hình mới, tạo ra tiền đề hết sức quan trọng trong việc nhận
thức vấn đề “từ nay các cơ quan đơn vị tổ chức có hoạt động thu chi ngân sách Nhà
nước đến phải được kiểm tra bắt buộc bởi cơ quan kiểm toán Nhà nước”. Giúp các
đơn vị kinh tế chấn chính công tác quản lý, hướng tới mục tiệu hiệu quả, điều chỉnh
các biện pháp quản lý, tư vấn cho các ban ngành xem xét và hoàn chỉnh các cơ chế
chính sách cho phù hợp với thực tiễn.
3. Chuẩn bị hướng phát triển lâu dài.
Hội đồng khoa học của kiểm toán Nhà nước đã xúc tiến việc nghiên cứu các
đề tài khoa học liên quan đến địa vị pháp lý của cơ quan kiểm toán tối cao, cơ chế
hoạt động kiểm toán Nhà nước, chuẩn mực kiểm toán Nhà nước qui trình kiểm toán,
những vấn đề cơ bản của cuộc kiểm toán v.v
Hoạt động của Hội đồng khoa học, Trung tâm khoa học đã và đang bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ kiểm toán, bám sát vào những định hướng phát triển lâu dài của ngành
để tổ chức công tác nghiên cứu, bồi dưỡng kiểm toán viên.
4. Các hoạt động đối ngoại của cơ quan kiểm toán Nhà nước Việt Nam.
Cơ quan kiểm toán Nhà nước Việt Nam chính thức là một thành viên của tổ
chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI) tháng 4 - 1996, là thành vien
của tổ các cơ quan kiểm toán tối cao Châu á - Thái Bình Dương (ASOSAI) vào tháng
1 - 1997. Cơ quan kiểm toán Nhà nước Việt Nam có quan hệ hợp tác song phương và
đa phương với các cơ quan kiểm toán tối cao của nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới.
5. Đội ngũ cán bộ kiểm toán Nhà nước.
Hiện nay kiểm toán Nhà nước có gần 500 cán bộ ở Trung ương và ba khu vực.
Dự kiến đến năm 2000 kiểm toán Nhà nước có từ 1500 - 2000 cán bộ. Với đội ngũ
cán bộ hiện có chủ yếu nguồn đào tạo từ các trường đại học tài chính kế toán, đại học
kinh tế quốc dân, phần lớn là đã qua công tác tài chính kế toán ở các bộ ngành, địa
phương.
Nhìn chung, thực trạng đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước có sự không đồng
đều về kinh nghiệm, cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có thể phân tách đội
ngũ cán bộ kiểm toán ra hai nhóm cơ bản:
Nhóm 1: Những người đã từng giữ cương vị công chức ngành tài chính của
khối Trung ương và địa phương, kế toán trưởng của các Tổng Công ty, kế toán
trưởng ở các doanh nghiệp hạng I. Số lượng cán bộ thuộc nhóm này có bề dày kinh
nghiệm trong công tác quản lý, có khả năng chuyên môn hoá hay đa năng hoá về kiến
thức, chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng tổng hợp ở tầm vĩ mô có thể tham gia vào
việc hoạch định chính sách, nhưng số lượng cán bộ này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số
kiểm toán viên Nhà nước.
Nhóm 2: Những người đã từng làm kiểm toán ở các doanh nghiệp Nhà nước,
viên chức chuyên môn của các ngành, địa phương là đội ngũ cán bộ có khả năng
chuyên môn khá sâu, thành thạo nghiệp vụ cụ thể ở tầm vi mô nhưng lại hạn chế
phần năng lực quản lý tổng hợp ở tầm vĩ mô, số này chiếm tỷ lệ lớn.
Ngoài hai nhóm trên còn có các trợ lý kiểm toán viên trong thời gian tập sự
chiếm khoảng 29%, là số cán bộ được đào tạo trong các trường đại học trong kỳ đổi
mới số này cần được kèm cặp, bồi dưỡng nhiều về kiến thức và kinh nghiệm kiểm
toán, song họ lại được trang bị những kiến thức hiện đại của nền kinh tế thị trường, là
những cán bộ có ưu thế tiếp cận nhanh với những thành tựu khoa học - kỹ thuật mới.
Thực trạng đào tạo đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước: Từ những yêu cầu đặt ra
của nền kinh tế thị trường, nhu cầu về đào tạo kiểm toán là rất lớn. Trong quá trình
xây dựng tổ chức và hoạt động, kiểm toán Nhà nước đã mở được 4 khoá tập huấn
nghiệp vụ kiểm toán cho kiểm toán Nhà nước từ Trung ương và các khu vực nhằm
trang bị những kiến thức về luật pháp, chính sách tài chính kế toán, kiểm toán, đào
tạo hai khoá quản lý Nhà nước về ngạch chuyên viên.
Đã phối hợp với dự án ADB và dự án ODA của cộng hoà Liên bang Đức,
kiểm toán Nhà nước đã cử nhiều đoàn cán bộ đi khảo sát, nghiên cứu chuyên đề ở
nước ngoài, cử thực tập sinh đi học ở nước ngoài, bồi dưỡng thêm về tin học, ngoại
ngữ cho kiểm toán viên Nhà nước.
II - Mặt hạn chế.
1. Trong quá trình xây dựng, tổ chức.
1.1. Tổ chức các vụ kiểm toán chuyên ngành chưa hợp lý
Qua việc nghiên cứu các mô hình tổ chức kiểm toán Nhà nước của các nước
có thể tìm thấy điểm chung là:
Không thể căn cứ vào chức năng chuyên trách của các hoạt động kiểm toán để
tổ chức các Vụ kiểm toán mà cần phải căn cứ vào tính chất, phạm vi công việc để tổ
chức ra các Vụ, các cấp Vụ kiểm toán, và được điều tiết bởi kế hoạch công tác kiểm
toán của Nhà nước.
Việt Nam, chức năng nhiệm vụ của các Vụ kiểm toán chuyên ngành là quá
rộng lớn, có nhiều mối liên hệ đan xen nhau trong hoạt động kiểm toán. Xin đơn cử
một số vấn đề về ngân sách Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, ngân sách Nhà nước
gắn liền với hệ thống bộ máy Nhà nước các cấp từ Trung ương xuống địa phương,
ngân sách Nhà nước gắn với tất cả các ngành, các cơ quan, các tổ chức kinh tế - xã
hội có chức năng, nhiệm vụ khác nhau phục vụ cho mục đích quản lý của Nhà nước.
Doanh nghiệp Nhà nước bao gồm các đơn vị kinh tế có nguồn kinh phí từ ngân sách
Nhà nước cấp các doanh nghiệp Nhà nước nằm trong nhiều ngành khác nhau mang
tính then chốt trong nền kinh tế mặt khác doanh nghiệp Nhà nước trong từng ngành
lại gồm nhiều loại hình khác nhau (về hình thức sở hữu) như: Doanh nghiệp liên
doanh với nước ngoài, doanh nghiệp vốn do hoàn toàn Nhà nước cấp, doanh nghiệp
có cổ phần Nhà nước khống chế v.v Từ vấn đề nêu ra cho thấy chức năng nhiệm vụ
của các Vụ kiểm toán chuyên ngành như kiểm toán ngân sách Nhà nước hay kiểm
toán doanh nghiệp Nhà nước là rất rộng, nó có liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt
động khác nhau trong nền kinh tế.
Số lượng Vụ kiểm toán chuyên ngành như hiện nay chưa đảm bảo được yêu
cầu theo tính chất phạm vi công tác tài chính - kế toán ở các cơ quan các cấp, các
doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức xã hội. Trong mỗi vụ do số lượng cán bộ còn bị
hạn chế chưa thể tổ chức ra các chuyên ban để kiêm trách một số công việc kiểm toán
cụ thể có tính chất tương đồng - vì lý do đó mà quyền hạn và trách nhiệm chưa mang
tính giới hạn cụ thể. Như vậy về lâu dài chưa đảm bảo tính ổn định tổ chức trong cơ
cấu tổ chức cơ quan kiểm toán Nhà nước Việt nam.
1.2. Văn phòng kiểm toán Nhà nước còn kiêm trách quá nhiều công việc
Văn phòng kiểm toán Nhà nước hiện nay bao gồm các bộ phận tổ chức nhân
sự, quan hệ quốc tế, pháp chế, tài chính kế toán, hành chính quản trị.
Với tư cách là tổng hợp tham mưu cho cấp lãnh đạo, văn phòng kiểm toán Nhà
nước có vị trí tương đối với các Vụ kiểm toán chuyên ngành nhưng cơ cấu trong văn
phòng kiểm toán Nhà nước lại bao gồm nhiều bộ phận chức năng khác nhau. Như
vậy trong một chừng mực nào đó, có thể các bộ phận của văn phòng kiểm toán Nhà
nước không thể hiện được tính chuyên sâu trong từng công việc - hạn chế này rất có
thể ảnh hưởng đến tính hiệu quả của từng công việc.
1.3. Hội đồng kiểm toán Nhà nước được thành lập chưa mang tính thường
trực.
Hội đồng kiểm toán Nhà nước Việt Nam như hiện nay được xác định là Hội
đồng tư vấn cho tổng kiểm toán Nhà nước, Hội đồng này được lập ra và hoạt động
không mang tính thường trực, chỉ được lập ra khi cần thiết để thẩm định lại kết quả
và báo cáo kiểm toán của các cuộc kiểm toán đã thực hiện.
ở Nhật Bản, Hội đồng kiểm toán được lập ra nhằm thực hiện việc kiểm tra lại
kết quả và báo cáo kiểm toán của các cuộc kiểm toán đã thực hiện. Hội đồng kiểm
toán này cùng với Chủ tịch Uỷ ban kiểm toán Nhà nước gánh vác trách nhiệm đồng
thời bảo đảm cho các quyết định của Chủ tịch Uỷ ban kiểm toán có cơ sở và mang
tính khách quan, chúng ta cũng có thể thấy ở một số nước khác cũng tương tự như
vậy.
Từ việc tham khảo kinh nghiệm tổ chức bộ máy kiểm toán Nhà nước ở một
số nước trên thế giới chúng ta nên có Hội đồng kiểm toán mang tính thường trực,
cùng chia xẻ trách nhiệm với tổng kiểm toán Nhà nước, đảm bảo cho các quyết định
của tổng kiểm toán Nhà nước có cơ sở và mang tính khách quan.
2. Hạn chế trong quá trình hoạt động.
2.1. Địa vị pháp lý của kiểm toán Nhà nước.
Địa vị pháp lý là một trong những yếu tố góp phần tích cực nâng cao hiệu quả
và tính năng hoạt động của kiểm toán Nhà nước, tuy nhiên địa vị pháp lý của kiểm
toán Nhà nước Việt Nam mới chỉ giới hạn trong một số văn bản pháp quy và trong
một số điều khoản của luật ngân sách Nhà nước. Theo thông lệ quốc tế hoạt động của
cơ quan kiểm toán Nhà nước chỉ tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật, rõ ràng trong
sự sánh quốc tế, địa vị pháp lý của kiểm toán Nhà nước Việt Nam là chưa tương
xứng, chưa cao và chưa rõ ràng cụ thể, điều đó đã gây ảnh hưởng không ít đến hiệu
quả hoạt động của kiểm toán mà biểu hiện là tính độc lập khách quan của hoạt động
kiểm toán Nhà nước là chưa cao, thiếu những căn cứ pháp lý cho việc tổ chức thực
hiện hoạt động kiểm toán.
2.2. Những qui định mang tính pháp lý
Các văn bản pháp lý về kiểm toán chưa đủ tầm và chưa đầy đủ, nhiều qui
định về kế toán kiểm toán còn thiếu, chưa cụ thể hoặc tính pháp lý chưa rõ ràng,
chưa cao. Một số qui định không phù hợp với yêu cầu phát triển hiện nay, chưa phù
hợp với thông lệ quốc tế. Sự hạn chế này ảnh hưởng đến quan hệ giữa cơ quan
kiểm toán Nhà nước với các cơ quan chức năng, các ngành các cấp trong hệ thống
bộ máy quản lý Nhà nước về vị trí chức năng vai trò cũng như trong quá trình phối hợp
hoạt động, mặt khác chưa tạo và được một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh để Nhà nước
quản lý thống nhất hoạt động kiểm toán trong toàn bộ quốc gia.
2.3. Chuẩn mực kiểm toán
Một cách khái quát chung về chuẩn mực kiểm toán là những nguyên tắc cơ
bản và những hướng dẫn kỹ thuật và trình tự công việc kiểm toán.
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế là chuẩn mực do Liên đoàn kế toán quốc tế
(IFAC) công bố, còn chuẩn mực kiêm toán quốc gia do các nước công bố. Từ thực tế,
cho thấy những năm qua, chưa có chuẩn mực kiểm toán quốc gia để làm cơ sở cho
hoạt động kiểm toán điều đó đã gây không ít khó khăn trong quá trình kiểm toán mà
cụ thể là trình tự kiểm toán, qui trình kiểm toán, kỹ thuật kiểm toán, phương pháp
nghiệp vụ kiểm toán mới chỉ dựa trên cơ sở những kinh nghiệm chứ chưa có chuẩn
mực cụ thể, do vậy cũng sẽ gây rất nhiều khó khăn trong quá trình quản lý hoạt
động kiểm toán của cơ quan kiểm toán Nhà nước.
Phần III
Những ý kiến, giải pháp nhằm nâng cao vai trò kiểm toán Nhà nước
Từ những yêu cầu bức thiết của nền kinh tế đặt ra đối với hoạt động kiểm
toán, cần thiết phải nâng cao hơn nữa vai trò của kiểm toán Nhà nước trong hoạt
động quản lý vĩ mô của Nhà nước, từng bước xây dựng củng cố và hoàn thiện hệ
thống là bộ máy kiểm toán Nhà nước từng trung ương đến khu vực. Để thực hiện
được những điều đó trước hết kiểm toán Nhà nước cần thực hiện đồng bộ các chức
năng cơ bản đã được Chính phủ quy định, tiếp tục hoàn thiện địa vị pháp lý của kiểm
toán Nhà nước phù hợp với chức năng nhiệm vụ quan trọng mà nền kinh tế đặt ra,
đồng thời phải có biện pháp nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kiểm toán cập nhật
thông tin, kiến thức hiện đại, hướng tới những mục tiêu, nội dung và phương pháp
kiểm toán quốc tế. Bên cạnh đó Nhà nước cần có những chính sách đầu tư và
khuyến khích đúng mức cho kiểm toán phát triển, cuối cùng là xác định rõ quyền
hạn và trách nhiệm của kiểm toán Nhà nước.
Với phương hướng nêu trên, để nâng cao hơn nữa vai trò của kiểm toán Nhà
nước chúng ta cần phải cụ thể hoá và tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
I. Chức năng của kiểm toán Nhà nước.
Kiểm toán Nhà nước cần thực hiện đồng bộ các chức năng cơ bản đã được
Chính phủ qui định trong đó cần làm tốt chức năng quản lý các hoạt động kiểm
toán Nhà nước cụ thể là:
Xác định đúng các mục tiêu phương hướng, kế toán ngắn hạn, hàng năm về
các hoạt động của kiểm toán Nhà nước đối với các ngành, các lĩnh vực, các tỉnh
thành phố đặc biệt là trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, kế
toán dự toán ngân sách, xác định rõ các trọng điểm cần kiểm toán.
Tổ chức lực lượng cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt của ngành kiểm toán
Nhà nước, thực hiện các mục tiêu phương hướng và kế hoạch về hoạt động kiểm
toán đã được xác định. Qui định rõ quyền hạn và trách nhiệm, lĩnh vực, địa điểm và
thơì gian, số lượng và chất lượng công việc cần hoàn thành.
Thực hiện chức năng chỉ huy thống nhất của từng cấp trong tổ chức kiểm
toán Nhà nước để bảo đảm sự thống nhất trong hoạt động và hành động cụ thể của
cán bộ kiểm toán Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân
công của tổ chức.
Điều hoà phối hợp chặt chẽ các hoạt động kiểm toán trong tổ chức kiểm toán
Nhà nước nhằm bảo đảm các hoạt động kiểm toán có hiệu lực và hiệu quả cao.
Đồng thời kiểm toán Nhà nước nên phối hợp chặt chẽ với các bộ phận khác trong bộ
máy Nhà nước như: Bộ Tài chính, Uỷ ban ngân sách Nhà nước của Quốc hội, cơ quan
tư pháp, thanh tra Nhà nước để tránh việc trồng chéo trong hoạt động kiểm toán sử
dụng kết quả kiểm toán một cách triệt để. Mặt khác xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ
trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, trong các doanh nghiệp Nhà nước làm cơ sở
cho kiểm toán Nhà nước sử dụng khi kiểm toán các đơn vị
II. Hoàn thiện địa vị pháp lý của kiểm toán Nhà nước.
Trước những yêu cầu bức thiết đặt ra trong quá trình tổ chức và hoạt động, địa
vị pháp lý của cơ quan kiểm toán Nhà nước cần được qui định một cách cụ thể rõ
ràng và được chuẩn hoá trong các văn bản qui phạm pháp luật và cao hơn là trong
luật Hiến pháp Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Thực tế trong bốn năm qua, địa vị pháp lý của kiểm toán Nhà nước mới chỉ
được xác định trong Nghị định 70/CP của Chính phủ và Quyết định 61/TTg của Thủ
tướng Chính phủ, một số điều luật trong luật ngân sách Nhà nước Việt Nam chính vì
vậy đã có nhiều quan điểm và ý kiến cho rằng địa vị pháp lý của kiểm toán Nhà
nước chưa tương xứng với chức năng , vai trò cũng như nhiệm vụ của kiểm toán Nhà
nước hiện nay.
Từ thực tế đó cơ quan Kiểm toán Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện hệ thống các văn bản pháp luật, sửa đổi và bổ sung một số điều khoản đã quy
định trước đây đã không còn hợp lý với tình hình mới, xúc tiến xây dựng luật kiểm
toán pháp lệnh kiểm toán để trình Chính phủ và ban thường vụ Quốc hội xem xét và
phê duyệt, sớm ban hành chuẩn mực kiểm toán Nhà nước (đã dự thảo), sớm ban hàng
pháp lệnh kiểm toán Nhà nước để tạo cơ sở pháp lý cho kiểm toán Nhà nước hoạt
động.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện địa vị pháp lý của kiểm toán Nhà
nước cần tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm qua việc tham khảo địa vị pháp lý
của kiểm toán Nhà nước của một số quốc gia có hoạt động kiểm toán phát triển tham
khảo các điều luật của luật kiểm toán của các quốc gia đó. Đặc biệt trong tình hình
hiện nay với xu hướng hội nhập, nhất thiết cần phải có căn cứ vào tuyên bố LiMa
làm thước đo chuẩn mực.
III. Tổ chức nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kiểm toán.
Một vấn đề có tính ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kiểm toán đó là
năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên, chính vì vậy công
tác đào tạo cán bộ kiểm toán Nhà nước là một trong những hoạt động cực kỳ quan
trọng của cơ quan kiểm toán Nhà nước, hoạt động đó không chỉ phục vụ cho mục
đích và hiệu quả hoạt động hiện tại mà còn tạo nguồn lực bổ sung - những cán bộ
kiểm toán Nhà nước có chất lượng cao cho tương lai.
Để thực hiện tốt công tác đào tạo cần giải quyết một số công việc sau:
Xây dựng một chiến lược đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức kiểm toán Nhà
nước, đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước để tạo ra một đội ngũ có đủ về số lượng và
mạnh về chất lượng (đạo đức nghề nghiệp kiểm toán viên, kiến thức hiện đại trình
độ phương pháp kiểm toán và có đủ sức khoẻ để phục vụ lâu dài). Trong kế hoạch
chung thì từng cán bộ kiểm toán Nhà nước phải có kế hoạch chủ động rèn luyện
bản lĩnh chính trị, chuyên môn - thông qua hoạt động thực tiễn và tổng kết công tác
thực tiễn để trưởng thành. Tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên đề để nâng cao trình
độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời cử cán bộ đi đào tạo lại, đào tạo thêm
những kiến thức kinh nghiệm trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ.
Công tác bồi dưỡng cán bộ kiểm toán cần hướng vào việc cập nhật hoá kiến
thức hiện đại cho số cán bộ được đào tạo trong cơ chế quản lý cũ. Trợ giúp về kinh
nghiệm và các kiến thức chuyên ngành kiểm toán cho số lượng cán bộ kiểm toán
viên mới như: luật pháp, kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, cải cách tài chính kế toán,
kiến thức kiểm toán và khối kiến thức bổ trợ. Qua đó giúp cho kiểm toán viên Nhà
nước có khả năng thực hành kiểm toán đồng thời góp phần hoàn thiện các cơ chế
chính sách quản lý của Nhà nước.
Xây dựng cơ sở vật chất cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đặc biệt là
củng cố và phát triển tiềm lực cho trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ kiểm
toán Nhà nước để bảo đảm công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
Nghiên cứu và soạn thảo, xuất bản một cách có hệ thống các tài liệu chuyên
môn nghiệp vụ đặc biệt là các giáo kiểm toán, cẩm nang kiểm toán. Nhà nước để
làm chỗ dựa cho kiểm toán viên hành nghề và là tài liệu để huấn luyện kiểm toán
viên.
Đổi mới công tác tuyển chọn cán bộ theo hai phương hướng sau:
. Chọn lựa cán bộ cũ có đủ điều kiện, tuyển dụng các cán bộ đã được đào tạo
ở trong và ngoài nước về chuyên ngành kiểm toán
. Thi tuyển kiểm toán viên từ những sinh viên ưu tú của các trường đại học
được đào tạo chuyên ngành kiểm toán để bồi dưỡng một lớp kiểm toán viên giỏi phù
hợp với yêu cầu mới.
IV. Có chính sách đầu tư và khuyến khích đúng mức cho kiểm toán Nhà nước
phát triển.
Để phát triển ngành kiểm toán Nhà nước lên một tầm cao mới, Nhà nước cần
quan tâm tới một số vấn đề sau:
. Đầu tư ngân sách đúng mức cho ngành kiểm toán tạo điều kiện phát triển cơ
sở vật chất, phương tiện hỗ trợ cho hoạt động kiểm toán.
. Có chính sách tiền lương và tiền thưởng hợp lý, đúng mức để cán bộ làm
việc có chất có chất lượng hiệu quả, đảm bảo khách quan trung thực, đúng đắn về
những kết luận của kiểm toán Nhà nước.
. Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác giữa kiểm toán Nhà nước Việt Nam
với các tổ chức cùng hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán và các tổ chức khác để
tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức đối với ngành kiểm toán Nhà nước về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, phương tiện điều kiện, kinh nghiệm làm việc.
. Phát triển các hoạt động có thu trong lĩnh vực chuyên môn của mình để tăng thêm
nguồn thu hỗ trợ cho sự phát triển của tổ chức kiểm toán.
V. Xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của kiểm toán Nhà nước.
Từ thực trạng hoạt động kiểm toán Nhà nước trong bốn năm qua, và những
vấn đề tồn tại cần giải quyết trong quá trình xây dựng, tổ chức và hoạt động kiểm
toán, cần làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của kiểm toán Nhà nước trong các văn
bản qui phạm pháp luật.
1. Quyền hạn:
Về quyền hạn của kiểm toán Nhà nước có thể xác định ở một số vấn đề cụ thể
sau:
Quyền độc lập trong xây dựng kế hoạch và tổ chức hoạt động kiểm toán bao gồm cả
quyền đình chỉ, gia hạn hoặc thay đổi kế hoạch kiểm toán.
Quyền yêu cầu cán bộ các ngành, các đơn vị được kiểm toán và cá nhân, tổ
chức có liên quan cung cấp báo cáo quyết toán và các thông tin tài liệu cần thiết để
thực hiện kiểm toán.
Trong trường hợp cần thiết có quyền yêu cầu các cá nhân hoặc tổ chức cung
cấp dịch vụ, tư vấn chuyên ngành có liên quan đến cuộc kiểm toán đang thực hiện
theo phương thức hợp đồng dịch vụ.
Quyền báo cáo chính phủ, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các kết
luận kiểm toán và kiến nghị xử lý.
Quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền đình chỉ tạm thời hoạt động, phong
toả tài khoản của các đơn vị được kiểm toán trong các trường hợp xét thấy cần thiết.
Quyền chuyển hồ sơ tài liệu cho các cơ quan pháp luật về các vi phạm pháp
luật, có dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Quyền xây dựng và được bảo đảm kế hoạch ngân sách hàng năm cho hoạt
động của kiểm toán Nhà nước.