Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Vai trò của kiểm toán nội bộ và Một số Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của kiểm toán nội bộ ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.69 KB, 39 trang )

Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
Mục lục
Lời nói đầu ........................................................................................................................1
Lý luận chung về kiểm toán nội bộ ...............................................................................3
1.1 Khái quát chung về kiểm toán nội bộ.........................................................................3
1.1.1.Khái niệm về kiểm toán nội bộ ..............................................................................3
1.1.2. Vai trò của kiểm toán nội bộ .................................................................................4
1.1.3. Bối cảnh ra đời của kiểm toán nội bộ ....................................................................6
1.2. Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và các bộ phận có liên quan..............................9
1.2.1.Kiểm toán nội bộ là cụ thể hoá của kiểm soát nội bộ .............................................9
1.2.2. Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và ban giám đốc.............................................11
1.2.3. Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và kế toán quản trị .........................................12
1.2.4. Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và các hoạt động khác của doanh nghiệp.......16
1.2.5. Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài .................................17
1.3. Mô hình tổ chức kiểm toán nội bộ.............................................................................20
2. Thực trạng của hệ thống kiểm toán nội bộ và một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trò của kiểm toán nội bộ ở Việt Nam .......................................................24
2.1. Thực trạng của hệ thống kiểm toán nội bộ ở Việt Nam.............................................26
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của hệ thống kiểm toán nội bộ ..................30
Kết luận .............................................................................................................................38
1
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trờng, để giải quyết mâu thuẫn giữa yếu tố giữa yếu tố cạnh
tranh của các hoạt động kinh tế với các mối quan hệ kinh tế - xã hội qua lại tất yếu của
các pháp nhân hoặc thể nhân đã làm nảy sinh một nhu cầu khách quan là : Phải công khai
các thông tin kinh tế tài chính và các thông tin đó phải đáng tin cậy, tức là phải có một lực
lợng ngoài các mối quan hệ đó, có trình độ kỹ năng chuyên môn cao tiến hành thẩm định
một cách độc lập khách quan nhằm đa ra nhận xét về độ tin cậy của các thông tin công
khai. Nhờ đó, các thể nhân hoặc pháp nhân sẽ tin tởng lẫn nhau và các mối quan hệ kinh
tế tài chính sẽ xảy ra giữa các pháp nhân hoặc thể nhân đó với nhau làm thúc đẩy các quan


hệ kinh tế phát triển.
Bản chất của kiểm toán, nếu xét ở góc độ chung nhất, chính là sự kiểm tra độc lập
từ bên ngoài đợc thực hiện bởi một lực lợng có trình độ kỹ năng chuyên môn cao. Chịu
trách nhiệm hoàn toàn về độ tin cậy của các thông tin đợc thẩm định. Sự lớn mạnh về quy
mô và phức tạp của các hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp khiến hệ thống kiểm tra
đợc thiết lập trớc đây không còn thích hợp và không thể làm cho lãnh đạo doanh nghiệp
quán xuyến hết đợc các hoạt động đã và đang diễn ra. Vì vậy, cần phải có một tổ chức hỗ
trợ cho doanh nghiệp trong việc kiểm tra các hoạt động của các doanh nghiệp đặc biệt là
trong các doanh nghiệp lớn. Khoảng cách thu thập và phản hồi thông tin quản lý giữa lãnh
đạo doanh nghiệp và các bộ phận ngày càng bị xa cách cả về mặt địa bàn lẫn cơ cấu tổ
chức, các thông tin chứa đựng rủi ro về độ chính xác không cao. Cho nên, cần phải có một
tổ chức để kiểm tra, đánh giá độ tin cậy và tính đầy đủ, chính xác của các thông tin tài
chính và phi tài chính, từ đó có thể định lợng đợc, phục vụ cho yêu cầu quản lý của lãnh
đạo doanh nghiệp. Thêm vào đó, yêu cầu ngày một cao về độ chính xác của các thông tin
trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp từ phía ngân hàng, các định chế về tài
chính,vì vậy cần có một tổ chức phối hợp với kiểm toán bên ngoài, nhằm kiểm tra, đánh
giá có hiệu quả cao hơn độ tin cậy và xác thực của thông tin trên báo cáo tài chính, tạo
niềm tin cho lãnh đạo doanh nghiệp trớc khi công bố các báo cáo tài chính. Ngoài ra,
những nhợc điểm của các thành viên của doanh nghiệp, các yếu tố không thuận lợi khác
phát sinh trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã đặt ra yêu cầu khách quan,
2
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
cần phải có chức năng kiểm tra nội bộ trong doanh nghiệp để thực hiện soát xét các sai sót
và gian lận đó. Kiểm toán nội bộ đã xuất phát từ nhu cầu quản lý thực tế đó. Hoạt động
kiểm toán nói chung đã xuất hiện từ lâu trên thế giới. Sự phát triền về kinh tế và xã hội của
mỗi quốc gia qua thời gian đã làm cho hoạt động kiểm toán ngày càng phát triển và trở
thành nhu cầu không thể thiếu đợc của mỗi quốc gia. So với kiểm toán độc lập và kiểm
toán Nhà nớc thì kiểm toán nội bộ ra đời muộn hơn, nhng kiểm toán nội bộ có sự phát
triển rất mạnh mẽ.
Nền kinh tế nớc ta đang chuyển sang vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý

của Nhà nớc, cơ sở pháp lý để quản lý nền kinh tế thị trờng mở cửa đã, đang hình thành và
từng bớc đợc hoàn thiện. Có thể nói, kiểm toán nội bộ là phơng tiện quản lý có hiệu quả
và là công cụ đắc lực giúp các nhà quản lý giám sát đợc toàn bộ các hoạt động của đơn vị
mình.Trong khi khả năng dự báo và phân tích của các doanh nghiệp ở nớc ta hiện nay còn
nhiều hạn chế, do đó việc nâng cao vai trò của kiểm toán nội bộ là vô cùng cần thiết và hết
sức đúng đắn. Chính xuất phát từ đặc điểm, tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ và thực
trạng của hệ thống này nên em đã chọn đề tài: Vai trò của kiểm toán nội bộ và một số
giải pháp nhằm nâng cao vai trò của kiểm toán nội bộ ở Việt Nam .
Là một học sinh chuyên ngành, em thấy đề tài này rất bổ ích đối với bản thân. Tuy
nhiên do kiến thức và sự hiểu biết còn hạn chế nên đề án của em còn nhiều thiếu sót, em
rất mong nhận đợc sự góp ý của thầy cô và các bạn để đề án của em có thể hoàn thiện hơn.
3
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
1.Lý luận chung về kiểm toán nội bộ
1.1.Khái quát chung về kiểm toán nội bộ
1.1.1.Khái niệm về kiểm toán nội bộ
Kinh nghiệm thế giới cho thấy là ở mọi nớc kinh tế thị trờng phát triển đều cần
phải có hệ thống kiểm toán mạnh. Có thể nói đây là một công cụ đắc lực không thể thiếu
để quản lý kinh tế của mỗi quốc gia. Hoạt động kiểm toán đã trở thành một nhu cầu tất
yếu của nền kinh tế thị trờng đặc biệt là trong quá trình quản lý kinh tế góp phần thúc đẩy
nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nớc trớc tình hình mới, thực hiện công cuộc phát triển
kinh tế năng động, toàn diện, đủ sức hội nhập theo xu hớng khu vực toàn cầu hoá nền kinh
tế . Thuật ngữ kiểm toán thực sự mới xuất hiện và đợc sử dụng ở nớc ta từ những năm
cuối của thập kỉ 80 trong thế kỉ XX. Trên thế giới, thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, từ khi
xuất hiện nhu cầu xác định tính trung thực, độ tin cậy của thông tin trong báo cáo tài
chính kế toán và thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Nếu kế toán có
nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin phục vụ cho quyết định kinh tế của các đối tợng có
liên quan, thì kiểm toán có trách nhiệm thẩm tra, đánh giá, đảm bảo và nâng cao độ tin
cậy của các thông tin kế toán.
Theo định nghĩa của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) : Kiểm toán là việc các

kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về bản báo cáo tài chính.
Trong giáo trình kiểm toán, các tác giả Alvin A.Arens và James K.Loebbecker đã
định nghĩa : Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có quyền thu thập và đánh
giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lợng của một đơn vị cụ thể, nhằm mục
đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa thông tin này với các chuẩn mực đợc
thiết lập.
Kiểm toán nội bộ là một trong 3 loại kiểm toán: kiểm toán Nhà nớc, kiểm toán độc
lập, kiểm toán nội bộ. Mỗi loại kiểm toán có chức năng, tính chất địa vị pháp lý và phạm
vi khác nhau, hoàn toàn có thể không thể thay thế cho nhau đợc. Hiện có nhiều quan điểm
khác nhau về khái niệm kiểm toán nội bộ trên thế giới. Theo chuẩn mực hành nghề của
4
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
kiểm toán nội bộ do Viện kiểm toán viên nội bộ Hoa Kỳ : Kiểm toán nội bộ là một chức
năng xác minh độc lập sắp đặt ra bên trong một tổ chức để xem xét, đánh giá các hoạt
động của tổ chức đó với t cách là một sự trợ giúp đối với tổ chức đó.
Với một khái niệm rộng hơn, một quan điểm cho rằng : Một hoạt động đánh giá
đợc lập ra trong một đơn vị kinh tế nh một loại dịch vụ cho đơn vị đó, có chức năng kiểm
tra, đánh giá và giám sát tính thích hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm soát nội
bộ ( Thuật ngữ IFAC ) .
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu một cách tổng quát: Kiểm toán nội bộ là một
hoạt động nội kiểm có tính độc lập trong các cơ quan, đơn vị kinh tế thực hiện với chức
năng chính là kiểm tra đánh giá các hoạt động tài chính và phi tài chính nhằm nâng cao
hiệu quả các hoạt động đó và góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý tại các đơn vị kinh tế
cơ sở.
1.1.2.Vai trò của kiểm toán nội bộ
Nền tài chính quốc gia Việt Nam dựa vào một hệ thống doanh nghiệp (Nhà nớc, t
nhân, cổ phần...) có trình độ kỹ thuật cao để tăng thu nhập quốc dân, phát triển sản xuất,
xuất khẩu đợc nhiều hàng hóa, có thu ngoại tệ lớn và thu hút đợc vốn đầu t nớc ngoài ngày
một nhiều.
Nhà nớc đã đang thực hiện nhiều biện pháp nhằm giúp cho các doanh nghiệp mở

rộng thị trờng kinh doanh và tạo ra môi trờng cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại
thông qua việc tham gia vào các tổ chức thơng mại quốc tế và khu vực.
Có thể nói, kiểm toán nội bộ là công cụ giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp phân tích
hoạt động đầu t, kinh doanh, kiểm soát, đánh giá các chiến lợc phát triển kinh doanh của
doanh nghiệp, các hành vi quản lý.
Kiểm toán nội bộ là nhu cầu cần thiết khách quan cho việc kiểm soát chất lợng
hoạt động và đảm bảo chất lợng thông tin kinh tế, tài chính của bản thân doanh nghiệp.
Kiểm toán nội bộ có vai trò lớn trong việc nâng cao chất lợng hoạt động của doanh nghiệp
và không chỉ giới hạn phạm vi ở kiểm toán báo cáo tài chính. Trên một phạm vi rộng lớn
hơn và quan trọng hơn, kiểm toán nội bộ phải kiểm tra hoạt động và kiểm toán tính tuân
thủ các quy định, các chế độ hiện hành của Nhà nớc và của các doanh nghiệp...
5
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
Kiểm toán nội bộ là hoạt động cần thiết của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trờng, để kiểm soát chất lợng hoạt động và chất lợng thông tin kinh tế, tài chính, là hoạt
động đã hoàn thành và phát triển khá mạnh mẽ ở nhiều nớc trên thế giới.
Trong hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nớc, hệ thống kiểm toán nội bộ trong các cơ
quan hành chính sự nghiệp và các tổ chức kinh tế Nhà nớc giữ vai trò hết sức quan trọng.
Do loại hình chủ yếu là kiểm toán hoạt động và khác với Kiểm toán Nhà nớc, kiểm toán
nội bộ đợc đặt tại các đơn vị cơ sở nên giúp sớm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi
tiêu cực, gian lận trong quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế, tài chính, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, nhân lực, tiền vốn và hạn chế lãng phí, tham nhũng;
nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý; hoàn thiện và đổi mới phong cách làm
việc tại các cơ quan, đơn vị. Điều này đợc thể hiện rõ nét ở các chức năng chủ yếu của
kiểm toán nội bộ:
Thứ nhất, thẩm tra các thủ tục kiểm soát để xác định tính thích hợp và tính u việt
của nó. Mục đích của việc thẩm tra tính thích hợp của kiểm toán nội bộ để khẳng định
rằng, hệ thống kiểm toán nội bộ vận hành đều đặn và có hiệu quả, đáp ứng mọi mục tiêu
đã định trớc. Việc thẩm tra sẽ phơi bày mọi hành vi gian lận, không bình thờng và gây
lãng phí với bản chất lặp đi lặp lại nhằm ngăn chặn và giảm thiểu chúng.

Thứ hai, kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin. Kiểm toán viên nội
bộ phải kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy không chỉ của bản thân các thông tin tài
chính mà cả các hoạt động và phơng tiện đợc sử dụng để xác định, đo đạc, phân loại và
báo cáo các thông tin đó. Việc kiểm tra hệ thống thông tin này là cơ sở để khẳng định các
sổ sách và báo cáo tài chính chứa đựng các thông tin chính xác, kịp thời và hữu ích.
Thứ ba, kiểm tra việc tuân thủ các chính sách, các kế hoạch và các thủ tục hiện
hành. Việc kiểm tra các hệ thống nhằm thiết lập xem có đảm bảo sự tuân thủ với các
chính sách thủ tục, luật pháp và các quy định mà có thể tác động quan trọng tới mọi hoạt
động của tổ chức. Qua đó, kiểm toán nội bộ đánh giá tính hợp lý và sự u việt của các
chính sách, quy định, kế hoạch trớc khi đi đến việc xác định mức độ tuân thủ. Kiểm toán
nội bộ sẽ chỉ ra khoản lợi nhuận (hay tiết kiệm đợc) từ các hoạt động bởi việc tuân thủ
thích đáng các chính sách, kế hoạch và thủ tục đợc lập ra và các mất mát nếu không có sự
tuân thủ đó.
6
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
Thứ t, kiểm tra các phơng tiện bảo đảm an toàn cho tài sản. Kiểm toán nội bộ
phải kiểm tra các phơng tiện đợc sử dụng để đảm bảo an toàn cho các tài sản để tránh các
dạng mất mát khác nhau nh ăn trộm hoặc hoả hoạn. Mặt khác, kiểm toán nội bộ cần có
những kiến nghị cho nhà quản lý để phòng ngừa các hành động bất hợp pháp xâm phạm
tài sản của đơn vị, tổ chức.
Thứ năm, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu qủa hoạt động của các nguồn
lực. Kiểm toán nội bộ phải đánh giá chất lợng thực hiện các nhiệm vụ đợc giao. Việc thực
hiện này liên quan đến các nhóm hay cá nhân các nhân viên đơn vị. Kiểm toán nội bộ
không chỉ quan tâm đến việc thực hiện công việc của họ một cách hiệu qủa, tiết kiệm mà
còn quan tâm đến việc thực hiện của họ có mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh
nghiệp không?
Thứ sáu, kiểm tra việc tuân thủ các mục tiêu đề ra đối với các chơng trình hay
các hoạt động nghiệp vụ. Kiểm toán nội bộ phải kiểm tra các hoạt động hay chơng trình
để xem xét kết quả thu đợc có phù hợp với mục tiêu đề ra hay không và các hoạt động, ch-
ơng trình đó có đợc thực hiện theo kế hoạch đã định hay không. Bên cạnh đó, kiểm toán

nội bộ cần trợ giúp những nhà lãnh đạo khi xây dựng các mục tiêu cho các chơng trình
bằng việc xác định xem những giả thiết, dữ liệu quan trọng có hợp lý không, những thông
tin hiện thời có chính xác và có đợc sử dụng không và hệ thống kiểm tra kiểm soát có đợc
thiết lập trong các hoạt động hay chơng trình không.
Thứ bảy, các nhiệm vụ đặc biệt. Ngoài các chức năng trực tiếp, kiểm toán nội bộ
có thể đợc giao bất cứ nhiệm vụ gì mà có ích cho Ban giám đốc : Điều tra về cá nhân, đại
diện cho Ban giám đốc hoặc giám sát trong các cuộc thỏa thuận, tham gia vào các chơng
trình đào tạo của đơn vị...
1.1.3. Đặc điểm hoạt động của kiểm toán nội bộ
Tìm hiểu về đặc điểm hoạt động của kiểm toán nội bộ có thể hiểu rõ hơn về vai trò
quan trọng của kiểm toán nội bộ. Trớc hết, đặc điểm hoạt động của kiểm toán nội bộ phụ
thuộc chủ yếu vào nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ:
- Kiểm tra và đánh giá tính phù hợp, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm
toán nội bộ trong đơn vị doanh nghiệp.
7
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
- Kiểm tra và xác nhận chất lợng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính của báo
cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị doanh nghiệp trớc khi trình ký duyệt và công bố.
- Kiểm tra và đánh giá sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh,
đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính, kế toán, chính sách, nghị
quyết của Hội đồng quản trị, của Ban giám đốc doanh nghiệp.
- Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của
doanh nghiệp; đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành
kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi xem xét chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của kiểm toán nội bộ thì chúng ta
phải căn cứ vào các tác nhân khách quan, chủ quan của ngay chủ thể - khách thể kiểm
toán. Tựu chung lại, chúng ta cần phải quán triệt đợc các đặc trng sau của kiểm toán nội
bộ:
- Kiểm toán nội bộ có tính chất bắt buộc và cỡng chế theo yêu cầu của lãnh đạo,
giám đốc (Hội đồng quản trị) đối với các doanh nghiệp, đơn vị, hoạt động dới quyền.

Kiểm toán nội bộ có thẩm quyền kiểm tra (theo lệnh của ngời đứng đầu đơn vị) đối với
các đơn vị trực thuộc, các hoạt động của đơn vị chính cũng nh đơn vị phụ thuộc. Thẩm
quyền không chỉ đối với lĩnh vực kế toán tài chính mà bao gồm mọi lĩnh vực trong hoạt
động của đơn vị. Đây là tiêu chí cơ bản để nhận biết kiểm toán nội bộ và chứng tỏ rằng
kiểm toán nội bộ có phạm vi nghiên cứu lớn hơn so với kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
- Theo yêu cầu quản lý của thủ trởng đơn vị, kiểm toán nội bộ là hoạt động không
thu phí đối với các đơn vị, bộ phận trực thuộc đợc kiểm toán. Tuy nhiên, nếu một công ty,
đơn vị hạch toán độc lập trong một Tổng công ty có nhu cầu riêng mời kiểm toán ở đơn vị
hành chính (Tổng công ty) thì phải đóng góp kinh phí để trang trải cho các hoạt động
kiểm toán theo yêu cầu của họ.
- Cũng giống nh kiểm toán Nhà nớc, kiểm toán nội bộ có mục đích là thông qua
kiểm toán để cải tiến và hoàn thiện các hoạt động ở các đơn vị, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động, hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả cuối cùng của hoạt động và của sản xuất
kinh doanh, khắc phục những khâu yếu, giúp thủ trởng đơn vị phát hiện, ngăn chặn và xử
lý các gian lận và sai sót trong hoạt động và quản lý của đơn vị.
- Tuy kiểm toán nội bộ đợc tổ chức độc lập với những bộ phận đợc kiểm tra, nhng
kiểm toán nội bộ là một bộ phận của đơn vị, không thể độc lập hoàn toàn với đơn vị đó đ-
8
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
ợc. Vì vậy, các báo cáo của kiểm toán nội bộ dù đợc chủ doanh nghiệp tin tởng song
không có giá trị pháp lý ở bên ngoài.
1.1.4. Bối cảnh ra đời của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một bộ máy thực hiện chức năng kiểm toán trong phạm vi đơn
vị phục vụ yêu cầu quản lý nội bộ đơn vị, đã đợc xây dựng, phát triển từ lâu và cho đến
những năm 1940 thì xuất hiện khái niệm kiểm toán nội bộ. ở Mỹ, những t tởng hiện đại
về kiểm toán đã xuất hiện từ 1914 song chỉ sau cơn khủng hoảng nặng nề về tài chính
1929 - 1931, kiểm toán mới phát triển. Trong bối cảnh đó, kiểm toán nội bộ cũng phát
triển. Năm 1941, trờng đào tạo kiểm toán viên nội bộ (IIA) đợc thành lập tại New York, tổ
chức này đã xác định bản chất, mục tiêu và phạm vi hoạt động của hệ thống kiểm toán nội
bộ - chủ yếu trong lĩnh vực tài chính. Từ năm 1950 trở đi, kiểm toán nội bộ phát triển vào

các khía cạnh quản lý của doanh nghiệp, đặc biệt là hiệu quả kinh doanh và năng lực quản
lý.
Còn ở Cộng hoà Pháp, chức năng của kiểm toán nội bộ đã xuất hiện chính thức vào
năm 1960 trong các công ty chi nhánh của các tập đoàn ngoại quốc. Tiếp đó, các công ty
khác (đặc biệt là trong ngân hàng) cũng định ra những chức năng tơng tự. Đồng thời, việc
du nhập kiểm toán nội bộ vẫn tiếp tục phát triển vì các công ty mong muốn duy trì sự ổn
định và tăng cờng hiệu quả của các xí nghiệp, đến năm 1965 đã thành lập Hội kiểm toán
viên nội bộ Pháp và sau đó trở thành Viện nghiên cứu của kiểm toán viên và kiểm toán
viên nội bộ của Pháp (IFACI) vào năm 1973. Tổ chức kiểm toán nội bộ là thành viên của
Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) và INTOSAI. Kiểm
toán nội bộ bắt đầu hình thành từ những nhu cầu nảy sinh xuất phát trong quản lý. Chúng
ta có thể hiểu rõ hơn bản chất của hoạt động đang tồn tại nếu chúng ta biết phần nào về
những điều kiện thay đổi trong quá khứ đã tạo ra nhu cầu hoạt động đó. Hình thức giản
đơn nhất của kiểm toán nội bộ là gì và nó đã đợc hình thành nh thế nào? Kiểm toán nội bộ
đã đáp ứng những nhu cầu thay đổi nh thế nào?
Theo lý thuyết, thì chức năng của kiểm toán nội bộ nảy sinh khi một ngời bất kỳ ngồi lại
và kiểm tra lại cái mình đã làm. Khi đó ngời này tự hỏi mình đã làm việc nh thế nào và
nếu làm lại việc đó thì có thể làm tốt hơn ra sao. Khi có một ngời thứ hai liên quan đến
nữa, thì chức năng đó đợc mở rộng thêm ra vì có thẩm tra hoạt động của ngời thứ hai đó.
9
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
Trong một doanh nghiệp nhỏ, ngời chủ sở hữu hay ngời quản lý cùng với tất cả nhân viên
làm việc đó trong một chừng mực nhất định. Trong tất cả các trờng hợp này, chức năng
kiểm toán nội bộ đợc thực hiện một cách trực tiếp với t cách là một phần của vai trò quản
lý cơ bản.
Tuy nhiên, vì các nghiệp vụ của doanh nghiệp ngày càng có khối lợng nhiều và
phức tạp, nên ngời chủ sở hữu hay ngời quản lý cấp cao trong thực tế không thể dễ dàng
tiếp xúc với các nghiệp vụ đó để kiểm tra hiệu quả của các hoạt động một cách vừa ý đợc.
Mặc dù ngời chủ sở hữu doanh nghiệp có thể xây dựng một hệ thống kiểm tra và muốn có
cái nhìn quán xuyến qua hệ thống đó, thì vẫn cứ khó khăn khi muốn biết lợi ích của doanh

nghiệp có đợc phục vụ xứng đáng hay không. Những quy tắc đã định ra có đợc tuân thủ
không? Công nhân viên làm việc có hiệu quả không? Liệu tài sản có đợc đảm bảo an toàn
không? Những quy tắc hiện hành có còn hiệu lực khi điều kiện thay đổi không? Câu trả
lời sau cùng cho những yêu cầu đó là chủ doanh nghiệp cần có sự trợ giúp. Việc giúp đỡ
này phải giao cho một hay một số ngời chịu trách nhiệm trực tiếp kiểm tra các hoạt động
và báo cáo lại theo nh các câu hỏi trên. Nh vậy là, hoạt động kiểm toán nội bộ đã đi vào
thực tế một cách chính thức và rõ ràng. Nh vậy,
trong những yêu cầu cụ thể quyết định sự ra đời tất yếu của hoạt động kiểm toán nội bộ có
thể kể đến :
- Sự lớn mạnh về quy mô và độ phức tạp của các hoạt động kinh doanh.
- Sự chuyển đổi từ các hoạt động tập trung sang phân quyền hoặc phân cấp ở các
tập đoàn lớn hoặc những nớc có nền kinh tế chuyển đổi sang kinh tế thị trờng.
- Yêu cầu của các ngân hàng và các định chế tài chính.
- Những nhợc điểm của con ngời và các yếu tố không thuận lợi khác đặt ra yêu cầu
khách quan là cần phải có hệ thống kiểm tra nội bộ.
Nhiệm vụ trớc tiên giao cho kiểm toán nội bộ thờng là phải đáp ứng những nhu cầu
nghiệp vụ rất cơ bản và đợc xác định rõ ràng. Mối quan tâm đặc biệt từ đầu của quản lý là
liệu tài sản của tổ chức có đợc bảo vệ tốt không, các quy tắc, quy phạm của công ty có đợc
tuân thủ không, và sổ sách tài chính có đợc ghi chép đầy đủ không. Điều rất quan trọng
nữa là phát hiện gian lận và giữ gìn mọi thứ nguyên vẹn. Trên phạm vi rộng hơn nữa, kiểm
toán nội bộ cũng đợc coi là sự mở rộng liên quan chặt chẽ tới công việc của kiểm toán bên
ngoài. Kết qủa của tất cả các nhân tố đó là kiểm toán nội bộ đợc coi là có vai trò tơng đối
10
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
hẹp. Đồng thời, kiểm toán nội bộ cũng tự thấy trách nhiệm có giới hạn trong toàn bộ công
việc của mình.
Trải qua thời gian, tình hình đã thay đổi đáng kể. Hoạt động ở các tổ chức không
ngừng tăng về khối lợng và mức độ phức tạp. Những vấn đề về quản lý nảy sinh lại gây ra
sức ép mới đối với cấp quản lý cao hơn. Và ngời điều hành phải tìm đến những cách thức
mới nhằm ứng phó với những sức ép đó. Và cũng hoàn toàn tự nhiên khi nhà quản lý thấy

đợc khả năng sử dụng tốt hơn công việc của kiểm toán nội bộ. Nơi nào có những con ngời
luồn lách khắp tổ chức, các phòng ban và khu vực địa lý, thì ở đó có thêm lý do để thu đợc
giá trị lớn hơn từ những ngời đó, trong khi chi phí tăng thêm tơng đối ít. Đồng thời kiểm
toán nội bộ cũng nhận thức đợc những cơ hội hiện có và tìm tòi cách thức phục vụ mới.
Do đó, kiểm toán nội bộ có tính hớng vào quản lý và mở rộng đến các hoạt động phi tài
chính. Nh vậy so với kiểm
toán độc lập và kiểm toán Nhà nớc thì kiểm toán nội bộ ra đời muộn hơn nhng kiểm toán
nội bộ có sự phát triển rất mạnh mẽ và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong bộ máy
kiểm tra kiểm soát của doanh nghiệp hiện nay.
1.2. Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và các bộ phận có liên quan
1.2.1. Kiểm toán nội bộ là sự cụ thể hoá của kiểm soát nội bộ
Trong mọi hoạt động của doanh nghiệp, chức năng kiểm tra kiểm soát luôn giữ vai
trò quan trọng trong quá trình quản lý và đợc thực hiện chủ yếu bởi hệ thống kiểm soát nội
bộ của doanh nghiệp. Theo Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC): Hệ thống kiểm soát nội
bộ là một hệ thống chính sách và thủ tục nhằm bốn mục tiêu sau: Bảo vệ tài sản của đơn
vị; bảo đảm độ tin cậy của các thông tin; bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý; và
bảo đảm hiệu quả của hoạt động.
Theo đó, kiểm soát nội bộ là một chức năng thờng xuyên của các đơn vị, tổ chức và
trên cơ sở xác định rủi ro có thể xảy ra trong từng khâu công việc để tìm ra biện pháp
ngăn chặn nhằm thực hiện có hiệu quả tất cả các mục tiêu đặt ra của đơn vị:
- Bảo vệ tài sản của đơn vị.
- Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin.
- Bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý.
11
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
- Bảo đảm hiệu quả của hoạt động và năng lực quản lý.
Nh vậy, kiểm soát nội bộ là một chức năng của quản lý, trong phạm vi đơn vị cơ sở
là việc tự kiểm tra và giám sát hoạt động nhằm mục tiêu đạt đợc hiệu quả cao nhất và sự
tin cậy của báo cáo tài chính. Tuy nhiên, hệ thống kiểm soát nội bộ có sự lỏng lẻo, hạn
chế về phạm vi hoạt động làm tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ không cao làm

việc kiểm soát và bảo vệ tài sản, thông tin ở các đơn vị thấp... ảnh hởng trực tiếp đến hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Thêm vào đó, lại có rất nhiều lực lợng kiểm tra tác động liên tục lên mọi hoạt động
cuả đơn vị. Điều này làm cho hệ thống kiểm soát nội bộ tại các doanh nghiệp hoạt động
theo 2 hớng ngợc chiều nhau. Nếu thái độ các nhà quản lý chạy theo khuynh hớng dân
chủ cởi mở thì công tác kiểm tra, kiểm soát của các lực lợng trong doanh nghiệp nhiều khi
bị nhiễu thông tin trong việc ra các quyết định quản lý. Ngợc lại ở một số doanh nghiệp,
thái độ cả Giám đốc hoặc Hội đồng quản trị mang tính chất cực đoan, bảo thủ đã làm hệ
thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp tê liệt, các công tin bị bng bít nh nhà máy dệt
Nam Định, Công ty Tamexco...
Trong khi đó, theo Liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC): Kiểm toán nội bộ là một
hoạt động đánh giá đợc lập ra trong một doanh nghiệp nh là một loại dịch vụ cho doanh
nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu quả của hệ
thống kế toán và kiểm soát nội bộ. Qua đó, hệ thống kiểm toán nội bộ có những nhiệm
vụ chính sau đây:
- Kiểm tra và đánh giá tính phù hợp, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm
soát nội bộ trong đơn vị, trong doanh nghiệp.
- Kiểm tra và xác nhận chất lợng, độ tin cây của thông tin kinh tế, tài chính của các
báo cáo kế toán quản trị doanh nghiệp trớc khi trình ký duyệt và công bố.
- Kiểm tra và đánh giá sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh,
đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính, kế toán, chính sách, nghị
quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, của Ban giám đốc doanh nghiệp.
- Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận, trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của
doanh nghiệp; đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành
kinh doanh của doanh nghiệp.
12
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
Nh vậy, ở một mức độ, kiểm toán nội bộ là một sự mở cụ thể hoá của hệ thống
kiểm soát nội bộ đồng thời sự ra đời của kiểm toán nội bộ đã khắc phục những nhợc điểm
và hạn chế của hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp, phân định rạch ròi chức

năng quản lý, giám sát hoạt động trong nội bộ các đơn vị.
1.2.2. Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và Ban giám đốc
Một cách chung nhất, kiểm toán nội bộ đợc thiết lập để tăng cờng quyền lực cho
Ban giám đốc, phục vụ mục đích quản trị nội bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn
vị. Theo quan hệ đó, kiểm toán nội bộ chỉ độc lập tơng đối với Ban giám đốc trong hoạt
động chuyên môn của mình. Kiểm toán nội bộ đợc tiến hành theo yêu cầu của Ban giám
đốc hay các nhà quản lý và chịu sự giám quản lý, chỉ đạo của họ thông qua Uỷ ban kiểm
toán. Về phần mình, Ban giám đốc có trách nhiệm đề ra các quy định, chính sách và thực
hiện các biện pháp để đảm bảo rằng bộ máy kiểm toán nội bộ có đợc những quyền hạn
cần thiết; các nguồn nhân lực kiểm toán nội bộ đợc sử dụng một cách có hiệu quả; các
cuộc kiểm toán đợc tiến hành theo các chuẩn mực nghề nghiệp của kiểm toán nội bộ.
Điều này đợc thể hiện rõ nét trong các cuộc họp thờng kỳ giữa Ban giám đốc và ng-
ời phụ trách bộ phận kiểm toán nội bộ thờng đợc tổ chức (hàng tháng, hoặc nhiều hơn tuỳ
theo quy mô của công ty hay các điểm yếu của nó) với mục đích:
- Trao đổi về kế hoạch kiểm toán và những công việc kiểm toán nội bộ đang thực
hiện. Kiểm toán nội bộ lập kế hoạch kiểm toán, kế hoạch này đợc Ban giám đốc thông qua
trên những nét lớn. Từ kế hoạch này và những nhận xét của Ban giám đốc, kiểm toán nội
bộ lập kế hoạch cho năm và cho quý. Trong cuộc họp, kế hoạch có thể đợc thông qua hoặc
sẽ đợc bổ sung, sửa đổi. Kiểm toán nội bộ sẽ trình bày một tài liệu tổng kết rõ ràng về việc
kế hoạch đã đợc thông qua.
- Trao đổi về kết quả của các cuộc kiểm toán đã làm cũng nh tất cả các hoạt động
liên quan đến kiểm toán. Kết thúc cuộc họp, kiểm toán viên phải lập một biên bản, trong
đó ít nhất phải nêu lên các kết luận cũng nh các quyết định về báo cáo kiểm toán đã hoàn
thành.
Hơn nữa, do sức ép không ngừng mở rộng và phát triển đa dạng của các hoạt động
kinh doanh, vai trò và trách nhiệm của Ban giám đốc ngày càng tăng thêm. Xuất phát từ
13
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
sức ép đó, Ban giám đốc công ty đã chọn cách làm là xác lập và mở rộng vai trò của Uỷ
ban kiểm toán thuộc Ban giám đốc.

Với quan hệ mật thiết đó, mặc dù kiểm toán nội bộ không là điều kiện bắt buộc đối
với mỗi doanh nghiệp, song với chức năng của mình, kiểm toán nội bộ vẫn đợc nhiều
doanh nghiệp thực hiện với mục đích giúp ban lãnh đạo kiểm tra, kiểm soát để hạn chế rủi
ro và phòng ngừa những sai sót, vi phạm của hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh
nghiệp. Đồng thời, đánh giá, kiểm tra tính hiệu quả, hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội
bộ, bảo vệ tài sản và các nguồn lực của doanh nghiệp; Ngăn ngừa, hạn chế các hành vi vi
phạm; Đề ra các biện pháp xử lý vi phạm kịp thời và đúng đắn đánh giá mức độ hiệu lực
và tính hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực, các phơng án hoạt động và các quyết
định kinh tế của doanh nghiệp.
1.1.3. Mối quan hệ kiểm toán nội bộ và kế toán quản trị
Theo Nghị định 59 CP ngày 3/10/1996 và thông t 73 TC/TCDN ngày 12/11/1996,
giám đốc doanh nghiệp và Hội đồng quản trị doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tính
chính xác, tính trung thực của báo cáo tài chính và phải có xác nhận của kiểm toán độc lập
hoặc kiểm toán nội bộ. Do vậy, mọi doanh nghiệp đều nên có tổ chức bộ máy kiểm toán
nội bộ. Hơn nữa trong điều kiện nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa nh nớc
ta hiện nay, việc tổ chức hệ thống kế toán quản trị trong doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu.
Trong các doanh nghiệp, kế toán quản trị và kiểm toán nội bộ có vai trò hết quan
trọng, mặc dù là hai bộ phận độc lập, nhng trong doanh nghiệp, các chức năng của hai tổ
chức có mối liên hệ lẫn nhau, nhất là trong việc sử dụng thông tin chung cũng nh thông tin
của mỗi bộ phận. Việc xem xét mối quan hệ giữa hai bộ phận giúp cho các nhà lãnh đạo
tổ chức bộ máy kế toán, kiểm toán gọn nhẹ nhng đảm bảo thực hiện đầy đủ nhiệm vụ
riêng của từng bộ phận.
Kế toán quản trị là một bộ phận kế toán cung cấp thông tin cho những nhà quản lý
doanh nghiệp thông qua các báo cáo kế toán nội bộ. Khái niệm về kế toán quản trị đợc
Hiệp hội kế toán Mỹ định nghĩa: Là quá trình nhận dạng, đo lờng, tổng hợp, phân tích,
lập bảng biểu, giải trình và thông đạt các số liệu tài chính và phi tài chính cho ban giám
đốc để lập kế hoạch, theo dõi việc thực hiện kế hoạch trong phạm vi nội bộ một doanh
14
Kiểm toán nội bộ Nguyễn Thanh Huyền
nghiệp và để đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các loại tài sản và quản lý chặt chẽ các tài

sản này.
Nh vậy, kế toán quản trị là một hệ thống báo cáo thờng xuyên nhằm phục vụ cho
các nhà quản trị doanh nghiệp thông qua việc cung cấp các số liệu quản trị một cách thờng
xuyên để trợ giúp cho việc ra quyết định. Kế toán quản trị cũng hớng đến các chức năng,
nhiệm vụ bằng số liệu về quản trị dới dạng các số chênh lệch giữa mục tiêu đặt ra và tình
hình thực hiện trong một thời kỳ, nhằm phục vụ công việc điều chỉnh, kiểm tra, kiểm soát
của đơn vị.
Trớc tiên, kế toán quản trị phải tập hợp đợc các thông tin dới dạng số liệu, qua đó
sắp xếp, phân loại chúng theo mục tiêu quản lý cũng nh theo các tiêu chuẩn cho phép
nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, sau đó thông báo, phổ biến các thông tin này.
Mặc khác, kế toán quản trị phải xây dựng các mục tiêu cụ thể đó là các thông tin đã đợc l-
ợng hoá dới dạng các dự toán ngắn hạn, trung hạn. Các dự toán này phải đợc định lợng chi
tiết trong báo cáo của kế toán quản trị. Tiếp theo, kế toán quản trị phải phân tích chênh
lệch giữa thực hiện và dự toán, trên cơ sở đó xác định các nhân tố và nguyên nhân ảnh h-
ởng đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các dự toán
dài hạn, cần thiết định lợng về mặt tài chính các quyết định hoặc các dự án để định hớng
chiến lợc thực hiện đợc quá trình kiểm tra tất cả các hành vi quản trị của mỗi bộ phận, mỗi
cá nhân trong khung cảnh chính sách chung của quản trị.
Việc tổ chức và sử dụng thông tin giữa kiểm toán nội bộ và kế toán quản trị thể
hiện ở những nét chính sau:
Kiểm toán nội bộ và kế toán quản trị là hai bộ phận hỗ trợ nhau trong quản
lý doanh nghiệp.
Kiểm toán nội bộ và kế toán quản trị là nhu cầu riêng của từng doanh nghiệp, nên
nội dung phạm vi của chúng rất khác nhau và tuỳ thuộc nhiều vào quy mô, cơ cấu của
doanh nghiệp cũng nh của nhà quản trị doanh nghiệp. Hai bộ phận này có mối liên quan
chặt chẽ vì một bộ phận để kiểm tra các công việc nội bộ bên trong của tổ chức, còn bộ
phận kia quan tâm đến nhu cầu của ngời sử dụng thông tin trong tổ chức.
Các nớc tiên tiến có nền kinh tế thị trờng phát triển rất chú trọng kiểm toán nội bộ
và kế toán quản trị bởi thông qua hai bộ phận này kiểm tra, phân tích các hoạt động kinh
doanh phục vụ cho việc khai thác khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp để doanh nghiệp

15

×