Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

LUẬN VĂN: Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và tăng cường vai trò của nó trong nền kinh tế ngày nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.28 KB, 29 trang )











LUẬN VĂN:

Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước và tăng cường vai trò của nó
trong nền kinh tế ngày nay







A. Phần mở đầu

Trong nền kinh tế thị trường (KTTT) cái khác nhau cơ bản giữa các dạng
KTTT chính là mục đích vận động của nền kinh tế đó. Điều này lại xuất phát từ
đường lối chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội của giai cấp thống trị xã hội, thông qua
vai trò quản lý của nhà nước, từ đó càng có sự khác nhau về phương pháp và biện
pháp quản lý nền KTTT của nước đó.
Đối với nước ta, khi thực hiện quá trình chuyển nền kinh tế kế hoạch tập
trung, quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN,


không thể hiểu mơ hồ, xem nhẹ vai trò quản lý của nhà nước. ở đây cần phê phán
mạnh mẽ một số người cho rằng, đã chấp nền KTTT thì không cần hoặc xem nhẹ
vai trò của nhà nước trong quản lý nền kinh tế, Nhà nước không nên can thiệp sâu
vò kinh tế, mà để mặc các quy luật kinh tế tự điều tiết các quan hệ kinh tế như quan
hệ cung cầu, quan hệ sản xuất và tiêu dùng. Thực chất của những người này là
muốn chúng ta từ bảo tính định hướng XHCN. Trong nền KTTT, lái nền kinh tế
nước ta đi theo con đường TBCN mà thôi. Chúng ta không thể chấp nhận điều này
vì nó trái ngược với sự vận động khách quan, với con đường mà Đảng và nhân dân
ta. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ: " Xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường
vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN" Sự quản lý của nhà nước ta
thông qua việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội các chương trình kế
hoạch, ban hành pháp luật kinh tế, các chính sách, kinh tế trên nhiều lĩnh vực nhằm
một mặt, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mặt khác không ngừng củng cố,
xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN trên cả ba mặt sở hữu, quản
lý và phân phối. Đề cao vai trò quản lý của nhà nước ta cũng có nghĩa là đề cao vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Đây là nhân tố quyết
định bảo đảm giữ vững định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta trong thời kỳ
quá độ. Nói cách khác là đã sử dụng KTTT để xây dựng CNXH nhất thiết cần có
vai trò quản lý của nhà nước của dân, do dân và vì dân để nền kinh tế phát triển lành
mạnh, đúng hướng. KTTT có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN có

nội dung hết sức phong phú, đang ngày càng được bổ xung, phát triển cả về lý luận
cũng như thực tiễn ở nước ta. Chúng ta sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình
thức kinh tế và phương pháp quản lý của KTTT để kích thích sản xuất, phát huy
tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất thúc đẩy
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, lãnh đạo, quản lý nền kinh tế để phát triển đúng
hướng đi lên CNXH. Về cơ bản nền KTTT mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh
tế mà ở đó các thành phần kinh tế được phát triển bình đẳng trức pháp luật, nền kinh
tế lấy thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng,

lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo, lấy việc xây dựng một xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh làm mục tiêu.

B. Cơ sở lý luận:

I. Một số vấn đề lý luận về kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước theo cách hiểu hiện nay là thành phần kinh tế do nhà nước,
với tư cách là người đại diện cho toàn dân làm chủ sở hữu và tổ chức quản lý.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần để góp phần phát huy sức mạnh của toàn dân, toàn dân tộc, phát triển
kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN. Đó là chính sách nhất quán, lâu dài trong cả thời kỳ quá độ đi lên
CNXH. Để thực hiện có hiệu quả chính sách đó, Trung ương có trách nhiệm xây
dựng phương hướng, nội dung, giải pháp cụ thể của từng thành phần kinh tế theo
tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng. Trung ương làm việc tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là để góp phần bảo
đảm cho kinh tế nhà nước giữa vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân,
một vấn đề rất lớn và cơ bản trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, chứ không hề coi nhẹ việc phát triển các thành phần kinh tế khác.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các sở hữu nhà nước
như đất đai, ngân sách, lực lượng dự trữ kể cả một phần vốn của nhà nước đưa vào
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghĩa là, hệ thống kinh tế nhà

nước gồm hai bộ phận cấu thành: doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi
doanh nghiệp (đất đai, ngân sách quốc gia, các quỹ quốc gia ). Doanh nghiệp nhà
nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý,hoạt
động kinh tế hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có hai loại: loại hoạt động kinh doanh vì
mục tiêu lợi nhuận và loại hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận. Ngoài
ra, còn có loại nằm giữa hai loại trên, như những tổ chức kinh tế đang quản lý, bảo

dưỡng cơ sở kinh tế hạ tầng (cầu, đường, sân bay, bến cảng ) loại này có xu
hướng chuyển hoá từng phần sang hai loại trên.
Kinh tế nhà nước cần và có thể giữ vai trò chủ đạo của mình. Kinh tế nhà
nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN, ổn định và phát
triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước phải không
ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền
kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô,
làm lực lượng nòng cốt góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội
nhập kinh tế quốc tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước
phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội trong đó lấy suất sinh lời
trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh
nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ
yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích.
II. Vai trò của kinh tế nhà nước
Với việc chú trọng làm cho kinh tế nhà nước không ngừng lớn mạnh, thật sự
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, chăm lo xây dựng quan hệ sản xuất
mới theo hướng làm cho nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, tạo dựng
một chế độ xã hội dân chủ, công bằng văn minh tiến bộ. Tiếp tục đổi mới và phát
triển hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy d đẩy nhanh
tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội: mở đường hướng dẫn, hỗ trợ
các thành phần khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện
chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô. Chính vì thế vai trò của kinh tế nhà nước

trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng là vai trò của nhà nước trong
quản lý kinh tế. Song vai trò của nhà nước cần được xem xét từ hai góc độ; trong
kinh tế thị trường và trong kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường
Vai trò điều chỉnh, bằng cách cân đối cung cầu trong toàn xã hội để chỉ đạo
các doanh nghiệp không làm lệch cung - cầu chung cái mà tăng doanh nghiệp không

nắm được. Trong vai trò này phải phát hiện kịp thời những mặt cân đối, những nguy
cơ tiềm ẩn để lo ngăn ngừa trước hay đối phó kịp thời khi nó xảy ra. Việc sử dụng
các công cụ như tài chính tiền tệ để điều chỉnh tốc độ phát triển sao cho hài hoà, đòi
hỏi phải thường xuyên kiểm tra lại các lý thuyết kinh tế về các công cụ đó xem mức
độ đúng sai ra sao. Vì cơ sở lý luận mà không khoa học sẽ dẫn tới những sai lầm rất
lớn.
Vai trò điều tiết giữa các lĩnh vực, các vùng kinh tế đó tạo ra sự phát triển hài
hoà. Điều tiết khó hơn điều chỉnh vì nó không phải chỉ là cân bằng mà nó đòi hỏi
phải tính ra được một tỷ lệ phát triển tối ưu cả về không gian và thời gian. Nó cũng
đòi hỏi tầm nhìn xa xem xét thị trường hiện nay như thế nào nhưng tương lai nó sẽ
biến động ra sao để điều tiết từ nơi thừa sang nơi thiếu, lúc thừa sang lúc thiếu.
Vai trò tạo sân chơi công bằng để các doanh nghiệp tự do kinh tế. Đó cũng là
tạo công bằng xã hội. Biện pháp được soạn thảo đúng với quy luật thị trường sẽ
giúp thực hiện tốt vai trò này.
Vai trò bảo hộ cho sản xuất trong nước. Về vai trò này, đang có những ý kiến
khác nhau. ý kiến cho rằng ta buộc phải tham gia AETA thì vai trò bảo hộ sẽ mất
dần đi.
2. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa đòi hỏi phải phát hiện ra những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa để tìm ra những định chế có khả năng xoá bỏ những khuyết tật đó và tạo ra
dần dần một kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.

Vai trò này cũng đòi hỏi phải thay thế dần phương thức phân phối theo tư
bản bằng phương thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lựckhác nhau vào kết
quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội: Nói rộng ra là sáng
tạo ra những cách quản lý mới để dần biến đổi dần thị trường tư bản chủ nghĩa
thành thị trường XHCN.

Củng cố và phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để nước thực sự giữ vai
trò chủ đạo là điều phải làm nếu muốn thực hiện vai trò của nhà nước trong kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN. Lâu nay người ta vẫn nhìn thành phần kinh tế
quốc doanh như là một thành phần kinh tế được quản lý rất tốt mà quên mất rằng
có nhiều Xí nghiệp quốc doanh kinh tế có hiệu quả. Không phải cổ phần hoá, mà
nhiều người cố hiểu là tự nhân hoá, mới thay đổi được cung cách làm việc quan
liêu, điều quan trọng là phải làm thế nào nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh
nghiệp nhà nước, có chính sách kích thích kinh tế để phân khuyến khích nâng cao
năng suất lao động. Trong các doanh nghiệp nhà nước, nhà nước là cổ đông duy
nhất vẫn có thể thành lập hội đồng quản trị để trực tiếp quản trị kinh doanh.
Thực hiện vai trò của nhà nước trong KTTT theo định hướng XHCN là rất
khó khăn vì không thể chia tách thị trường nước ta ra ngoài thị trường thế giới bao
gồm cả kinh tế thị trường của các nước tư bản. Vì thế cần phải thực hiện hài hoà
bằng hai cách.
- Đối thoại với các nước tư bản để họ cũng thấy được khuyết tật và tự điều
chỉnh, đó là phương pháp hay nhất.
- Khéo léo dùng những giải pháp đặc biệt để ngăn chặn tác động sấu của thị
trường tư bản tư bản vào kinh tế nước ta.
Khi đã xác định được vai trò của nhà nước phải nghiên cứu tiếp nội dung
quản lý và công cụ quản lý của nn trong KTTT. Những công cụ quản lý của nhà
nước luôn luôn thay đổi tuỳ theo mức tiến bộ hay tụt lùi của kinh tế học. Như học
thuyết Keynes đã cung cấp cách sử dụng công cụ tiến bộ để khắc phục khủng hoảng
kinh tế. Vì vậy muốn thực hiện những vai trò tất yếu của nhà nước phải chăm lo xây
dựng một học thuyết kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Trung ương khẳng định tư tưởng của Nghị quyết Đại hội IX xác định vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước, xác định doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng
cốt của kinh tế nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, là công cụ vật chất
quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế nhà
nước, doanh nghiệp nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng

xã hội chủ nghĩa, phát triển và ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Vì
vậy doanh nghiệp nhà nước phải không ngừng sắp xếp đổi mới, phát triển, có trình
độ công nghệ và quản lý tiên tiến, không ngừng nâng cao hiệu quả.
3. Kinh tế nhà nước tất yếu phải giữ vai trò chủ đạo
Thứ nhất, kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản
xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. ở
đây, cần phải biết hình thức sở hữu và chủ sở hữu. Nhà nước đại diện cho toàn dân -
là chủ sở hữu công cộng của toàn dân.
Thứ hai, kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương
sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các
thành phần kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
Thứ ba, kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của
nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết hướng dẫn giúp đỡ là liên
kết tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Thứ tư, kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác
không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đường gián tiếp,
thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học - công
nghệ hiện đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn
cho ngân sách nhà nước và tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng.
Thứ sáu, kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm
kinh tế; đô thị mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí
quan trọng, sống còn nhưng ít ai giám đầu tư vì đòi hỏi vốn có nhiều mà thời gian
thu hồi vốn chậm.

III. Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
1. Tình hình
Trong hơn 10 năm qua Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương,
biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và nền kinh tế có nhiều khó

khăn gay gắt, doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững và
không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi
mới và phát triển đất nước; đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng
XHCN.
Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực theo chốt và
sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện
được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng thế và lực của đất
nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước,
trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với
nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc
phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho
xã hội, quốc phòng, an ninh. Doanh nghiệp nhà nước ngày càng thích ứng với cơ
chế thị trường; năng lực sản xuất tiếp tục tăng; cơ cấu ngày càng hợp lý hơn; trình
độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước
được nâng lên; đời sống của người lao động từng bước được cải thiện.
Năm 2000, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đóng góp 39,5% GDP, 39,2%
tổng thu ngân sách, trên 50% kim ngạch xuất khẩu; nộp thuế thu nhập trong 10 năm
(1999 đến 2000) gần 64.000 tỷ và có khoảng 250 đơn vị được cấp chứng chỉ ISO,
được người tiêu dùng bình chọn đạt chất lượng sản phẩm cao 5 năm liền
Đạt được những kết quả trên là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng
và Nhà nước; sự chỉ đạo thực hiện kiên trì của chính phủ và các cấp, các ngành; sự
cố gắng phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách để vươn lên của các doanh nghiệp
nhà nước, của đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động trong cơ chế mới.

Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém và
hiện nay đang nổi cộm bốn vấn đề gay gắt trong cạnh tranh của kinh tế thị trường
định hướng XHCN như sau:
- Quy mô và các mối quan hệ quản lý của doanh nghiệp nhà nước có nhiều
điểm chưa hợp lý. Doanh nghiệp nhà nước phát triển còn chồng chéo, trùng lập về

ngành nghề, sản phẩm. Nguồn vốn hạn hẹp nhưng lại đầu tư hình thành và phát
triển nhiều DNNN có quy mô và quá nhỏ bé. Không đủ lực để tổ chức sản xuất kinh
doanh có hiệu quả. Đây là một sự lãng phí lớn trong đầu tư phát triển.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu đã và đang là lực cản đối với quá trình
nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh các sản phẩm trên thương trường.
Nhiều loại vật tư, nguyên liệu tồn kho từ thời kỳ bao cấp đã lỗi thời, phẩm chất đó
giảm không tiêu thụ được nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn "treo" lại, chờ nhà
nước có biện pháp xử lý. Do đó, doanh nghiệp phải tăng thêm chi phí bảo quản, cất
giữ, gây ứ đọng vốn, dẫn đến tình hình tài chính doanh nghiệp đã khó khăn lại càng
khó khăn hơn. Hiệu quả sản xuất doanh nghiệp nhà nước giảm dần. Nợ nần nhiều,
quan hệ phải thu, phải trả ngày càng lớn, tình hình tài chính thiếu lành mạnh. Nhà
nước phải giúp đỡ hỗ trợ ngày càng nhiều trong khi ngân sách nhà nước còn co hẹp
tỷ lệ vay nợ trong và ngoài nước ta.
- DNNN cũng là một trong những "địa chỉ" của tệ lãng phí, tham nhũng, gây
thất thoát, tổn thất ngoài tài lực của nhà nước.
Trong 3 năm gần đây số doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và đa dạng sở
hữu gần như dận chân tại chỗ; nhiều bộ Ngành, địa phương lại thành lập thêm
DNNN dù chưa đủ cơ sở và điều kiện phần lớn những doanh nghiệp mới được
thành lập không thuộc ngành mũi nhọn, then chốt, mà chủ yếu hoạt động trong lĩnh
vực thương mại - dịch vụ, xây dựng; sản xuất hàng tiêu dùng là những lĩnh vực
mà các thành phần kinh tế khác có nhiều lợi thế hơn.
Các tổng Công ty 91 tuy là những doanh nghiệp có nhiều lợi thế và tiềm lực,
nhưng tình hình cũng chưa sáng sủa so với thực trạng chung của doanh nghiệp nhà
nước. Về vốn; 17 doanh nghiệp này nắm giữ tới 80.000 tỷ đồng /126.000 tỷ đồng
chiếm tới 63,5% tổng số vốn ngân sách tại các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ các

sản phẩm quan trọng nhất và luôn được hưởng những chính sách ưu đãi của chính
phủ mỗi khi gặp khó khăn thế nhưng số lãi trước thuế của 17 tổng Công ty trong 6
tháng đầu năm 2001 chỉ đạt 92% so với cùng kỳ, chỉ bằng 47% kế hoạch cả năm,
vẫn còn 23% số các doanh nghiệp thành viên bị thua lỗ.

2. Nguyên nhân:
Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách
quan, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan và được đúc rút trong 4 nguyên
nhân chính sau:
- Hệ thống thể chế, chính sách đối với DNNN chưa được cải tién kịp quá
trình đổi mới theo cơ chế quản lý của nền KTTT. Hệ thống thể chế, chính sách hiện
nay vừa thể hiện lối tư duy cũ, nặng cơ chế xin - cho, ban phát, bảo trợ đến mức tối
đa từ ngân sách nhà nước, từ các mệnh lệnh theo ý muốn chủ quan của cơ quan
hành chính, quản lý cấp trên, để không chênh lệch hướng và mong muốn nó làm
được vai trò then chốt, cạnh tranh thắng lợi trên thương trường. Do vậy, quyền tự
chủ, tự quyết định của DNNN trên thương trường bị tước bỏ; quyền tự chịu trách
nhiệm trước pháp luật về những quyết định, quyết đoán cũng không còn Điều đó
còn gây tâm lý ỷ lại nặng nề, dựa dẫm vào sự bảo trợ của nhà nước, vừa triệt tiêu
động lực, vừa không khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của mình.
- Hai là tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp chưa hợp lý. Với bộ máy quản
lý hiện nay, hệ thống DNNN đã phải gánh chịu hai gọng kìm bất cứ lúc nào cũng
đến kiểm tra mà giúp đỡ thì ít, hạch sách thì nhiều. Một bên là bộ, ngành, cấp chủ
quản của doanh nghiệp và một bên là các tổ chức thanh tra, kiểm tra thuộc bộ quản
lý chuyên ngành với hệ thống ngành dọc từ trên xuống dưới.Tức là, tất cả các bộ,
ngành với hệ thống dọc, ngay đều có quyền thực hành chức năng của mình tại
doanh nghiệp để hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát, thanh tra, kiểm tra, trên thực tế,
nhiều khi đó là sự nhũng nhiễu phiền hà và gây tổn thất cho doanh nghiệp, hiệu quả
thấp và không rõ rệt.
- Đội ngũ cán bộ lãnh đạo DNNN chưa được phát huy và thể hiện được năng
lực, bản lĩnh cần phải có. Yêu cầu đối với giám đốc trong điều kiện mới không chỉ

có năng lực, trình độ về nghiệp vụ kinh doanh mà cần phải có óc sáng tạo, tinh thần
trách nhiệm, sự nhanh nhẹ trong việc thu nhập và xử lý thông tin, sáng suốt trong
dự báo các tình huống trên thương trường với sự năng động, chủ động trong kinh

doanh, có phẩm chất vững vàng trong quá trình đối mặt với tiền - hàng, coi tài sản
của quốc gia như của chính mình với ý thức "vì nhân dân phcụ vụ", làm giàu cho
dân, cho nước, cho mình. Trách nhiệm không chỉ thuộc bản thân của từng giám đốc,
mà lớn hơn, cao hơn thuộc về hệ thống tổ chức và cán bộ trong việc theo dõi đề bạt,
bổ nhiệm giám đốc nói riêng và đội ngũ cán bộ chủ chốt trong từng doanh nghiệp
nói chung.
- Mô hình và cơ chế lãnh đạo của Đảng trong DNNN còn nhiều bất cập, nên
chưa phát huy được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của thủ trưởng doanh nghiệp,
mặt khác DNNN còn là cái "túi" chứa đựng nhiều loại lao động. Đây là nỗi khổ tâm
của không ít giám đốc doanh nghiệp muốn cải tổ, cải cách. Đổi mới, sắp xếp lại
nhân sự trong doanh nghiệp.
Từ sự phân tích nhiều mặt như trên, càng cho thấy việc thua lỗ kém hiệu quả
thậm chí phá sản của một bộ phận DNNN không phải do thuộc tính, bản chất của
DNNN mà chủ yếu do con người: từ khâu hoạch định thể chế, chính sách cơ chế tổ
chức bộ máy quản lý cho đến việc quản trị, điều hành trong từng doanh nghiệp
cũng như cả hệ thống.
3. Những vấn đề về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Tại hội Nghị trung ương đã dành phần lớn thời gian để thoả thuận và thông
qua Nghị quyết " tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của
doanh nghiệp nhà nước ". Đây là vấn đề rất lớn, rất cơ bản trong đường lối kinh tế
của Đảng. Tổng kết 15 năm đổi mới và xác định phương hướng chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
" kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kt nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, " kinh tế nhà nước phát huy vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà
nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và

chấp hành luật pháp. Hội nghị của Trung ương lần này cũng bàn và ra nghị quyết để
thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng; bảo đảm doanh nghiệp nhà nước có vị trí then
chốt góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN nhằm nâng cao hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
đưa nước ta trở thành một nước phát triển.
IV. Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
1. Đối với kinh tế và nước.
Để phat huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Báo cáo chính
trị của ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội lần thứ VII đã nhấn mạnh: " Chủ
động đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở
thành nền tảng.
Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền
kinh tế quá độ lên CNXH ở nước ta. Các hành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
luôn luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan xen trong cơ
cấu kinh tế quốc dân thống nhất, trên cơ sở và hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh
tranh với nhau trong nền kinh tế thị trường và bình đẳng trước pháp luật. Để tiến
hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước các thành phần kinh tế phải được cải
biến dựa vào những tiền đề khách quan; thứ nhất, xuất phát từ trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trên thực tế, thứ hai là xuất phát từ đặc điểm, tính chất của
từng ngành nghề mà xác định tỷ trọng, quy mô, cơ cấu các thành phần kinh tế cho
phù hợp; thứ ba, xuất phát từ khả năng tổ chức và quản lýkt của nhà nước XHCN và
đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế. Vấn đề không phải là xoá bỏ hay ưu tiên thành phần
kinh tế này hay thành phần kinh tế khác, mà điều quan trọng là phải nắm vững bản
chất của từng thành phần và sử dụng chúng để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Mỗi thành phần kinh tế có bản chất và những quy luật kinh tế hoạt động
riêng, dựa trên một số hình thức sở hữu nhất định về lực lượng sản xuất và có khả

năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

tương ứng. Khả năng tái sản xuất là điều kiện tồn tạo và vận động của mỗi thành
phần kinh tế. Chính xu hướng mở rộng hay thu hẹp khả năng sản xuất chỉ rõ vai trò
của triển vọng của mỗi thành phần kt trong nền sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, các thành phần kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có mối
liên hệ và tác động qua lại, đan xen. Để bảo đảm nền kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN trong quá trình vận động, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với các thành
phần kinh tế khác, thành phần kinh tế nhà nước phải tự vươn lên, làm sao để cùng
với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng cho chế độ xã hội mới. Xã hội
XHCN.
Để thành phần kinh tế nhà nước có thể thực sự giữ vai trò chủ đạo, xứng
đáng là phương thức sản xuất chi phối, cần áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ chủ
yếu dưới đây:
- Tập chung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành,
những lĩnh vực trọng yếu mà các thành phần kinh tế khác không có đủ điều kiện
hoặc không muốn đầu tư kinh doanh như: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hệ thống
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan
trọng, một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng,
an ninh nhà nước chỉ nên nắm một số trong đa số những ngành, lĩnh vực chính
trong nền kinh tế, tức là những vị trí kinh tế then chốt, yết hầu, thông qua đó mà
điều tiết chi phối, hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm
cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản
xuất bằng cách lựa chọn các hình thức kinh tế phù hợp.
- Đổi mới dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại và phát
huy ưu thế về kỹ thuật tiến bộ nhất; liên kết, liên doanh với các thành phần kinh tế
khác nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế xã hội.
- Thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận doanh
nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần thuộc sở hữu nhà nước phải có cổ phần chi phối
hoặc cổ phần đặc biệt.


- Tiếp tục sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước phù hợp với yêu cầu sản xuất -
kinh doanh trong điều kiện mới.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, phát huy quyền làm chủ của người
lao động và vai trò của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp.
2. Đối với doanh nghiệp nhà nước
Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, trong đó có phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đối với kinh tế quốc doanh, Đại hội đã chỉ rõ là: " phải đổi mới cơ chế quản
lý, bảo đảm cho đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang
hạch toán kinh doanh XHCN lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp
xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đẩy mạnh việc ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó ổn
định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân, viên chức, tăng tích
luỹ cho Xí nghiệp và cho nhà nước.
Song, sau 10 năm đổi mới ngoài những thành tựu thu được chúng ta đã vấp
phải những thử thách khó khăn mà Đảng và nhà nước ta đã rút ra được nhiều bài
học quý báu, từ những cuộc đổi mới sắp xếp doanh nghiệp nhà nước là:
- Một là, đó là sự quán triệt đầy đủ chủ trương của Trung ương, sự nhất trí và
quyết tâm cao của cấp uỷ và chính quyền các cấp trong việc triển khai thực hiện sắp
xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Thực tế ở một số nước như: thành phố
Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh cho thấy là sau khi quán triệt đầy đủ, nhất trí cao và có
quyết tâm thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về đổi mới và sắp xếp doanh
nghiệp nhà nước, các cơ quan Đảng và Nhà nước ở địa phương đã ban hành những
văn bản cụ thể để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện.
Ngược lại, ở một số bộ, ngành, địa phương, do chưa nhận thức đúng và thống
nhất về vị trí vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay, chưa quán


triệt đầy đủ chủ trương sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước nên kết quả còn
hạn chế.
- Hai là, công tác tổ chức học tập, tuyên truyền, giải thích, vận động thực
hiện chủ trương chính sách sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước được coi trọng
ngay từ đầu và suâts trong quá trình tổ chức thực hiện phương án. Các cấp uỷ Đảng,
liên đoàn lao động, Ban tuyên giác tỉnh uỷ đã tổ chức học tập và giới thiệu các văn
bản của nhà nước về sắp xếp đổi mới doanh nghiệp, Đài phát thanh truyền hình,
Báo địa phương, đa bám sát chủ đề này để tuyên truyền, giải thích, vận động, biểu
dương, ban đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh đã chủ động phối hợp với các sở đến
từng doanh nghiệp để giải quyết về cơ chế chính sách và giới thiệu kết quả, hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã cồ phần hoá, về sự thay đổi tác
phong người thợ làm công ăn lương sang người chủ thực sự có cồ phần trong Công
ty để cán bộ doanh nghiệp và công nhân yên tâm và quyết tâm đi vào cổ phần hoá.
- Ba là, khi xây dựng phương án, tổ chức thực hiện phương án sắp xếp đổi
mới doanh nghiệp nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ từ cơ sở cho
đến các sở, ngành, huyện, thành phố và tỉnh việc phát huy dân chủ sẽ thống nhất
giữa cấp dưới và cấp trên, phát huy được trí tuệ tập thể người lao động trong doanh
nghiệp cho việc đổi mới chính doanh nghiệp của họ. Đồng thời với việc tuân thủ,
nguyên tắc dân chủ, phải thực hiện tập chung. Những vấn đề còný kiến khác nhau,
nhất là khi xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá thì chủ tịch tỉnh
sẽ là người quyết định cuối cùng. Doanh nghiệp nhà nước là do nhà nước đầu tư
thành lập, phục vụ cho mục tiêu chiến lược của nhà nước là do nhà nước (gồm cả
trung ương và địa phương) quyết định. Trong nhiều địa phương, một số giám đốc
không thực hiện kế hoạch đã giao thì người quyết định thành lập doanh nghiệp sẽ
bãi miễn giám đốc và cử người khác lên thay.
- Bốn là; thực hiện đúng, đủ các chế độ chính sách và giải quyết việc làm đối
với người lao động trong doanh nghiệp thực hiện tổ chức sắp xếp lại và cổ phần
hoá, để người lao động yên tâm phấn khởi. Quyền lợi ưu đãi, công nhân nghèo mua
cổ phần trả chậm đã được công khai thảo luận dân chủ. Nguồn vốn chủ yếu để giải


quyết quyền lợi cho số lao động dôi dư này là quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước và một phần ngân sách của tỉnh.
- Năm là; tính sáng tạo và phát huy tối đa sáng kiến của địa phương, để trên
cái nền chính sách chung của nhà nước mà cụ thể hoá cách làm cho phù hợp và
mang lại hiệu quả cao. Thí dụ, tình hình chung của Nam Định là đại đa số công
nhân còn nghèo, thu nhập thấp nên khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước đã áp dụng giải pháp bán cổ phần làm nhiều đợt để đạt được tỷ lệ đã duyệt
trong phương án cổ phần hoá.
- Sáu là; các địa phương đạt kết quả cao trong sắp xếp và cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước. Còn là do đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp
quyết tâm thực hiện sắp xếp và cổ phần hoá. Đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý doanh
nghiệp nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện sắp xếp và cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước, quyết dịnh sự thành bại của công tác này. Tại nhiều nơi
có tình hình trì trệ trong sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà một
nguyên nhân quan trọng là sự không hưởng ứng tích cưcụ, sự nứu kéo, tù hãm với
mọi lý do và biện minh của đội ngũ này. Nhưng tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Nam Định thì không phải vậy. Giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng của
doanh nghiệp nhà nước đều đi đâu trong sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước, đóng góp rất nhiều công sức, từ việc nghiên cứu học tập các chỉ thị, Nghị
quyết, Nghị định, Thông tư để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp để
xây dựng phương án cổ phần hoá, điều lệ công ty, đến việc tổ chức cho công nhân
học tập, thảo luận. Do đó ở Nam Định hầu hết giám đốc, phó giám đốc, kế toán
trưởng của 22 doanh nghiệp đã cồ phần hoá đều được Đại hội cổ đông sáng suốt lựa
chọn bầu vào hội đồng quản trị và đa số trong đó được cử làm giám đốc Công ty cổ
phần.
- Bảy là; một yếu tố không kém phần quan trọng là vai trò của Ban đổi mới
quản lý doanh nghiệp tỉnh và việc chọn được các cán bộ có tâm huyết, có tri thức và
nhiệt tình cho công tác này. Trong quá trình thực hiện sắp xếp và đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh chỉ đạo sâu sát thường
xuyên, phối hợp chặt chẽ, hoạt động nhịp nhàng có hiệu quả giữa các ngành. Thêm


vào đó, về phía doanh nghiệp và các cơ quan quản lý doanh nghiệp, tỉnh cũng yêu
cầu phải thành lập các ban đổi mới doanh nghiệp ở sở, ngành, quân, huyện do một
đồng chí lãnh đạo làm trưởng ban doanh nghiệp có giám đốc làm trưởng ban. Như
vậy, công tác cổ phần hoá đã triển khai đồng bộ cả bề rộng và chiều sâu, hầu như
không có cơ quan nào đứng ngoài cuộc.
Từ những bài học kinh nghiệm được đúc kết rút từ thực tế kể trên chúng ta
cần phải tìm những giảipháp phương án nhằm vượt qua những khó khăn để đạt mục
tiêu đã định như sau: 5 giải pháp.
(1) Tận dụng và sử dụng có hiệu quả cao nhất nguồn lực vật chất to lớn, của
kinh tế nhà nước để đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp - dịch vụ với tốc độ nhanh hơn. Trong đó mục
tiêu ưu tiên hàng đầu là củng cố các DNNN đã có các cơ sở kinh tế vững chắc, đồng
bộ, đã và đang có những tiềm lực về năng suất, chất lượng, hiệu quả làm nòng cốt
để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao tốc độ tăng trưởng. Trước mắt,
cần phải tập trung tháo gỡ các vướng mắc trong việc hình thành đồng bộ các thể chế
kinh tế thị trường: Vốn, lao động, đất đai, địa ốc, thông tin, khoa học và công
nghệ Đồng thời, để thực hiện được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung,
cơ cấu nông nghiệp - nông thôn nói riêng, phải đổi mới cơ chế và phương hướng
đầu tư của nhà nước cải cách thực hiện hệ thống tài chính - ngân hàng theo hướng
tập trung đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tôn trọng các cam kết với các tổ
chức kinh tế - tài chính quốc tế.
Cần tổ chức chỉ đạo triển khai cải cách đồng bộ, có hiệu quả ở 4 lĩnh vực
then chốt: cải cách thể chế; cải cách hành chính, bộ máy tổ chức, nhân sự; cải cách
hoạt động tài chính - ngân hàng; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Trong đó cải
cách chế độ, chính sách tiền lương phải được coi là khâu đột phá để xoay chuyển
toàn bộ tình hình, tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện cải cách ở các lĩnh vực khác.
(2) Vấn đề cải cách thể chế kinh tế cần được nhà nước chỉ đạo khẩn trương,
đồng bộ, đạt được sự thống nhất chung giữa các bộ, ngành và các cấp quản lý nhằm
khắc phục được những tồn tại hiện nay để tạo đông lực phát triển. Vấn đề quan


trọng đặt ra đối với cải cách thể chế DNNN là cần phải đạt được những yêu cầu cải
cách các loại thể chế, bao hàm đầy đủ các nội dung sau:
- DNNN có mặt đúng trận tuyến then chốt, bảo đảm được định hướng và sự
ổn định xã hội, an ninh nhân dân bất kỳ trong tình huống nào. Không phát triển
DNNN tràn lang sang các lĩnh vực, ngành nghề mà các thành phần kinh tế khác có
thể làm.
- Tạo lập cho được những cơ sở, những điều kiện tối thiểu, cần thiết ban đầu
cho DNNN đủ sức hoạt động với thế mạnh về cạnh tranh. Và các nguồn lực trên
một sân chơi bình đẳng, các DNNN cũng cần cạnh tranh với nhau để phát triển.
- Không có sự can thiệp quá sâu của nhà nước với tư cách là chủ sở hưu để
quản lý trực tiếp về phương án sản xuất kinh doanh, vốn, nhân sự, tiền lương, phân
phối điềuhành doanh nghiệp phải hoạt động trong thế bị động, lúng túng khó khăn,
không phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh mà luật
pháp quy định.
- Không có kẽ hở trong thể chế, chính sách để bọn xấu có thể lợi dụng, đặc
biệt cần loại bỏ ngay bọ ăn cắp, những kẻ hám danh, hám lợi, lừa đảo, thông đồng
trong ngoài để "rút ruột nhà nước ". Đồng thời không hình sự hoá các quan hệ kinh
tế - dân sự, công tác thanh tra, kiểm tra có tác dụng thiết thực, vừa phát hiện nhân tố
mới, vừa phát hiện, ngăn chặn sai lầm.
- Xoá bỏ cơ chế chủ quan đối với DNNN của các Bộ, Ngành, cấp quản lý
hành chính địa phương. Trên cơ sở phân định rõ 2 chức năng của đại diện chủ sở
hữu nhà nước và chức năng quản lý nhà nước. DNNN chỉ chịu sự kiểm tra, quản lý,
giám sát của luật pháp nói chung của các bộ quản lý chuyên ngành ở từng lĩnh vực
nói riêng.
- Luật hoá về trách nhiệm thực hiện quy chế dân chủ tại doanh nghiệp và
trách nhiệm của người thủ trưởng thuộc cơ quan chủ quản và người giám đốc phải
chịu trách nhiệm bồi thường, chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật vì sự tổn
thất, thua lỗ của doanh nghiệp.
- Các chức danh có trách nhiệm chủ yếu về quản trị, điều hành DNNN cần áp

dụng những phương pháp tuyển chọn nghiên túc đúng ngành, nghề đào tạo, chặt

đứt những đường dây móc ngoặc trên dưới trong ngoài về cán bộ, phải có sự cam
kết trước pháp luật đối với cán bộ được bổ nhiệm các chức danh này.
(3) Trách nhiệm quản lý, điều hành DNNN cần được xây dựng rõ và giao
cho một người là Tổng giám đốc. Do vậy, trong quy chế làm việc của doanh nghiệp
nhà nước phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm và mối
quan hệ giữa tổng giám đốc với bí thư Đảng bộ, tập thể ban giám đốc với tập thể
ban thường vụ đảng bộ doanh nghiệp. Khi trách nhiệm rõ ràng, quyền hạn phân
minh giữa các cá nhân và tập thể thì mới tránh được tình trạng chồng chéo, dẫm
đạp, đùn đẩy ỷ lại nhau từ trong bộ bộ doanh nghiệp và mới có thể thành công
trong kinh doanh.
Để làm được điều đó nhà nước phải chọn lựa, thi tuyển, đề cử người có năng
lực, trình độ, phẩm chất xứng đáng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh
nghiệp. Đối với Tổng giám đốc DNNN phải qua thi tuyển nghiêm túc, được sát
hạch qua một hội đồng giám khảo về các phương án sản xuất kinh doanh, có sự cam
kết trách nhiệm trước pháp luật về sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và bồi
thường vật chất nếu để xảy ra tổn thất. Tổng giám đốc tuân thủ và hoạt động theo
pháp luật trong mọi lĩnh vực mà doanh nghiệp đang kinh doanh, thực hiện nghiêm
quy chế dân chủ cơ sở, quyết định các công việc của doanh nghiệp và chịu trách
nhiệm trước nhà nước, pháp luật về những quyết định đó.
(4) Xoá bỏ hẳn cơ chế chủ quản đối với DNNN. Có ý kiến lo ngại rằng, Nếu
nhà nước giao cho bộ tài chính đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, thông qua hệ
thống tổ cức dọc của ngành này để thực hiện đầu tư vốn các loại doanh nghiệp nhà
nước thì e không đảm đương nổi nhiệm vụ. Và quan trọng hơn, họ còn cho rằng với
cơ chế đó, chỉ khác trước đây có nhiều bộ, cấp chủ quản thì nay tập trung vào một
bộ - Bộ tài chính. Xoay quanh chủ đề này, ý kiến còn khác nhau là chuyện bình
thường. Bởi vì, khi tập trung vào một số đầu mối chịu trách nhiệm chính trong việc
đầu tư, quản lý và sử dụng vốn nhà nước thì có một địa chỉ chịu trách nhiệm duy
nhất trước nhà nước, trước pháp luật về gìn giữ và phát triển các loại tài sản thuộc

sở hữu toàn dân.

Điều đó hoàn toàn khác với việc phân tán cho nhiều đầu mối với tư cách là
bộ, ngành, cấp hành chính chủ quản với hai chức năng vừa đại diện chủ sở hữu, vừa
quản lý nhà nước theo cơ chế hiện hành trong việc đầu tư, quản lý và sử dụng
nguồn vốn của nhà nước. Từ đó, các bộ, ngành sẽ chuyên tâm hơn vào chức năng
quản lý nhà nước, còn doanh nghiệp nhà nước sẽ bớt được nhiều đầu mối phải
"trình bẩm".
(5) Mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền trong hoạt động của DNNN cũng
cần được nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh, các Đảng bộ, chi bộ, trong doanh nghiệp
thực hiện chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức cần nắm vững
hành động của đảng viên, đặc biệt về phẩm chất đạo đức, lãnh đạo Đảng viên hoàn
thành nhiệm vụ chuyên môn được phân công. Thực hiện vai trò giám sát, kiểm tra,
giữ vững nề nếp sinh hoạt phê và tự phê để quản lý đảng viên và giữ gìn đoàn kết
nội bộ trong đảng bộ theo điều lệ Đảng, pháp luật của nhà nước.
Cụ thể những giải pháp
(1). Định hướng sắp xếp phát triển doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh
doanh và hoạt động công ích.
a. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
- Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm vật liệu nổ hoá chất độc hại, chất
phóng xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc
tế.
- Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp
nhà nước hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực buôn bán, lương thực, buôn bán
săng dầu, sản xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng những doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh bảo đảm nhu cầu cần thiết và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của đồng bào các dân tộc ở miền núi vùng sâu, vùng xa.
- Nhà nước giữ cồ phần đặc biệt trong một số trường hợp cần thiết như là
chuyển các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước giữ 100% vốn sang hình thức

Công ty TNHH một chủ sở hữu là nhà nước hoặc Công ty cổ phần gồm các cổ đông
là các doanh nghiệp nhà nước.

Căn cứ vào định hướng trên, chính phủ chỉ đạo giám sát phê duyệt phân loại
cụ thể các doanh nghiệp nhà nước hiện có để triển khai thực hiện vào từng thời kỳ
xem xét điều chỉnh định hướng phân loại DNNN cho phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội.
Doanh nghiệp thuộc các tổ chức của Đảng thực hiện sắp xếp như đổi mới
doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị xã hội đăng ký
hoạt động theo luật doanh nghiệp.
- Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu
sẽ thực hiện dưới hình thức Công ty cổ phần. Chỉ thành lập với doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước đối với những ngành, lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền hoặc
các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia.
b. Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích.
- Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích trong
các lĩnh vực: in bạc và chứng chỉ có giá; điều hành hay bảo đảm hàng hải kiểm soát
và phân phối vô tuyến điện
- Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp
công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kỹ thuật, phương tiện giao
thông, cơ giới lớn, xuất bản sách giáo khoa, sách báo chính trị
Trong từng thời kỳ Chính phủ xem xét điều chỉnh định hướng phân loại
doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích hiện có, Chính phủ căn cứ vào
định hướng trên chỉ đạo rà soát phê duyệt phân loại cụ thể để triển khai thực hiện.
Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không thuộc diện nêu trên sẽ sắp xếp
lại. Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích phải được xem
xét chặt chẽ, đúng định hướng, có yêu cầu và có đủ các điều kiện cần thiết.
Khuyến khích nhân dân và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
sản xuất những sản phẩm, dịch vụ công ích mà xã hội cần và pháp luật không cấm.

(2). Sửa chữa bổ sung cơ chế, chính sách
a. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh

Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị
trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xoá bỏ bao cấp đối với
các doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản
phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành
phần kinh tế. Ban hành luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khuôn khổ pháp
luật chung. Đối với doanh nghiệp hoạt động nhà nước trong lĩnh vực độc quyền cần
có quy định kiểm soát giá và điều tiết lợi nhuận, cần tổ chức một số doanh nghiệp
nhà nước cùng cạnh tranh bình đẳng.
Nhà nước ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả và cơ chế giám sát doanh
nghiệp nhà nước.
Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, chế độ báo cáo, thông tin, thực hiện công
khai hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp.
- Về vốn: doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị
trường để phát triển kinh doanh, được chủ động xử lý các tài sản dư thừa, vật tư,
hàng hoá ứ đọng.
Nhà nước có cơ chế để trong 5 năm 2001 - 2005 cơ bản tạo đủ vốn điều lệ
cho doanh nghiệp. Không thu thuế sử dụng vốn ngân sách, chuyển hình thức cấp
vốn sang đầu tư vốn. Thí điểm lập Công ty đầu tư tài chính nhà nước để thực hiện
đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nghiên cứu ban hành luật sử
dụng vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh.
Doanh nghiệp được tự chủ trong việc phân phối và trình lập các quỹ từ lợi
nhuận để lại theo khung quy định chung. Nhà nước có chính sách đối với những tài
sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ
bản và lợi nhuận do chính tài sản đó làm ra theo hướng thực hiện hài hoà các lợi
ích, phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể, khuyến khích
doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư phát triển.

- Về đầu tư: tăng thêm quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp trong quyết
định đầu từ trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển được thực hiện.

- Về đổi mới hiện đại hoá công nghệ: doanh nghiệp được áp dụng chế độ ưu
đãi đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu quả thiết thực
cho doanh nghiệp, chi phí này được hạch toán vào giá sản phẩm. Nhà nước có chính
sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ.
-Về lao động tiền lương: doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao động
và chịu trách nhiệm giải quyết chế độ đối với người lao động do mình tuyển dụng
không có việc làm bằng các nguồn kinh phí của doanh nghiệp, được tự chủ trong
việc trả tiền lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Về cán bộ quản lý doanh nghiệp: doanh nghiệp chủ động lựa chọn và bố trí
cán bộ quản lý theo hướng chủ yếu là thi tuyển, cơ quan nhà nước và tổ chức có
thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm cán bộ chủ trốt của doanh nghiệp. Nhà nước có
cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ
quản lý doanh nghiệp.
- Về thanh tra kiểm soát: hàng năm doanh nghiệp phải được kiểm toán kết
quả, kiểm toán là căn cứ pháp lý về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các cơ
quan quản lý nhà nước phải có chương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với
doanh nghiệp và thông báo trước cho doanh nghiệp. Cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ
kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
b. Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích
Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ mà nhà nước quyết định quy mô tổ chức,
chính sách tài chính đối với doanh nghiệp công ích.
Chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu
thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các
sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp, thành phần
kinh tế. Nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động công
ích. Thực hiện cơ chế quản lý lao động, tiền lương và thu nhập trên cơ sở khối

lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà nhà nước giao hoặc đặt hàng.
(3). Đẩy mạnh cồ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

Mục tiêu cổ phần hoá DNNN là nhằm: tạo ra loại hình doanh nghiệp có
nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả
vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh
doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh
nghiệp nhà nước, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông
và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, đảm bảo hài hoà lợi ích
của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, cổ phần hoá DNNN không được
biến thành tư nhân hoá DNNN.
Đối tượng cổ phần hoá là những doanh nghiệp nhà nước hiện có mà nhà
nước không cần giữ 100% vốn, không phụ thuộc và thực trạng kết quả sản xuất kinh
doanh . Cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào định hướng sắp xếp, phát triển
doanh nghiệp nhà nước và điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết định
chuyển doanh nghiệp nhà nước hiện có thành Công ty cổ phần, trong đó nhà nước
có cổ phần chi phối, cổ phân đặc biệt, cổ phần ở mức thấp, hoặc nhà nước không
giữ cổ phần.
Hình thức cổ phần hoá bao gồm: giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành
cổ phiếu để thu hút thêm vốn, bám vào phần hiện có của doanh nghiệp cho các cổ
đông, cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, chuyển toàn bộ doanh
nghiệp thành Công ty cổ phần. Trường hợp cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh
nghiệp thì không được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất,
kinh doanh các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần được
ưu đãi cho người lao động tới các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Có quy định
để người lao động giữ được cổ phần ưu đãi trong một thời gian nhất định. Sửa đổi,
bổ sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để gắn
bó người lao động với doanh nghiệp; giành một tỷ lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài
doanh nghiệp. Nghiên cứu sử dụng một phần vốn tự có của doanh nghiệp để hình

thành cổ phần của người lao động, người lao động được hưởng lãi nhưng không
được rút cổ phần này ra khỏi công ty. Mở rộng việc bán cổ phần của các doanh
nghiệp công nghiệp chế biến nông lâm sản cho người sản xuất và cung cấp nguyên

liệu. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp cổ phần hoá sử dụng nhiều lao động
và có quy định cho phép chuyển nợ thành vốn góp cổ phần.
Sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng gắn liền với
thị trường, nghiên cứu đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp,
những điểm đấu thầu bán cổ phiếu và bán cổ phiếu qua các định chế tài chính trung
gian.
Nhà đầu tư được mua cổ phần lần đầu đối với doanh nghiệp cổ phần hoá mà
nhà nước không giữ cổ phần theo đúng quy định của luật doanh nghiệp và luật
khuyến khích đầu tư trong nước. Khuyến khích nhà đầu tư có tiềm năng về công
nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý, tiền vốn mua cổ phần. Số tiền thu được từ
mua bán cổ phần dùng để thực hiện chính sách đối với người lao động và để nhà
nước tái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, không được đưa vào ngân sách để
chi thường xuyên.
Nhà nước ban hành quy chế, chính sách phù hợp đối với doanh nghiệp nhà
nước đã chuyển sang Công ty cổ phần. Sửa đổi chính sách ưu đãi đối với các doanh
nghiệp cổ phần hoá theo hướng ưu đãi hơn đối với những doanh nghiệp mới cổ
phần hoá có khó khăn.
Chỉ đạo chặt chẽ doanh nghiệp nhà nước đầu tư một phần vốn để lập mới
Công ty cổ phần ở những lĩnh vực cần thiết.
Vai trò, vị trí then chốt của DNNN trong cơ chế mới phải nhằm đạt được
những mục tiêu, yêu cầu như trên để thúc đẩy sự phát triển từ nội tại của đời sống
kinh tế xã hội, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả trên thị trường nội địa trong
quan hệ kinh tế khu vực và kinh tế. Đạt được điều đó chỉ có một phương cách duy
nhất đó là Đảng lãnh đạo nhà nước quản lý chỉ đạo đầy đủ quyết tâm và quyết liệt.



×