Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận Triết Chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. Liên hệ thực tiễn phát triển kinh tế việt nam từ 1985 đến nay pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.54 KB, 16 trang )

Tiểu luận Triết
Chuyển hóa từ những sự thay
đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại.
Liên hệ thực tiễn phát triển
kinh tế việt nam từ 1985 đến
nay

1. Lời mở đầu
Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn
vẻ, con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính
lặp lại của các hiện tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”.
Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là
sản phẩm của tư duy khoa học, phản ánh sự liên hệ của các sự vật và tính
chỉnh thể của chúng.
Các quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người
đều mang tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc tự ý xóa bỏ
được quy luật mà chỉ nhận thức và vận dụng nó vào trong thực tiễn.
Quy luật “từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết
phương thức của sự vận động, phát triển. Nhận thức được quy luật này có ý
nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự
vật, hiện tượng. Đặc biệt là đối với đất nước Việt Nam ta khi đứng trước xu
thể phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới. Nước ta đang trong giai
đoạn quá độ lên CNXH với những khó khăn về mọi mặt, do đó việc nhận
thức đúng đắn quy luật lượng – chất sẽ có ý nghĩa rất lớn trong quá trình
phát triển kinh tế đất nước.
Trong phạm vi của bài tiểu luận này, chúng em xin trình bày những cơ
sở lý luận chung về nội dung của quy luật lượng – chất, trên cơ sở đó rút ra
ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức và vận dụng quy luật này để phát triển
nền kinh tế Việt Nam, đồng thời khẳng định lại một lần nữa tính tất yếu của


tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh với những nguyên lý Mác – Lênin trong
quản lý và phát triển đất nước.
2. Những khái niệm có liên quan
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn
có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật
là nó chứ không phải là cái khác.
Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật
trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác.
Lượng là phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển
cũng như các thuộc tính của sự vật.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay
đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự
thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi chất chất của sự vật.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất
của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
* Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại:
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về
lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước
nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới lại có chất
mới cao hơn Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không
ngừng biến đổi.
3. Những vấn đề lí luận để hiểu rõ nội dung quy
luật: “chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”
3.1 Quan niệm về chất và lượng của các nhà triết học cổ
Đối với nhiều nhà triết học tại Hy Lạp, vật chất thường đồng nhất với sự vật.
Từ đó họ cố gắng hiểu vật chất và các hình thức biểu hiện của nó từ phương

diện chất. Trái lại những người thuộc trường phái Pitago lại xem đặc trưng
về lượng của thế giới vật chất là nền tảng của mọi cái đang tồn tại. Họ xem
những mối quan hệ số lượng là quy luật cấu thành mọi sự vật của thế giới.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, chất và lượng có được ý nghĩa với
tư cách là những phạm trù trong triết học của Aixtốt. Ông xem chất là tất cả
những cái gì làm cho sự vật là nó. Còn lượng là tất cả những cái gì có thể
phân ra thành những bộ phận cấu thành. Ông phân lượng thành hai loại: số
lượng và đại lượng. Ông cũng là người đầu tiên tiến tới giải quyết một vấn
đề quan trọng của quy luật: vấn đề tính nhiều chất của sự vật. Từ đó, ông
phân biệt sự khác nhau về hình thức với chất căn bản của sự vật – cái sẽ xuất
hiện hay mất đi cùng với sự xuất hiện hay mất đi của bản thân sự vật; ông
cũng đạt được bước tiến đáng kể trong việc nghiên cứu phạm trù độ, xem độ
là cái thống nhất, cái không thể phân chia giữa chất và lượng.
Sau này, quan điểm phiến diện tuyệt đối hoá đặc trưng về lượng đã
được khắc phục trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt trong triết học Hêghen.
Hêghen đã phân tích một cách tỉ mỉ sự thống nhất biện chứng, mối quan hệ
qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa lượng và chất, xem xét chất và lượng
nằm trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Với quan điểm
biện chứng, Hêghen đã xem xét từ “ chất thuần tuý “ đến ” chất được xác
định ”; chất phát triển đến tột độ thì ra đời lượng; lượng cũng không ngừng
tiến hoá, “ số lượng ” là đỉnh cao nhất trong sự tiến hoá.
Trong việc xem xét mối quan hệ giữa thay đổi về lượng và thay đổi về
chất, Hêghen đặc biệt chú ý tới phạm trù bước nhảy. Chính dựa trên tư
tưởng của Hêghen, Lênin đã ra một kết luận quan trọng là : Việc thừa nhận
bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo quan điểm
biện chứng hay siêu hình về sự phát triển.
Tất nhiên, với tư cách là nhà triết học duy tâm, Hêghen đã xem các
phạm trù chất, lượng, độ chỉ như những nấc thang tự phát triển của tinh thần,
của “ ý niệm tuyệt đối ” chứ không phải là những nấc thang nhận thức của
con người đối với thế giới bên ngoài.

Về sau sự ra đời của phép biện chứng duy vật đánh dấu một giai đoạn
phát triển căn bản trong quan niệm về chất, lượng, mối quan hệ qua lại giữa
sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất nói chung.
3.2. Quan niệm biện chứng duy vật về chất và lượng
3.2.1 Quan niệm biện chứng duy vật về chất
Trong thế giới quanh ta tồn tại vô vàn sự vật, hiện tượng. Vì sao chúng ta
biết phân biệt đây là sự việc này, đây là sự việc kia? Điều đó là đơn giản vì
các sự vật khác nhau, có những đặc trưng, thuộc tính, những quy định khác
nhau. Như kim loại không có khả năng hòa tan một số chất giống nước. Hay
á kim không thể dẫn điện, dẫn nhiệt như kim loại. Mọi động vật và thực vật
đều được đặc trưng bởi đồng hóa, dị hóa nhưng chúng lại khác nhau Sở dĩ
ta phân biệt được những những sự vật hiện tượng khách quan đó là vì chúng
có sự khác nhau về chất.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là
nó chứ không phải là cái khác.
Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật
trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác, là những tính chất, những trạng
thái, những yếu tố cấu thành nên sự vật, Đó là những cái vốn có của sự vật
từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát
triển của nó. Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ
được bộc lộ ra qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.
VD : Khi cho đường vào nước ta thấy đường có tính tan, khi nếm ta
biết đường có vị ngọt. Vậy tính tan, vị ngọt là thuộc tính của đường, chúng
ta chỉ nhận biết được điều đó nếu chúng ta nếm hay khi vị giác của chúng ta
tiếp xúc, tác động qua lại với chúng. Tất cả những thuộc thính của đường là
những cái vốn có của đường, nhưng chúng chỉ bộc lộ ra trong quan hệ của
đường với nước hay trong quan hệ của đường với vị giác của con người.
Đặc trưng khách quan nói trên quy định phương thức nhận thức của
con người đối với vật chất của sự vật. Để nhận thức được những thuộc tính,

chúng ta cần nhận thức nó trong mối quan hệ giữa các sự vật. Trong mối
quan hệ cụ thể thường bộc lộ ra một thuộc tính (một khía cạnh về chất) của
sự vật. Do vậy, để nhận thức được chất với tư cách là sự tổng hợp của tất cả
các thuộc tính vốn có của sự vật đó, chúng ta phải nhận thức sự vật trong
tổng hoà các mối quan hệ có thể có giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Mỗi sự vật có vô vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật lại có một
tổng hợp những đặc trưng về chất của mình, nên khiến cho mỗi thuộc tính
lại trở thành một chất. Điều đó cũng có nghĩa, mỗi sự vật có vô vàn chất.
Với tư cách là những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các mối
quan hệ, các thuộc tính của sự vật cũng có vị trí khác nhau tạo thành những
thuộc tính cơ bản và những thuộc tính không cơ bản. Nhưng thuộc tính của
sự vật chỉ bộc lộ qua các mối quan hệ cụ thể với các sự vật khác. Bởi vậy sự
phân chia thành thuộc tính cơ bản và không cơ bản cũng chỉ mang tính chất
tương đối. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của sự
vật. Ở mỗi sự vật chỉ có một chất cơ bản, đó là tổng hợp những thuộc tính
đặc trưng cho sự vật trong toàn bộ quá trình tồn tại của sự vật; đó là loại chất
mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân
sự vật.
VD : trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, chất cơ bản của
nền kinh tế tư bản tư nhân là sản xuất chạy theo giá trị thặng dư. Khi đặc
trưng đó mất đi, nền kinh tế cũng không còn là kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Chất của sự vật không những được xác đinh bởi chất của các yếu tố
cấu thành, mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật
đó. Nghĩa là bởi kết cấu của sự vật.
Trong tự nhiên và cả trong xã hội, chúng ta thấy không ít sự vật, mà
xét riêng về các yếu tố cấu thành, chúng hoàn toàn đồng nhất, nhưng các sự
vật đó lại khác nhau về chất.
VD : kim cương và than chì là những sự vật đều do cácbon tạo thành.
Nhưng kim cương là vật cứng nhất trong tất cả các vật, có thể cắt được hầu
hết mọi kim loại, có giá trị kinh tế cao, còn than thì không có được những

đặc trưng tương tự. Sự khác nhau đó được quyết định bởi phương thức liên
kết khác nhau của các nguyên tử cácbon.
Chất của sự vật không chỉ thay đổi khi có sự thay đổi những yếu tố
cấu thành mà nó còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa
các yếu tố đó. Do vậy, để làm biến đổi chất của sự vật, chúng ta có thể cải
tạo các yếu tố cấu thành, hoặc biến đổi phươnng thức liên kết giữa các yếu
tố đó.
3.2.2. Quan niệm biện chứng duy vật về lượng
Lượng là phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển
cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay
ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,
Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo
lường cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây, một
phân tử nước gồm hai nguyên tử hidro liên kết với một nguyên tử oxy, bên
cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái
quát như trình độ tri thức khoa học của một người, ý thức trách nhiệm cao
hay thấp của một công dân, Trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có
thể nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái
quát hóa. Có những lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự
vật ( số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hóa học, số lượng lĩnh vực cơ
bản của đời sống xã hội ), có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài
của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có
những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong
mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. Chẳng hạn số
lượng sinh viên giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của
lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về
lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật.

Chất và lượng là hai mặt không thể tách rời nhau trong sự vật. Trong
quá trình vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật không đứng im.
Chúng luôn vận động không phải biệt lập với nhau mà luôn luôn có quan hệ
qua lại theo một quy luật nhất định.
3.3 Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và
sự thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa chất và
lượng. Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng
không bao giờ tồn tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận
động và phát triển của sự vật. Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với
nhau chứ không tách rời nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng
tới sự thay đổi về chất của nó và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật
tương ứng với sự thay đổi về lượng của nó. Sự thay đổi về lượng có thể chưa
làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất của sự vật. Ở một giới hạn nhất
định khi lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ
bản.
VD : khi xét các trạng thái khác nhau của nước trong khoảng nhiệt độ
từ 0⁰C đến 100⁰C, bản chất của nước vẫn không thay đổi (vẫn là chất lỏng).
Như vậy, không phải bất kỳ một sự thay đổi về lượng cũng ngay lập tức làm
thay đổi căn bản về chất của sự vật.
Khuôn khổ, mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về
chất của sự vật, được gọi là độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay
đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Những giới hạn mà khi lượng đạt tới đó sẽ làm thay đổi về chất của sự
vật được gọi là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự
thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi chất chất của sự vật.
Trong ví dụ trên, nếu coi trạng thái của nước là chất thì 0⁰C và 100⁰C

là điểm nút.
Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ ra đời chất mới với lượng
mới tương ứng của nó. Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một
độ mới với những điểm nút mới. Sự vận động và phát triển là khôn cùng. Do
đó, sự vận động, biến đổi của sự vật sẽ hình thành một đường nút của những
quan hệ về độ.
Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra
được gọi là bước nhảy :
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất
của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là
điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong
quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật. Có thể nói, trong quá
trình phát triển của sự vật sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục và sự liên
tục là kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Thế giới là muôn hình muôn vẻ, nên sự thay đổi về chất cũng hết sức
đa dạng với nhiều hình thức khác nhau. Tính chất của các bước nhảy được
quyết định trước hết bởi tính chất của bản thân sự vật, bởi những mâu thuẫn
vốn có. Với những sự vật có tính chất khác nhau và với những mâu thuẫn
khác nhau sẽ có những bước nhảy khác nhau. Chẳng hạn, bước nhảy trong
tự nhiên dẫn tới sự ra đời của những loài động vật, thực vật mới phải trải qua
hàng ngàn năm hoặc nhiều hơn. Nhưng cũng trong tự nhiên, chúng ta vẫn
quan sát thấy cả những quá trình thay đổi về chất diễn ra một cách nhanh
chóng.
VD : hiện tượng phóng xạ trong tự nhiên của một số nguyên tố hoá
học… Hay khối lượng Uranium 235 được tăng đến khối lượng tới hạn xẽ
xảy ra vụ nổ bom nguyên tử.
Tính đa dạng trong hình thức thay đổi về chất còn được quy định bởi
điều kiện trong đó diễn ra sự thay đổi về chất. Chẳng hạn, cũng là vấn đề
thay đổi quyền lực chính trị trong quá trình phát triển xã hội, nhưng tuỳ

thuộc vào điều kiện lịch sử – cụ thể mà sự thay đổi đó có thể diễn ra bằng
con đường hoà bình hoặc bạo lực cách mạng. Khi diễn ra theo con đường
thứ 2, bước nhảy được thực hiện trong khoảng thời gian tương đối ngắn,
“một ngày bằng hai mươi năm”.
Trong thực tế, sự thay đổi về chất thông qua các bước nhảy hết sức đa
dạng và phong phú. Nhìn chung, các bước nhảy thể hiện qua một số cách cơ
bản sau :
Bước nhảy đột biến và bước nhảy diễn ra một cách dần dần :
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian
rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Sự phân chia như vậy được dựa trên không chỉ thời gian của sự thay
đổi về chất, mà còn dựa trên cả tính chất của bản thân sự thay đổi đó. Những
bước nhảy đột biến, khi chất của sự vật được biến đổi một các nhanh chóng.
Chẳng hạn, sự chuyển hoá của các hạt cơ bản… Những bước nhảy được
thực hiện một cách dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con
đường tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những
nhân tố của chất cũ. Chẳng hạn, quá trình chuyển hoá từ vượn người thành
người… Như vậy, sự khác nhau giữa hai loại bước nhảy vừa nêu không chỉ
ở thời gian diễn ra sự thay đổi về chất, và cả ở cơ chế của sự thay đổi đó.
Khi nói về bước nhảy dần dần, ngoài nhân tố tốc độ, chúng ta còn nói đến cơ
chế của việc tạo ra chất mới. Ở đây, chất mới được tạo thành không phải
ngay lập tức, mà được tạo thành từng phần.
Mặt khác, cũng cần phân biệt bước nhảy dần dần với sự thay đổi dần
dần về lượng. Nhưng sự thay đổi dần dần về lượng diễn ra một cách liên tục
trong khuôn khổ của chất đang có; còn bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa
chất này sang chất khác, là sự đứt đoạn của tính liên tục, là bước ngoặt quyết
định trong sự phát triển.
Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ
Bước nhảy toàn bộ là loại bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các
mặt, các bộ phận, các nhân tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là loại

bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số nhân tố, một số bộ phận của sự
vật đó. Đối với các sự vật phức tạp về tính chất, về những nhân tố cấu trúc,
về những bộ phận cấu thành. Bước nhảy thường diễn ra bằng con đường từ
những thay đổi về chất cục bộ đến thay đổi về chất toàn bộ. Quá trình cách
mạng giải phóng dân tộc thủ tiêu chế độ thực dân (kiểu cũ) trên thế giới
cũng như quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa đã diễn ra theo con đường
như vậy.
Khi xem xét sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất trong xã hội,
điều quan trọng là phải chú ý tới độ sâu sắc và ý nghĩa của chúng. Xuất phát
từ cách tiếp cận đó, cả sự thay đổi về lượng lẫn sự thay đổi về chất có thể
phân ra thành những thay đổi mang tính cách mạng hay tính tiến hoá.
Cách mạng là sự thay đổi mà trong quá trình đó diễn ra sự phá huỷ
chất căn bản của sự vật, diễn ra sự cải tạo căn bản về chất của sự vật đó,
không phụ thuộc vào sự cải tạo đó được diễn ra như thế nào (diễn ra dưới
hình thức đột biến hay dần dần).
Tiến hoá là sự thay đổi, mà trong quá trình đó, chất cơ bản của sự vật
vẫn được duy trì.
4. Nhận thức và vận dụng nội dung quy luật
trong phát triển kinh tế việt nam từ 1985 đến
nay.
Bên Cạnh việc nhận thức về con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của
đất nước ta một cách đúng đắn cũng là việc nhận thức thấu đáo về sự phát
triển đất nước. Nên nước ta trong những năm qua có những đổi mới và phát
triển rõ rệt. Giữa thập niên 70, với nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lại
chiến tranh kéo dài tàn phá nặng nề, chủ yếu bằng việc cải tạo xã hội chủ
nghĩa, tổ chức lại sản xuất, mở rộng quy mô hợp tác xã, áp dụng mô hình
Chủ Nghĩa xã hội của Liên Xô, chúng ta đã bộc lộ tư tưởng chủ quan, nóng
vội, duy ý chí cả về trong lí luận lẫn trong chỉ đạo thực tiễn.
Năm 1982 đại hội Ⅴcủa Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận nền
kinh tế Việt Nam thời kì 1976-1980 là kết quả của việc sản xuất không

tương xứng với lao động và vốn đầu tư bỏ ra, những mất cân đối lớn của nền
kinh tế, thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được tiêu dùng xã hội trong khi
dân số tăng nhanh; thị trường vật giá tài chính không ổn định; đời sống nhân
dân lao động còn nhiều khó khăn. Vì thế từ năm 1982, Đảng quyết định Việt
Nam sẽ tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi công nghiệp là mặt trận
hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, kết hợp nông nghiệp, công
nghiệp hàng tiêu dùng,công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông
nghiệp hợp lí, tăng cường phân cấp cho địa phương trong công tác sản xuất
và quản lí sản xuất. Kinh tế quốc doanh vẫn dữ tinh thần chủ đạo, kinh tế gia
đình được khuyến khích. Thị trường bị quản lí chặt chẽ.
Tuy nhiên thời kì 1981-1985 kinh tế Việt Nam đã không thực hiện
được những mục tiêu trong nghị quyết đại hội Ⅴđề ra là cơ bản ổn định tình
hình kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh
giá-lượng-tiển cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế đất nước đến những khó
khăn mới. Nền kinh tế xã hội lâm vào khủng hoảng nặng nề, siêu lạm phát
xuất hiện và kéo dài. Sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục trì trệ, lương thực
không đủ dùng, các xí nghiệp luôn trong tình trạng lãi giả lỗ thật. Nhà nước
bao cấp tràn lan. Lưu thông phân phối ách tắc. Đời sống nhân dân khó khăn
đến cùng cực. Tiêu cực xã hội sinh sôi nảy nở. Nhân dân bất bình, họ cảm
thấy không thể tiếp tục sống như thế được nữa. Đảng và nhà nước cũng
không thể duy trì những chính sách và cơ chế như cũ. Khủng hoảng kinh tế
đã đến độ nguy hiểm. Chính thời điểm này là điểm nút của sự biến đổi về
“chất” sau một quá trình dài thay đổi và tích lũy đủ về “lượng”. Và bước
nhảy của sự biến đổi này được tạo nên do sự sáng tạo, nhận thức đúng đắn
của Đảng, nhà nước và nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới. Và điều đó
được nêu rõ trong đại hội VI tháng 12 năm 1968 mới: chuyển đổi nền kinh
tế nước ta từ mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp dựa trên chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là phát triển nền kinh

tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN nhưng được diễn đạt gọn hơn, nói rõ
được mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ.
Nói nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế
của chúng ta không phải là kinh tế hiện vật, tự cấp, tự túc, quản lý theo kiểu
tập trung, quan liêu, bao cấp. Nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị
trường tự do theo cách nói của tư bản, tức là không phải là nền kinh tế thị
trường TBCN, và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN, còn có
sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có lại vừa chưa có đầy
đủ các yếu tố CNXH. Cùng với CNH, HĐH đất nước, nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN là con đường kinh tế cơ bản đưa nước ta quá độ lên
CNXH.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, qua
đó tiềm năng của các thành phần kinh tế được khai thác để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời
sống nhân dân, đảm bảo xây dựng thành công CNXH.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu
khách quan, là sự nhận thức đúng đắn quy luật từ những thay đổi về lượng
sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Điều đó có nghĩa là khi chúng ta
chưa tích lũy được đầy đủ những điều kiện vật chất cho CNXH thì chúng ta
chưa thể nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất XHCN ngay như trước năm
1986 chúng ta đã làm, mà chúng ta phải tiến hành dần dần, hay nói cách
khác, chúng ta phải có một thời kỳ quá độ.
Đổi mới đường lối sáng tạo độc đáo, độc lập và tự chủ của Việt Nam.
Và cũng vì nhận thức đúng đắn việc thực hiện thành công quá trình đổi mới
trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ mang lại bước nhảy về chất trong
phạm vi tương ứng đó. Việc thực hiện thành công quá trình đổi mới toàn
diện tất cả các mặt của đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất của toàn
xã hội nói chung. Cũng như bất kỳ sự thay đổi của chất nào khác những

bước nhảy trong quá trình đổi mới cũng chỉ là quá trình thay đổi về lượng
thích hợp nên Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã nắm bắt được những thách
thức trong công cuộc đổi mới này để từ đó có những bước đi đúng đắn thể
hiện qua việc thực hiện các chỉ tiêu của các kỳ đại hội VII, VIII, IX.
Công cuộc 15 năm đổi mới của đất nước ta đã tạo được những thành
tựu to lớn. Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực nay đã sản
xuất đủ tự cung tự cấp, có dự trữ và còn xuất khẩu gạo. Khoán 10 được triển
khai trên quy mô toàn quốc càng khuyến khích nông dân sản xuất lúa, gạo
hàng hóa nhất là hàng tiêu dùng nhiều hơn và đa dạng hơn. Xuất khẩu tăng
mạnh, thâm hụt thương mại giảm. Từ năm 1989 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu
dầu thô, đem lại nguồn thu xuất khẩu lớn. Lạm phát được kiềm chế dần dần.
Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh
tổng hợp của quốc gia càng tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất
nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp. GDP tăng bình quân hàng
năm 7%, Giá sản lượng công nghiệp hằng năm 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ
tầng, bưu chính viễn thông đường xá, được tăng cường. Văn hóa xã hội có
những tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện. Tình hình kinh tế chính trị
xã hội cơ bản được ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường
Với những thành tựu đạt được nước ta sẽ có những tiền đề để bước
vào giai đoạn mới đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước,
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp theo định hướng xã hộ chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
để phát triển nhanh, có hiệu quả bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với
phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh
tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
Thực tiễn sau 15 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương xây dựng
kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với phát triển lực lượng sản xuất ở nước

ta. Nó đã thực sự giải phóng, phát triển và khơi dậy các tiềm năng của sản
xuất. Khơi dậy năng lực sáng tạo chủ động của các chủ thể kinh tế trong sản
xuất đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Như vậy, lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật,
chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất định mới làm thay đổi về
chất, nên trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thức khoa
học phải chú ý tích lũy dần dần những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết
thực hiện và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.
Thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH chính là bước nhảy dần dần từ
chất cũ sang chất mới. Trong quá trình tiến hóa cách mạng, một mặt phải
chống khuynh hướng bảo thủ, trì trệ, nhằm tạo ra những bước nhảy để đẩy
nhanh sự phát triển, mặt khác lại phải chống tư tưởng nóng vội, muốn đưa
nhanh sự phát triển, tiến hành những bước nhảy khi chưa có điều kiện chín
muồi, bất chấp những quy luật khách quan, giải quyết đúng đắn những vấn
đề do thực tiễn đặt ra.
5. Kết luận
Nhận thức là cả một quá trình, thông qua các hoạt động thực tiễn,
những yêu cầu và đòi hỏi của cuộc sống cùng với đó những phương thức
giải quyết cũng sẽ xuất hiện. Việc nhận thức và hiểu rõ được cơ sở lí luận
khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách
mạng của đảng cộng sản Việt Nam là một vấn đè quan trọng mà bất cứ một
công dân đặc biệt là thế hệ trẻ cần nắm vững. Trên cơ sở đó xây dựng thế
giới quan, phương pháp luận khoa học,nhân sinh quan cách mạng, xây dựng
niềm tin và lí tưởng cách mạng, vận dụng sáng tạo nó trong hoạt động nhận
thúc và thực tiễn, trong rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, đáp ứng yêu cầu của
con người Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định lấy chủ nghĩa mác-Lênin tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là
bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư tưởng lí luận. Những thành

tựu mà dân tộc Việt Nam đã đạt được trong chiến tranh giữ gìn độc lập,
trong hòa bình, xây dựng và trong sự nghiệp đổi mới đều bắt nguồn từ chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, chúng ta “phải kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-LêNin tư tưởng Hồ Chí Minh”, phải “vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa
mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt là vận dụng quy luật về mối
quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
trong quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc hiện nay”. Thường
xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lí luận giải quyết đúng đắn
những vấn đề do cuộc sống đặt ra.

×